Vô hiệu quả kinh tế là gì

Câu hỏi: Làm rõ ngoại ứng tích cực/tiêu cực và sự vô hiệu quả kinh tế. [giải thích, chứng minh bằng đồ thị]

  1. Ngoại ứng tích cực là những lợi ích mà bên này tạo ra cho bên kia mà không nhận được thù lao
  2. Ngoại ứng tiêu cực là khi hoạt động của một bên áp đặt chi phí cho các bên khác mà chưa phải chịu trách nhiệm bồi hoàn
  • Ngoại ứng là những tác động đến các lợi ích của chi phí nằm ở bên ngoài thị trường
  • Yếu tố ngoại ứng xuất hiện khi 1 quyết định SX hoặc tiêu dùng của 1 hoặc 1 số cá nhân tác động trực tiếp đến việc SX hoặc tiêu dùng của người khác mà không thông qua giá cả thị trường.
  • Ngoại ứng bao gồm ngoại ứng tích cực và ngoại ứng tiêu cực: [Ngoại ứng có thể tạo ra tác động tích cực hoặc tiêu cực cho những người khác, dẫn đến sự chênh lệch giữa chi phí hoặc lợi ích cá nhân với chi phí hoặc lợi ích XH, bởi vì không có hoạt động thị trường nào có thể chi phối được ngoại ứng]

#1. Ngoại ứng tích cực  là những lợi ích mà bên này tạo ra cho bên kia mà không nhận được thù lao

VD: Giả sử không có ngoại ứng tiêu cực, đối với một doanh nghiệp trồng rừng

Đồ thị ngoại ứng tích cực

MSB: lợi ích cận biên của XH MEB: lợi ích cận biên ngoại ứng MPB: lợi ích của doanh nghiệp MSB=MPB+MEB   Tại A, chưa tính đến MEB -> SX tại Q1 Tại B, đã tính đến MEB -> khuyến khích tăng từ Q1 lên Q2 Tam giác ABC chính là ảnh hưởng ngoại ứng tích cực mang lại

Trong quá trình tạo ra rừng, doanh nghiệp đã làm lợi cho con người.

Khi đó, những lợi ích mà cộng đồng được hưởng được gọi là lợi ích cận biên ngoại ứng MEB

Cùng 1 khoảng chi phí bỏ ra trồng rừng thì lợi ích XH: MSB=MPB+MEB

  • Theo quan điểm của XH,  để có được lợi ích này với chi phí P1 thì sản lượng phải là Q1 doanh nghiệp sẽ sản xuất quá ít rừng
  • Nếu với sản lượng Q1, chí phí XH là P1 tức là P1>P2
    => Với ngoại ứng tích cực, XH luôn mong doanh nghiệp SX nhiều hơn hoặc phải có chính sách hỗ trợ phát triển [P1-P2]

Diện tích tam giác ABC là phần lợi ích XH được hưởng không do doanh nghiệp bỏ ra

==> Hoạt động phát triển doanh nghiệp tạo ra rất nhiều lợi ích nhưng lại không thu hết được -> đó là vô hiệu quả kinh tế.

#2. Ngoại ứng tiêu cực là khi hoạt động của một bên áp đặt chi phí cho các bên còn lại mà chưa phải chịu trách nhiệm bồi hoàn

VD: 1 doanh nghiệp luyện kim đã xả nước độc ra sông mà không phải chịu một chi phí nào [phân tích: đối tác là ngư dân; đổ nước độc -> sông ô nhiễm->cá chết->giảm thu nhập ngư dân+gây bệnh cho những nhà quanh sông->chi phí đi khám => tổn thất doanh nghiệp đã áp đặt chi phí cho ngư dân và cáchooj tiêu dùng khi đưa ra quyết định SX của mình]

Đồ thị ngoại ứng tiêu cực

MPC_chi phí cận biên của doanh nghiệp MSC_chi phí cận biên của XH do có ảnh hưởng ngoại ứng MEC_chi phí cận biên của ngoại ứng

MEC dốc lên từ 0 vì không sản xuất nên không có ảnh hưởng

  • Tại B, chưa tính đến MEC -> SX là Q1, P1; lúc này, doanh nghiệp áp đặt chi phí lên người dân làm nghề cá mà chưa phải chịu trách nhiệm bồi hoàn.
  • Tại A, đã tính đến MPC, SX tại Q2 và P2

Xét về mặt XH, để có thép thì chi phí mà XH phải bỏ ra là MSC=MPC+MEC

Trên đường doanh nghiệp chấp nhận giá, nếu sản phẩm vẫn bán tại P1, sản lượng mà XH mong muốn phải là Q2 => Q2 sự vô hiệu quả kinh tế

