Cô giáo đầu tiên của nước ta là ai

Dưới thời phong kiến ở Việt Nam, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã không cho giới nữ được bình đẳng với nam giới, kể cả việc học hành, thi cử. Vậy mà có một người con gái tài sắc, đức độ, trí tuệ trác việt đã vượt qua luật lệ khắt khe đó, đạt tới học vị tiến sĩ. Bà là Nguyễn Thị Duệ, được người dân ca tụng là “Bà Chúa Sao Sa”, người phụ nữ đầu tiên và duy nhất đỗ tiến sĩ trong thời đại phong kiến nước nhà.

Nữ Tiến sĩ đầu tiên trong lịch sử khoa bảng Việt Nam

Hiện chưa rõ gia thế của Bà. Nhưng tương truyền, bà Nguyễn Thị Duệ sinh năm 1574, trong một gia đình nhà nho nghèo, có truyền thống hiếu học tại làng Kiệt Đặc, nay thuộc xã Văn An, Chí Linh, Hải Dương. Vốn là người thông minh, có nhan sắc nên mới hơn 10 tuổi, bà đã được nhiều nhà quyền quí đến xin hỏi cưới, nhưng bà không thuận. Năm 1592, Trịnh Tùng đem quân đánh chiếm kinh thành Thăng Long, nhà Mạc rút chạy lên Cao Bằng, bà Nguyễn Thị Duệ cũng theo gia đình lên đó sinh sống. 

Người dân Hải Dương đến nay vẫn kể cho nhau nghe những câu chuyện về tài năng của bà Duệ. Năm 10 tuổi Bà đã biết làm văn bài, được bà con trong làng vô cùng kính phục. Là một người hiếu học, song luật lệ bấy giờ không cho phép con gái được học hành thi cử, bà Nguyễn Thị Duệ phải giả trai để đèn sách đi thi. Năm Giáp Ngọ [1594] nhà Mạc mở khoa thi Hội, sĩ tử tham dự rất đông, Bà đỗ thủ khoa, trong khi chính thầy dạy chỉ đỗ á khoa. Vậy là, tròn 20 tuổi Bà trở thành nữ tiến sĩ đầu tiên và duy nhất của khoa cử phong kiến Việt Nam.

Trong buổi Ngự yến đãi các tân khoa, vua Mạc Kính Cung thấy vị tiến sĩ trẻ tuổi, dáng mảnh mai, mặt mày thanh tú sinh lòng ngờ vực. Nhà vua liền xét hỏi và phát hiện bà giả trai. Nhưng bà Nguyễn Thị Duệ không những không bị khép tội còn được vua khen ngợi. Cảm phục tài năng, vua Mạc còn mời Bà vào cung để dạy các phi tần rồi tuyển làm phi, phong là Tinh Phi có nghĩa là Bà Chúa Sao, ngụ ý khen Bà vừa xinh đẹp vừa sáng láng như một vì sao.

Năm 1625, quân Lê - Trịnh tiến lên Cao Bằng diệt nhà Mạc. Bà vào rừng ẩn náu trong một ngôi chùa nhỏ, bị quân lính bắt được. Bà cầm thanh gươm trên tay khảng khái nói: "Các ngươi bắt được ta thì phải đưa ta đến nộp chúa của các ngươi, nếu vô lễ thì với lưỡi gươm này ta sẽ tự tử". Cảm phục khí tiết của Bà, quân Trịnh bèn giải Bà về kinh nộp cho chúa Nghị Vương. Nghe tiếng tăm của bà Nguyễn Thị Duệ, chúa Trịnh rất sủng ái, phong cho Bà chức Cung Trung Giáo Tập, rồi Lễ Nghi Học Sĩ để trông coi việc dạy học trong vương phủ. Người dân tôn sùng gọi bà là Nghi ái Quan.

Công trạng để đời

Bà Nguyễn Thị Duệ không chỉ là nữ tiến sĩ duy nhất của khoa bảng phong kiến Việt Nam mà Bà còn có nhiều đóng góp cho nền giáo dục đương thời. Bà rất quan tâm đến việc thi cử, bồi dưỡng nhân tài cho quốc gia. Phần lớn các kỳ thi Đình, thi Hội, tất cả bài vở đều qua tay bà chấm chọn. Bà thường viện dẫn nghĩa lý kinh sử, sự tích cổ kim rành mạch. Các biểu sớ, văn bài thi Đại khoa chúa đều nhờ Bà khảo duyệt lại.

