Thực trạng sở hữu chéo ngân hàng

NHTMCP Á Châu hiện sở hữu 2,86% cổ phần tại Công ty cổ phần Bất động sản Hòa Phát - Á Châu

Sở hữu chéo giảm mạnh

Trong báo cáo gửi tới Quốc hội, Ngân hàng Nhà nước cho biết, vấn đề sở hữu chéo, đầu tư chéo trong hệ thống các tổ chức tín dụng đã được xử lý có hiệu quả, tình trạng cổ đông/nhóm cổ đông lớn, thao túng, chi phối ngân hàng được kiểm soát.

Cụ thể, nếu năm 2012, toàn hệ thống có 7 cặp tổ chức tín dụng sở hữu chéo trực tiếp lẫn nhau thì đến ngày 31/12/2019, tình trạng này đã được khắc phục hết.

Tình trạng sở hữu cổ phần trực tiếp lẫn nhau giữa ngân hàng và doanh nghiệp vẫn còn những giảm mạnh. Cụ thể, tại thời điểm tháng 6/2012, toàn hệ thống có 56 cặp sở hữu chéo, thì hiện nay chỉ còn 1 cặp. Trường hợp đó là Ngân hàng TMCP Á Châu và Công ty cổ phần Bất động sản Hòa Phát - Á Châu. Tỷ lệ sở hữu của Ngân hàng TMCP Á Châu tại Công ty cổ phần Bất động sản Hòa Phát - Á Châu là 2,86% và ngược lại là 0,046%.

Nợ xấu “kẹt” chủ yếu tại ngân hàng yếu kém

Thời gian qua, ngành ngân hàng đã nỗ lưc rất lớn trong xử lý nợ xấu. Tính đến cuối tháng 3/2020, nợ xấu nội bảng của toàn hệ thống là 1,77%. Tính từ năm 2012 đến cuối tháng 3/2020, toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý được hơn 1 triệu tỷ đồng nợ xấu [riêng năm 2019 xử lý được 159.700 tỷ đồng và 3 tháng đầu năm 2020 xử lý được 26.940 tỷ đồng]. 

Tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ bán cho Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam [VAMC] chưa xử lý và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu của hệ thống tổ chức tín dụng đến tháng 3/2020 ở mức 4,46%, giảm mạnh so với mức 10,08% cuối năm 2016, mức 7,36% cuối năm 2017 và mức 5,85% vào cuối năm 2018.

Về xử lý nợ xấu được xác định  theo Nghị quyết 42, lũy kế từ 15/8/2017 đến cuối tháng 3/2020, cả hệ thống tổ chức tín dụng đã xử lý được 299.800 tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42.

Về VAMC, sau gần 7 năm đi vào hoạt động, VAMC đã phát huy vai trò quan trọng trong việc mua, bán, xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng. Cụ thể, hoạt động mua nợ của VAMC góp phần quan trọng trong việc duy trì tỷ lệ nợ xấu của hệ thống tổ chức tín dụng ở mức dưới 3% trong suốt giai đoạn từ 2015 đến nay. Từ năm 2013 đến 31/3/2020, VAMC đã tmua 335.620 tỷ đồng, tương ứng với dư nợ gốc nội bảng là 367.406 tỷ đồng, trong đó số nợ xấu mua theo giá trị thị trường là 8.207 tỷ đồng.     

Mặc dù khối lượng nợ xấu xử lý được không nhỏ, song NHNN cho biết, công tác cơ cấu lại và xử lý nợ xấu của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc.

Thứ nhất, các ngân hàng thương mại nhà nước gặp khó khăn vướng mắc trong việc nâng cao năng lực tài chính thông qua tăng vốn điều lệ, cơ chế, chính sách, sự phối hợp của các Bộ, ngành trong quá trình xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém còn bất cập.