#3. Bản chất của sự vô hiệu quả kinh tế:

Bản chất sự vô hiệu quả kinh tế chính là định giá sản phẩm chưa được thỏa đáng vẫn còn chi phí nằm ngoài thị trường. Bởi vậy vẫn tạo ra 1 chút lợi thế cho hoạt động SX và là cớ sở kích thích đầu tư và vấn để môi trường ngày càng ô nhiễm trầm trọng

Để tiến hành bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng đều phải tập hợp các phương tiện vật chất cũng  như con người và thực hiện sự kết hợp giữa lao động với các yếu tố vật chất để tạo ra kết quả phù hợp với ý đồ của doanh nghiệp và từ đó có thể tạo ra lợi nhuận. Như vậy, mục tiêu bao trùm lâu dài của kinh doanh là tạo ra lợi nhuận, tối đa hóa lợi nhuận trên cơ sở những nguồn lực sản xuất sẵn có. Để đạt được mục tiêu này,  quản trị doanh nghiệp phải sử dụng nhiều phương pháp khác nhau. Hiệu quả kinh doanh là một trong các công cụ để các nhà quản trị thực hiện chức năng quản trị của mình. Việc xem xét và tính toán hiệu quả kinh doanh không những chỉ cho biết việc sản xuất đạt được ở trình độ nào mà còn cho phép các nhà quản trị phân tích, tìm ra các nhân tố để đưa ra các biện pháp thích hợp trên cả hai phương diện tăng kết quả và giảm chi phí kinh doanh, nhằm nâng cao hiệu quả. Bản chất của phạm trù hiệu quả đã chỉ rõ trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất: trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất càng cao, doanh nghiệp càng có khả năng tạo ra kết quả cao trong cùng một nguồn lực đầu vào hoặc tốc độ tăng kết quả lớn hơn so với tốc độ tăng việc sử dụng các nguồn lực đầu vào. Đây là điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp đạt mục tiêu lợi nhuận tối đa. Do đó xét trên phương diện lý luận và thực tiễn, phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh đóng vai trò rất quan trọng việc đánh giá, so sánh, phân tích kinh tế nhằm tìm ra một giải pháp tối ưu nhất, đưa ra phương pháp đúng đắn nhất để đạt mục tiêu lợi nhuận tối đa. Với tư cách một công cụ đánh giá và phân tích kinh tế, phạm trù hiệu quả không chỉ được sử dụng ở giác độ tổng hợp, đánh giá chung trình độ sử dụng tổng hợp các nguồn lực đầu vào trong phạm vi hoạt động của toàn doanh nghiệp, mà còn được sử dụng để đánh giá trình độ sử dụng từng yếu tố đầu vào ở phạm vi toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như ở từng bộ phận cấu thành của doanh nghiệp. Và như đã lưu ý, do phạm trù hiệu quả có tầm quan trọng đặc biệt nên trong nhiều trường hợp người ta coi nó không phải chỉ như phương tiện để đạt kết quả cao mà còn như chính mục tiêu cần đạt.

Sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai sẽ không thành vấn đề bàn cãi nếu nguồn  tài nguyên không hạn chế. Người ta có thể sản xuất vô tận hàng hóa, sử dụng  thiết bị máy móc, nguyên vật liệu, lao động một cách không khôn ngoan cũng chẳng sao nếu nguồn tài nguyên là vô tận. Nhưng thực tế, mọi nguồn tài nguyên trên trái đất như đất đai, khoáng sản, hải sản, lâm sản, ... là một phạm trù hữu hạn và ngày càng khan hiếm và cạn kiệt do con người khai thác và sử dụng chúng. Trong khi đó một mặt, dân cử ở từng vùng, từng quốc gia và toàn thế giới ngày càng tăng và  tốc độ tăng dân số cao làm cho sự tăng dân số rất lớn và mặt khác, nhu cầu tiêu dùng vật phẩm của con người lại là phạm trù không có giới hạn: không có giới hạn ở sự phát triển các loại cầu và ở từng loại cầu thì cũng không có giới hạn – càng nhiều, càng phong phú, càng có chất lượng cao càng tốt. Do vậy, của cải đã khan hiếm lại càng khan hiếm và ngày càng khan hiếm theo cả nghĩa tuyệt đối và tương đối của nó. Khan hiếm đòi hỏi và bắt buộc con người phải nghĩ đến việc lựa chọn kinh tế, khan hiếm tăng lên dẫn đến vấn đề lựa chọn kinh tế tối ưu ngày càng phải đặt ra nghiêm túc, gay gắt. Thực ra, khan hiếm mới chỉ là điều kiện cần của sự lựa chọn kinh tế, nó buộc con người “phải” lựa chọn kinh tế vì lúc đó dân cư còn ít mà của cải trên trái đất lại rất phong phú, chưa bị cạn kiệt vì khai thác, sử dụng. Khi đó, loài người chỉ chú ý phát triển kinh tế theo chiều rộng: tăng trưởng kết quả sản xuất trên cơ sở gia tăng các yếu tố sản xuất: tư liệu sản xuất, đất đai,...