Hiện nay, dân gian vẫn còn lưu truyền giai thoại về Bà. Năm Đức Long thứ 3 [vua Lê Thần Tông], Bà làm Giám khảo kỳ thi Tiến sĩ [1631], được tổ chức tại làng Mao Điền, Hải Dương, có rất nhiều sĩ tử dự thi, trong đó có sĩ tử Nguyễn Minh Triết [sau gọi là Nguyễn Thọ Xuân - PV] quê tại Hải Dương. Bài thi gồm 12 câu mà trò Triết chỉ làm 4 câu, nhưng 4 câu cực kỳ xuất sắc. Các quan không nỡ đánh trượt, bèn tâu lên vua, vua Lê bèn hỏi ý kiến bà Duệ. Sau khi đọc bài, Bà thấy hay bèn tâu vua: "Bài văn làm được 4 câu mà hay còn hơn làm hết 12 câu mà không hay, triều đình cần người thực tài chứ không cần kẻ nịnh bợ". Nhà vua cảm phục, bèn chấm cho Nguyễn Minh Triết đỗ Tiến sĩ Khoa Tân Mùi.

Bà Nguyễn Thị Duệ được coi là người khởi đầu hình thức đào tạo từ xa của đất nước. Bà soạn ra các bộ đề thi rồi gửi về địa phương để tổ chức thi. Sau khi kết thúc, bài thi sẽ được gửi lên cho Bà chấm, kết quả được gửi trở lại các địa phương. Bà cũng khuyến khích phong trào học tập, giúp đỡ học trò nghèo hiếu học, đề cao các nhân tài giúp nước. Đó là hình thức khuyến học đầu tiên của nước ta.

Là một vị quan thanh liêm, bà Nguyễn Thị Duệ thương dân như con. Khi đất nước gặp thiên tai, địch họa, Bà xin triều đình phát chẩn cứu đói, cấp nhiều mẫu ruộng tốt, canh tác lấy hoa lợi. Người ta còn truyền tụng, thuở hàn vi, anh trai bà Nguyễn Thị Duệ bị người trong làng hãm hại. Mặc dù vậy khi vinh hiển, Bà không hề để ý đến tư thù. Nhân dân rất cảm phục tài năng và đức độ, nên xưng tụng bà là  “Nghiêu, Thuấn trong phái nữ, thần tiên ở trên đời”. 

Một lần dự yến tiệc trong Hoàng cung, Bà quen với hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc [vợ vua Lê Thần Tông]. Từ đấy, hai bà trở thành đôi bạn tri kỷ. Hàng tháng, bà cùng Hoàng hậu đi lễ chùa để gặp các nhà tu hành cũng là những người học nhiều, biết rộng, gặp gỡ các sĩ phu Bắc hà - những nhà chân nho thực tài như Thám hoa Giang Văn Minh, Thám hoa Phượng Thế Hiền... nên biết được tình hình trong nước và những bất bình trong dân. Bà không chỉ giúp vua kịp thời điều chỉnh chính sách an dân mà còn khôn khôn khéo khuyên họ bớt xa xỉ, trừng trị nghiêm bọn tham quan, cường hào  nhằm thu phục lòng tin yêu của dân.

Sinh thời, bà Nguyễn Thị Duệ viết nhiều văn thơ, nhưng trải qua những biến động của lịch sử nên bị thất lạc. Về già, Bà xuất gia đi tu ở chùa Vụ Nông, hạt Gia Lâm, lấy hiệu Diệu Huyền. Bà Nguyễn Thị Duệ thọ hơn 80 tuổi. Sau khi mất, Bà được triều đình ban sắc phong, cho đúc tượng, dựng bảo tháp, khắc bia, người dân địa phương lập đền thờ, tôn bà làm Phúc thần.