Thứ hai, nợ xấu đã xử lý được một bước quan trọng nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Đặc biệt, nợ xấu hiện đang tập trung chủ yếu ở các tổ chức tín dụng yếu kém, tuy nhiên chưa thể xử lý nhanh được do nhiều khoản nợ liên quan đến vụ án, hồ sơ pháp lý chưa hoàn chỉnh và khả năng trích lập dự phòng rủi ro của một số  tổ chức tín dụngcòn hạn chế.

Thứ tư, kinh tế thế giới và trong nước vẫn diễn biến phức tạp, ẩn chứa nhiều yếu tố bất ổn, đặc biệt tác động bất lợi từ dịch tả lợn Châu Phi, thiên tai, dịch bệnh Covid-19 đặt ra những thách thức không nhỏ đối với mục tiêu về kiểm soát nợ xấu cũng như các mục tiêu khác đặt ra tại Đề án 1058, tiềm ẩn nợ xấu tăng.

Riêng 4 ngân hàng yếu kém là 3 ngân hàng mua lại bắt buộc và Ngân hàng Đông Á [DAB],  Ngân hàng Nhà nước đã tập trung chỉ đạo 3 ngân hàng mua bắt buộc và DAB xây dựng, hoàn thiện phương án cơ cấu lại/phương án phục hồi, chủ động, tích cực tìm kiếm đối tác, đàm phán với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài có nguyện vọng tham gia cơ cấu lại. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước đã tích cực chỉ đạo các ngân hàng mua bắt buộc sắp xếp lại mạng lưới hoạt động, tiết giảm chi phí, triển khai các hoạt động kinh doanh an toàn... trên nguyên tắc quyết liệt, thận trọng, chặt chẽ. Trên cơ sở đó, Ngân hàng Nhà nước đã báo cáo các cấp có thẩm quyền về phương án xử lý 3 ngân hàng mua bắt buộc và DAB.

Sớm tăng vốn và hỗ trợ xử lý nợ xấu cho ngân hàng

Trong bối cảnh nợ xấu vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, Ngân hàng Nhà nước kiến nghị, Chính phủ và  Thủ tướng Chính phủ cần tiếp tục chỉ đạo sát sao quá trình triển khai nhiệm vụ cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng đặc biệt đối với các đề xuất của NHNN về phương án xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém.

Chỉ đạo Bộ Tài chính phối hợp chặt chẽ trong việc xử lý vấn đề tăng vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại quốc doanh, đảm bảo các ngân hàng này có đủ năng lực tài chính, hoạt động an toàn, lành mạnh, có điều kiện chia sẻ, hỗ trợ các doanh nghiệp khó khăn trong giai đoạn hiện nay.

Bên cạnh đó, cần có thêm các giải pháp hỗ trợ DNNVV, các hộ kinh doanh cá thể để phục hồi sản xuất kinh doanh, góp phần hạn chế nợ xấu để kịp thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân bị thiệt hại do ảnh hưởng của dịch Covid-19.

Với Quốc hội, Ngân hàng Nhà nước đề nghị Quốc hội sớm sửa đổi Nghị quyết số 25/2016/QH14 hoặc ban hành một Nghị quyết mới theo hướng cho phép sử dụng ngân sách nhà nước để tăng vốn điều lệ cho các ngân hàng thương mại quốc doanh [không bao gồm 3 ngân hàng mua bắt buộc].

Bên cạnh đó, tiếp tục hỗ trợ quá trình xử lý nợ xấu nói chung và xử lý nợ xấu theo quy định tại Nghị quyết số 42 nói riêng thông qua việc quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội dài hạn và hằng năm của đất nước.

Cuối cùng, Quốc hội nên xem xét đến khía cạnh xử lý nợ xấu khi quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia, đặc biệt là quy định liên quan đến thuế [nhất là trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp như hiện nay].

Phát biểu tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII về hoạt động ngân hàng, điều hành chính sách tiền tệ [CSTT], Thống đốc NHNN cho biết: Năm 2020 là một năm đặt ra nhiều thách thức với công tác quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.

Nhìn lại công tác điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng đã đạt được những thành tựu: Trước tiên, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ hiệu quả nhờ sự kiên định, chủ động, thận trọng và linh hoạt, từ đó góp phần kiểm soát lạm phát ở mức dưới 4% theo đúng mục tiêu của Quốc hội đề ra, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối.