Điều kiện đủ cho sự lựa cho kinh tế là cùng với sự phát triển của kỹ thuật sản xuất thì càng ngày người ta càng tìm ra nhiều phương pháp khác nhau để chế tạo sản phẩm. Kỹ thuật sản xuất phát triển cho phép với cùng những nguồn lực đầu vào nhất định người ta có thể tạo ra rất nhiều loại sản phẩm khác nhau. Điều này cho phép các doanh nghiệp có khả năng lựa chọn kinh tế: lựa chọn sản xuất kinh doanh sản phẩm [cơ cấu sản phẩm] tối ưu. Sự lựa chọn đúng đắn sẽ mạng lại cho doanh nghiệp hiệu quả kinh doanh cao nhất, thu được nhiều lợi ích nhất. Giai đoạn phát triển kinh tế theo chiều rộng kết thúc và nhường chỗ cho sự phát triển kinh tế theo chiều sâu: sự tăng trưởng kết quả kinh tế của sản xuất chủ yếu nhờ vào việc cải tiến các yếu tố sản xuất về mặt chất lượng, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới, công nghệ mới, hoàn thiện công tác quản trị và cơ cấu kinh tế...,  nâng cao chất lượng các hoạt động kinh tế. Nói một cách khái quát là nhờ vào sự nâng cao hiệu quả kinh doanh.

 Nhự vậy,  nâng cao hiệu quả kinh doanh tức là đã nâng cao khả năng sử dụng các nguồn lực có hạn trong sản xuất, đạt được sự lựa chọn tối ưu. Trong điều kiện khan hiếm các nguồn lực sản xuất thì nâng cao hiệu quả kinh doanh là điều kiện không thể không đặt ra đối với bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào.

Tuy nhiên sự lựa chọn kinh tế của các doanh nghiệp trong các cơ chế kinh tế khác nhau là không giống nhau. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, việc lựa chọn kinh tế thường không đặt ra cho cấp doanh nghiệp. Mọi quyết định kinh tế: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai? đều được giải quyết từ một trung tâm duy nhất. Doanh  nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình theo sự chỉ đạo từ trung tâm đó và vì thế mục tiêu cao nhất của doanh nghiệp là hoàn thành kế hoạch nhà nước giao. Do những hạn chế nhất định của cơ chế kế hoạch hóa tập trung mà không phải chỉ là vấn đề  các doanh nghiệp ít quan tâm tới hiệu quả hoạt động kinh tế của mình mà trong nhiều trường hợp các doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch bằng mọi giá.

Hoạt động kinh doanh trong cơ chế kinh tế thị trường, môi trường cạnh tranh gay gắt, nâng cao hiệu quả kinh doanh của hoạt động sản xuất là điều kiện tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp.

Trong cơ chế kinh tế thị trường, việc giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai dựa trên quan hệ cung cầu, giá cả thị trường, cạnh tranh và hợp tác. Các doanh nghiệp phải tự ra các quyết định kinh doanh của mình, tự hạch toán lỗ lãi, lãi nhiều hưởng nhiều, lãi ít hưởng ít, không có lại sẽ đi đến phá sản. Lúc này, mục tiêu lợi nhuận trở thành một trong những mục tiêu quan trọng nhất, mang tính chất sống còn của sản xuất kinh doanh.

Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường thì các doanh nghiệp phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Môi trường cạnh tranh này ngày càng  gay gắt, trong cuộc cạnh tranh đó có nhiều doanh nghiệp trụ vững, phát triển sản xuất, nhưng không ít doanh nghiệp đã thua lỗ, giải thể, phá sản. Để có thể trụ lại trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp luôn phải nâng cao chất lượng hàng hóa, giảm chi phí sản xuất, nâng cao uy tín... nhằm tới mục tiêu tối đa lợi nhuận. Các doanh nghiệp phải có được lợi nhuận và đạt được lợi nhuận càng cao càng tốt. Do vậy, đạt hiệu quả kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh luôn là vấn đề được quan tâm của doanh nghiệp và trở thành điều kiện sống còn để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển trong nền kinh  tế thị trường.

Video liên quan

Chủ Đề