Tháp mộ bà Nguyễn Thị Duệ được đặt trên đỉnh một quả đồi cạnh núi Phượng Hoàng tại Chí Linh, Hải Dương. Cuối triều Lê, Tinh Phi cổ tháp được xếp vào hàng Chí Linh bát cổ. Đình làng Kiệt Đoài thờ Vua Bà là bà Nguyễn Thị Duệ [pho tượng và sắc phong thờ phụng “Chánh vương phủ, thị nội cung tần, lế sư Nguyễn Thị Ngọc tôn thần. Người có công giúp nước, che chở cho dân...”]. Đền làng Trung Hà, xã Nam Tân, huyện Nam Sách cũng thờ tượng “Bà Chúa Sao Sa” và một sắc phong.  Trong Hậu cung Văn Miếu Mao Điền ở Hải Dương, Bà được thờ cùng Khổng Tử và bảy vị Đại khoa danh tiếng của Việt Nam là Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, thần toán Vũ Hữu, nhà giáo Chu Văn An, Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, Nhập nội Hành khiển Phạm Sư Mạnh và danh y Tuệ Tĩnh.

Ngô Chi Lan [吳芝蘭; 1434 - 1497], biểu tự là Quỳnh Hương [瓊香][1], thường được gọi là Kim Hoa nữ học sĩ [金華女學士] hoặc Phù Gia nữ học sĩ [苻家女學士], là một nữ sĩ dưới triều Lê Thánh Tông trong lịch sử Việt Nam.

Ngô Chi Lan
吳芝蘭Hậu Lê Đại học sĩ Thông tin chungSinh1434Mất1497Tước hiệu[Nữ Học sĩ; 女學士]Hoàng tộcNhà Hậu LêThân phụNgô Khế

Bà là chị em họ với Lê Thánh Tông, cháu gái của Quang Thục Hoàng thái hậu, thân phận rất cao quý. Thuở ban đầu của nền văn học Việt Nam, Ngô Chi Lan là một nữ sĩ tài năng và là một trong những nữ nhà thơ đầu tiên, có vai trò quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam.

Ngô Chi Lan là người làng Phù Lỗ [tục gọi làng Sọ], huyện Kim Hoa [sau đổi là Kim Anh], trấn Kinh Bắc. Vùng đất này trước đây gọi là xã Phù Lỗ, huyện Kim Anh, tỉnh Phúc Yên; từ năm 1978 đến nay đổi thành huyện Sóc Sơn, thuộc ngoại thành Hà Nội.

Theo “Lịch sử họ Ngô Việt Nam” do tác giả Ngô Đức Thắng chủ biên thì Ngô Chi Lan là con gái của Thanh Quốc công Ngô Khế, một công thần triều Lê. Ông là em trai Quang thục Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao, con Diên ý Dụ vương Ngô Từ và là cậu ruột của vua Lê Thánh Tông. Khi người cô này được tuyển vào cung, lúc ấy Ngô Chi Lan tuổi hãy còn nhỏ nhưng cũng được đi theo hầu. Đến khi Ngô Tiệp dư mang thai, trong nội cung xảy ra lắm chuyện lục đục, Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ phải đưa Ngô Tiệp dư đi trốn, thì Ngô Chi Lan cũng được vợ chồng này đem về cho ở trong nhà, nhận làm con nuôi, cải thành họ Nguyễn và đổi tên là Hạ Huệ [夏慧].

Năm 1442, bị vu tội trong Vụ án Lệ Chi Viên, cha mẹ nuôi phải nhận án tử hình. Ngô Chi Lan liền cải dạng, đổi lại tên thật, trốn đi ở nhiều nơi, cho đến khi Lê Thánh Tông lên ngôi, bà mới dám trở về[2].

Bà nổi tiếng đẹp người, đẹp nết, giỏi thi ca, thông hiểu âm nhạc và viết chữ đẹp. Chính vì vậy, mà bà được Quang Thục Hoàng thái hậu yêu chiều và vua Lê Thánh Tông mến mộ lắm, ban hiệu là Kim Hoa nữ học sĩ [金華女學士]; cho dự nhiều cuộc xướng họa thơ văn, và cho bà đảm đương việc dạy lễ nghi và văn chương cho các cung nhân.