Khi thực hiện các giải pháp để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, NHNN luôn thận trọng, không chủ quan với lạm phát, bởi vậy có các giải pháp để kiểm soát tiền tệ phù hợp. NHNN đã mua được một lượng lớn ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, gấp khoảng 3 lần so với cuối năm 2015.

Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng. Ảnh: Sbv.gov.vn.

Năm 2020, trước bối cảnh doanh nghiệp và người dân chịu tác động mạnh mẽ bởi đại dịch COVID-19, NHNN đã 3 lần cắt giảm lãi suất điều hành, là một trong những ngân hàng trung ương giảm lãi suất điều hành mạnh nhất so với các nước trong khu vực.

NHNN cũng đã kịp thời ban hành văn bản cho phép TCTD cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi vay và giữ nguyên nhóm nợ, giảm phí thanh toán. Cho vay tái cấp vốn đối với Ngân hàng Chính sách xã hội để người sử dụng lao động vay trả lương ngừng việc cho người lao động… Đây được coi là giải pháp kịp thời cho doanh nghiệp và người dân khó khăn trong việc trả nợ, không có đủ nguồn tiền để trả lương do sụt giảm nguồn thu.

"Kết quả cả giai đoạn 2016-2020, lạm phát bình quân luôn được kiểm soát ở mức dưới 4%. Mặt bằng lãi suất tương đối ổn định, lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên giảm 2,5%/năm kể từ năm 2017 đến nay. Tính chung, mặt bằng lãi suất cho vay trong 5 năm qua giảm 3,7% so với giai đoạn 2011-2015", Thống đốc nói.

Tiếp theo, NHNN đã điều hành tín dụng theo phương châm mở rộng đi đôi với an toàn, hiệu quả, phù hợp với chủ trương từng bước giảm dần tỷ lệ vốn đầu tư từ tín dụng ngân hàng, hỗ trợ đổi mới mô hình và nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế. 

Bình quân tín dụng tăng 15%/năm, riêng năm 2020 tăng 12,13%. Theo NHNN, điều hành tín dụng đã gắn với việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế và phù hợp với chủ trương từng bước giảm tỷ lệ cung cấp cho đầu tư phát triển từ kênh tín dụng ngân hàng [năm 2018, 2019, tín dụng tăng dưới 14% nhưng GDP vẫn tăng cao ở mức 7,08% và 7,02%].

Bà Hồng cho biết, cơ cấu tín dụng đã chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên [như tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp nông thôn chiếm gần 25%; doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm khoảng 20% tổng dư nợ nền kinh tế...]. Tín dụng của hệ thống ngân hàng ngày càng hướng đến kinh tế tư nhân, là động lực quan trọng của nền kinh tế. Từ năm 2016 đến nay, tín dụng đối với kinh tế tư nhân tăng nhanh cả về tốc độ và tỷ trọng. Tỷ trọng dư nợ tín dụng đối với kinh tế tư nhân/tổng dư nợ chiếm khoảng 90%, tốc độ tăng tín dụng đối với kinh tế tư nhân qua các năm đều cao hơn tăng trưởng tín dụng chung của nền kinh tế. 

Hoạt động thanh toán có những bước tiến vượt bậc cả về chất và lượng với nhiều sản phẩm, dịch vụ thanh toán mới, tiện ích và hiện đại dựa trên ứng dụng công nghệ thông tin.

Công tác cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu được thực hiện nghiêm túc, từng bước hiệu quả, đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng, tăng cường công tác thanh tra, giám sát, phòng chống rửa tiền để nâng cao tính minh bạch trong nền kinh tế.