Chồng của bà là Phù Thúc Hoành [苻儵閎], người làng Phù Xá, tuy không đỗ đạt, nhưng nhờ tài văn chương, ông được cử làm Giáo thụ [教授] chuyên giảng Kinh Dịch ở trường Quốc Tử Giám, sau chuyển sang Viện Hàn lâm, thụ chức Đông các Đại học sĩ [東閣大學士]. Hiện ông còn hai bài thơ chữ Hán được chép trong Trích diễm thi tập của danh sĩ Hoàng Đức Lương. Buổi ấy, vợ chồng bà kết giao với nhiều bạn thơ ở chốn kinh kỳ và thường tổ chức những buổi gặp gỡ bình luận văn chương. Tuy nhiên do danh tiếng của Ngô Chi Lan vang xa, mà Phù Thúc Hoành vốn xuất thân hàn vi, không đỗ đạt, nên nhiều người làm câu thơ có ý mỉa mai hai người rằng:

"Ông tơ lắm nỗi đa đoan

Xe tơ lại khéo vơ quàng, vơ xiên."

Họ than rằng đẹp người, đẹp nết như Ngô Chi Lan mà qua mai mối lại lấy phải anh chồng quê mùa, dốt nát tên là Phù Thúc Hoành, người làng Phù Xá cùng huyện. Mặc cho miệng lưỡi thiên hạ, Ngô Chi Lan không bận tâm mà vẫn một lòng yêu thương chồng, làm hết phận sự của một người vợ. Ngày ngày bà đóng cửa dạy chồng học, khuyên chồng cố gắng phấn đấu để cho mọi người thấy, nếu kiên trì nhẫn nại thì việc gì cũng có thể làm được. Nhờ sự hết lòng ấy, mà ông Phù ngày càng học hành tấn tới, mới có cơ hội được cử làm Giáo thụ và Đông các Đại học sĩ. Sau này Phù Thúc Hoành trở thành một hiền giả, một đại học sĩ có tiếng, hoàn toàn đủ tư cách sánh đôi với nữ sĩ tài năng Ngô Chi Lan.

Nữ sĩ Ngô Chi Lan mất năm Đinh Tỵ [1497]. Để tỏ lòng tiếc thương và ngưỡng mộ bà, nhân dân Phù Lỗ đã dựng đền thờ với tên đề "Kim Hoa nữ học sĩ". Ngôi đền đó hiện nay được đặt ngay trên nền nhà ở ngày xưa của gia đình nữ sĩ.

Tương truyền, mỗi khi Thánh Tông hoàng đế có buổi đi du ngạn, hoặc dự yến tiệc ở bất cứ nơi đâu, Kim Hoa nữ học sĩ Ngô Chi Lan đều phải mang nghiên bút theo chầu hầu. Vì có biệt tài sáng tác rất nhanh, nên khi xuất khẩu, lúc phóng bút, ít khi bà phải sửa chữa, dù chỉ là một chữ[3].

Vịnh Thanh Dương môn

Có lần Hoàng đế đi dạo, dừng chân thưởng ngoạn tại Thanh Dương Môn, chợt thấy làn mây biếc là đà trên mái điện bèn sai quan thị tùng họ Nguyễn làm từ vịnh cảnh. Khi từ khúc Uyên ương dâng lên, Thánh Tông không vừa ý và truyền ngay nữ học sĩ họ Ngô làm bài khác. Ngô Chi Lan vâng mệnh rồi nhón tay thảo luôn một chương, trong đó có hai câu kết rất đắc vị.

Điện ngọc ngói mời mây biếc phủ; Cẩm Giang sóng lụa sắc hồng dâng;

Nghe xong, Thánh Tông lấy làm đắc ý, khen tài văn hay chữ tốt của nữ học sĩ nhà họ Phù, từ đó ban hiệu là Phù gia nữ học sĩ [苻家女學士], thưởng cho năm đĩnh huỳnh kim.

Đề Vệ Linh sơn

Đến một buổi tối, bà được Ngô Thái hậu cho tháp tùng du ngoạn trên núi Vệ Linh [tức núi Sóc, thuộc xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn ngày nay]. Dạt dào trước sự tích đức Thánh Gióng, đệ nhị Tứ bất tử trên thần điện của người Việt, nữ sĩ cảm tác nên bài tứ tuyệt:

Nguyên văn chữ Hán 題衛靈山衛靈春秋白雲閒 萬紫千紅艷世間 銕馬在天名在史 英熊凜凜滿茳山 Phiên âm: Đề Vệ Linh SơnVệ Linh cây cỏ lẫn mây ngàn Muôn tía nghìn hồng đẹp thế gian Ngựa sắt lên trời tên rạng sử Anh hùng mãi mãi với giang san

Bài thơ ra đời, ngay lập tức không những mọi người ở trong nội cung đều biết, mà còn lan truyền ra cả ngoài phố thị, ai cũng ca ngợi và xếp vào hạng tuyệt tác. Thánh Tông cũng ngỏ lời khen bà và ban tặng một cặp áo gấm màu lục, ngoài có phủ áo sa mỏng màu thiên thanh. Bài thơ đó nay vẫn được lưu giữ trong đền Sóc.

Bị dèm pha

Tên tuổi Phù gia nữ học sĩ Ngô Chi Lan ngày càng tỏa sáng, tiếng tăm ngày càng vang dội, khiến tao nhân mặc khách thời đó vô cùng kính nể. Nhưng, cũng chính vì tiếng tăm lừng lẫy đó, mà một số kẻ tiểu nhân đã ganh ghét, đố kỵ, đặt thơ giễu cợt mỉa mai, nhằm hạ danh giá của bà. Đặc biệt, mối quan hệ tri kỉ thân thiết của Ngô Chi Lan và vua Lê Thánh Tông thường bị đem ra châm biếm:

Quân vương ví phỏng cần tiêu muộn Hãy gọi Kim Hoa học sĩ vào

Hoặc:

Tan tiệc lầu rồng thơ mệt tứ

Sáu canh chầu chực giấc nồng trưa.

Lại có câu tương tự

Lầu rồng, thơ cạn, tiệc tàn

Năm canh bảnh mắt còn khan giấc nồng.

Tất nhiên điều đó không bao giờ là sự thực, mặc dù Ngô Chi Lan và vua rất thân thiết, nhưng bà chưa từng trở thành phi tử của ông, họ chỉ dừng ở tình bằng hữu mà thôi. Những vần thơ vô danh khinh suất trên thực chất là có ý châm chọc và xuyên tạc về phẩm hạnh, thậm chí còn cho rằng vì Ngô Chi Lan hay được vào cung, lại được vua yêu quý, nên giữa hai người đã có quan hệ bất chính "màn loan giường ngự" trong khi Ngô Chi Lan đã có chồng. Điều đó đã làm cho bà vô cùng buồn rầu. Đã có lúc bà mượn giấc mộng để thổ lộ tâm tư tình cảm của mình với mọi người trong cung nội: "Bấy nay tôi chầu hầu Thuận đế, thi phụng tôn vương. Nghĩa cả là vua tôi, song vẫn còn tình thâm đồng tộc, lại vốn Ngô gia phép tắc; Phù gia trọng đạo. Thế mà lẽ nào trong giới thi văn lại có hạng đơn bạc, đặt giọng quàng xiên, tệ hại cho đành?".

Thuở ấy trong giới Tao đàn Nhị thập bát Tú, Nguyên súy Tao đàn là Lê Thánh Tông, ai ai cũng thông cảm với nỗi phiền muộn và uất ức của nữ học sĩ Chi Lan. Tiến sĩ Thái Thuận, tác giả của tập thơ Lữ Đường, cũng là Phó súy Tao đàn, đã lên tiếng khuyên giải bà, đại ý: "… Nào phải một mình phu nhân mới bị khốn vì ngòi bút trào lộng của những kẻ xú ác…, mà các bậc trinh liệt xưa nay đã thường bị những lời thơ khinh bạc trây bẩn, song nước Ngân Hà dễ gì khuấy cho nhơ, nên nữ học sĩ cũng chẳng cần bận tâm làm gì".

Chuyện đồn thổi thị phi về vợ và vua Lê Thánh Tông cũng đến tai Phù Thúc Hoành. Thấy Ngô Chi Lan bận việc trong cung lâu không về, ông tuy không tin những gì mà người ta nói nhưng cũng có chút ghen tuông và cũng lại dấy lên nỗi nhớ vợ da diết. Từ nhà, ông gửi thơ cho vợ với tiêu đề “Ý xưa”:

Hà diệp lục như cái

Hà hoa hồng tử nhan.