Theo đó, đến hết năm 2019, 18 TCTD đã được NHNN chấp thuận áp dụng trước thời hạn tỷ lệ an toàn vốn; hoàn thành vượt mức chỉ tiêu 12-15 TCTD đạt chuẩn Basel II về an toàn vốn vào năm 2020. "Vấn đề sở hữu chéo, đầu tư chéo trong hệ thống các TCTD đã được xử lý có hiệu quả, tình trạng cổ đông/nhóm cổ đông lớn thao túng, chi phối ngân hàng được kiểm soát; Số cặp TCTD sở hữu chéo trực tiếp lẫn nhau đến nay đã khắc phục hết", Thống đốc nhấn mạnh. 

Các giải pháp xử lý nợ xấu được triển khai đồng bộ theo Nghị quyết 42 cùng với các biện pháp kiểm soát, phòng ngừa nợ xấu mới phát sinh đã góp phần nâng cao chất lượng tín dụng và giảm tỷ lệ nợ xấu của hệ thống các TCTD.

Thông tin về định hướng điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng giai đoạn 2021-2025, Thống đốc NHNN cho biết một số điểm nổi bật:

NHNN sẽ tiếp tục kiên định mục tiêu kiểm soát lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Cải thiện chất lượng đầu vào cho hoạch định chính sách [nâng cao chất lượng thống kê, phân tích, dự báo], chủ động, thận trọng và linh hoạt điều hành các giải pháp và công cụ CSTT, phối hợp chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác, nhất là chính sách tài khoá để ứng phó linh hoạt, tăng sức chống chịu của nền kinh tế trước những biến động của kinh tế, tiền tệ thế giới. Tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước khi điều kiện thị trường thuận lợi, tạo dự trữ đệm để chống đỡ khi có các cú sốc xảy ra, góp phần tăng tính độc lập tự chủ của nền kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Thực hiện đồng bộ các biện pháp chuyển quan hệ huy động vốn và cho vay ngoại tệ giữa TCTD với khách hàng vay sang quan hệ mua bán ngoại tệ để tiếp tục giảm tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế; Triển khai lộ trình từng bước tự do hóa giao dịch vốn của Việt Nam một cách thận trọng, phù hợp. Tiếp tục triển khai các giải pháp quản lý thị trường vàng theo Nghị định số 24/2012/NĐ-CP của Chính phủ; Tiếp tục thực hiện các biện pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân, hỗ trợ nền kinh tế phục hồi sau đại dịch COVID-19, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.

Tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của TCTD, đặc biệt là đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao. Theo dõi, nắm bắt kịp thời các diễn biến bất thường có nguy cơ rủi ro để kiến nghị, khuyến nghị, cảnh báo TCTD xử lý kịp thời nhằm ngăn ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động của TCTD. Thường xuyên cảnh bảo rủi ro, ngăn chặn khả năng phát sinh vi phạm, tập trung thanh tra có trọng tâm, trọng điểm, đảm bảo hệ thống hoạt động an toàn, lành mạnh, chủ trì phối hợp với các bộ, ngành thực hiện tốt công tác phòng chống rửa tiền, tăng tính minh bạch đối với các giao dịch trong nền kinh tế, góp phần phòng chống tội phạm, bảo vệ an ninh tiền tệ quốc gia.

Tiếp tục giám sát chặt chẽ và chỉ đạo các TCTD triển khai quyết liệt, hiệu quả phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu đã được phê duyệt. Tập trung chỉ đạo cơ cấu lại các TCTD yếu kém bằng các hình thức phù hợp với cơ chế thị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống các TCTD. Tham mưu các cấp có thẩm quyền việc ban hành và triển khai thực hiện Đề án cơ cấu lại các TCTD giai đoạn 2021-2025. Thực hiện đề án tái cơ cấu gắn với xử lý nợ xấu, nâng cao trình độ quản trị hoạt động, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng.

Cuối cùng là yêu cầu hoàn thiện thể chế pháp luật ngân hàng, trong đó trọng tâm là tổng kết, nghiên cứu khả năng sửa đổi, bổ sung Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng; Luật Bảo hiểm tiền gửi; Luật Phòng chống rửa tiền tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng, tăng cường thực thi các cam kết quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng.

Video liên quan

Chủ Đề