Trướng quân vị đắc kiến

Trì thương không bàn hoàn.

Nghĩa là:

Lá sen xanh như chiếc tán

Hoa sen hồng tựa má đào.

Nhớ người mà chưa được gặp

Ngẩn ngơ thơ thẩn bên ao.

Nhận được thơ của chồng, Ngô Chi Lan làm liền bốn bài tứ: “Xuân”; “Hạ”; “Thu”; “Đông” để hồi đáp. Trong đó bài Hạ [mùa hạ] được cho là hay nhất:

Gió rụng hoa lựu tơi bời

Trên du tha thướt dáng người giai nhân.

Oanh vàng ủ rũ thương xuân

Én đôi tiếc cảnh tần ngần trên cây.

Đừng làm rủ thấp đôi mày

Nương song hồn mộng xa bay cuối trời.

Cuối rèm ai cứ gọi hoài

Để hồn em chẳng được bay tới chàng.

Ngô Chi Lan chỉ có một tập thơ duy nhất là Mai trang tập [Tập thơ vườn mai]. Ở thời Hoàng Đức Lương, Mai trang tập hãy còn lưu hành, sau đã thất truyền cho đến nay [2010].

Hiện thơ bà chỉ còn lại trên dưới mười bài in rải rác trong các sách Truyền kỳ mạn lục, Lĩnh Nam chích quái, Kiến văn tiểu lục và Trích diễm thi tập. Tạm liệt kê ra như sau:

  • Chùm thơ vịnh bốn mùa: gồm 4 bài thơ thất ngôn bát cú bằng chữ Hán.
  • Chùm thơ vịnh bốn mùa: gồm 4 bài thơ thất ngôn tứ tuyệt bằng chữ Nôm [dịch Nôm 4 đoạn đầu của 4 bài thơ chữ Hán trên, tuy nhiên không biết do tác giả tự dịch hay do người đời sau].
  • Vịnh núi Vệ Linh [tức núi Sóc]: viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt.
  • Thái liên khúc: gồm 2 bài thơ thất ngôn tứ tuyệt bằng chữ Hán.
  • Thơ vịnh truyện Tô Vũ: viết bằng chữ Nôm, chưa có thông tin chi tiết.
  • Thơ điếu vua Lê Thánh Tông: viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú, được chép trong Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa trong Truyền kỳ mạn lục.

Thơ của Ngô Chi Lan mang bản sắc riêng, không khuôn sáo, gò ép, đẹp cả ý và lời, thường kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp cảnh vật với những chi tiết chân thực của đời sống và có cái nhìn nhân ái trước cuộc đời và con người. Nửa sau thế kỉ 15, Ngô Chi Lan là một tài thơ được người đương thời đánh giá cao. Có thể coi bà là nhà thơ nữ đầu tiên có đóng góp quan trọng đối với sự phát triển của thơ ca Việt Nam.

Bài thơ sau đây sáng tác theo kiểu từ khúc, đã được khắc in trong Trích diễm thi tập của Hoàng Đức Lương và Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn.

Nguyên văn 采蓮曲相看綠鬢年 無事采溪蓮 小姑嬌不語 帶笑學撐船蓮花遠近香 采采總山娘 莫遣風吹鬢 冰肌原自涼 Phiên âm: Thái liên khúc 1. Tương khan lục mấn niên, Vô sự thái khê liên. Tiểu cô, kiều bất ngữ, Ðái tiếu học sanh thuyền.2. Liên hoa viễn cận hương, Thái thái tổng sơn nương. Mạc khiển phong xuy mấn, Băng cơ nguyên tự hương. Dịch nghĩa: Khúc hát hái sen 1. Xem cô em có mái tóc xanh, Nhân thong thả ra khe hái sen. Cô rất duyên dáng và lặng lẽ, Miệng chúm chím tập chèo thuyền.2. Hương sen thoang thoảng tỏa chung quanh, Cô em ở chốn quê hái nơi này sang nơi khác Chẳng cần gió thổi lồng mái tóc cô, Vì riêng làn da trắng thôi đã tự mát mẻ.

Khi Lê Thánh Tông băng hà, nhân ngày lễ đại hành [đặt thụy hiệu], bà Chi Lan cảm kích khóc điếu tiên hoàng bằng bài Đường luật nổi tiếng.

Phiên âm: Tam thập dư niên củng tử thần, Cửu chân tứ hải hựu đồng nhân. Đông tây địa thác dư đồ đại, Hoàng đế thiên khôi sự nghiệp tân. Tuyết ủng chân du vô xứ mịch, Hoa thôi Thượng uyển vị thùy xuân. Dạ lai do tác quân thiều mộng, Trướng vọng Kiều Sơn chức lệ cân. Dịch nghĩa: Ba chục năm dư ngự điện vàng Chín châu bốn bể gội ân quang Đông Tây mở đất miền cương giới Sự nghiệp ngang trời mệnh đế vương Tuyết phủ xe tiên mờ mịt bóng Hoa chờ vườn ngự bẽ bàng hương Quán triều canh vắng còn thơ mộng Sầu ngắm Kiều sơn lệ mấy hàng.

Thiên truyền kỳ Kim Hoa thi thoại [Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa] trong Truyền kì mạn lục, tác giả Nguyễn Dữ đã dựng lên câu chuyện thơ giữa Ngô Chi Lan và nhà thơ Thái Thuận [1441-?, làm chức Tao đàn Sái phu, sau thăng lên Tao đàn Phó nguyên súy], để qua đó giới thiệu mấy vần thơ hay của Ngô Chi Lan, luận về văn chương và các tác giả nổi tiếng đương thời, như Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn, Nguyễn Trãi... Chuyện tuy hư ấu hoang đường, song nó chứng tỏ vị trí của Ngô Chi Lan trong văn học và lòng thành kính của hậu thế đối với bà.

Theo Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa của Nguyễn Dữ thì "năm ngoài 40 tuổi nàng [tức Ngô Chi Lan] mất, táng ở cánh bãi Tây Nguyên". GS. Trịnh Vân Thanh [tr. 787] ghi Ngô Chi Lan mất năm 41 tuổi, còn Ngô Văn Học ghi bà mất khi tuổi ngoài 50 [4]. Theo sử liệu, vua Lê Thánh Tông mất ở tuổi 55. Cho nên nếu bà sinh trước vị vua này và bài thơ "Điếu vua Lê Thánh Tông" cũng đúng là của bà [tức bà mất sau vua Lê], thì thông tin của Ngô Văn Học là phù hợp hơn cả.

  1. ^ Ngô Văn Học cho biết bà Ngô Chi Lan, có tục danh là Ngô Thị Hĩm [1] Lưu trữ 2010-03-28 tại Wayback Machine.
  2. ^ “xem thông tin chi tiết ở trang”. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2010.
  3. ^ Nữ sĩ Ngô Chi Lan Báo Hà Nội.
  4. ^ Xem[liên kết hỏng]

  • Nguyễn Dữ, Truyền kỳ mạn lục [bản dịch của Trúc Khê]. Nhà xuất bản Văn nghệ, 1968.
  • Dương Quảng Hàm, Việt Nam thi văn hợp tuyển [bản in lần thứ 9]. Trung tâm học liệu Sài Gòn xuất bản, 1968.
  • Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển. Nhà xuất bản Hồn thiêng, Sài Gòn, 1967.
  • Nhiều người soạn, Từ điển Văn học [bộ mới, mục từ do Đặng Thị Hảo soạn]. Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
  • Trần Thị Băng Thanh, Tinh tuyển văn học Việt Nam [tập 4]. Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội, 2004.
  • Ngô Chi Lan[liên kết hỏng] trên trang 1000 năm Thăng Long-Hà Nội.
  • Ngô Chi Lan Lưu trữ 2010-03-28 tại Wayback Machine trên trang Hà Nội.
  • Một nữ sĩ thời Lê ở Yên Lạc[liên kết hỏng] trên trang Văn hóa, Thể thao và Du lịch Vĩnh Phúc.

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Ngô_Chi_Lan&oldid=68101039”

Video liên quan

Chủ Đề