Khoán chi đến sản phẩm cuối cùng là gì năm 2024
Nguyễn Thị Ngọc Lý - Thanh tra Bộ KH&CN Tài chính (kinh phí) luôn có ý nghĩa hết sức quan trọng quyết định sự thành công cũng như chất lượng kết quả của việc thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ (KH&CN). Một trong những thay đổi căn bản trong cơ chế quản lý KH&CN và Luật KH&CN 2013 là đổi mới về cơ chế tài chính cho nhiệm vụ KH&CN sử dụng ngân sách nhà nước (NSNN). Vì vậy, trong năm 2015, Bộ KH&CN phối hợp với Bộ Tài chính ban hành 03 Thông tư liên tịch quan trọng liên quan tới cơ chế tài chính cho hoạt động KH&CN. Cụ thể: - Về hướng dẫn lập dự toán cho các nhiệm vụ KH&CN: Thông tư liên tịch số 55/2015/TTLT-BTC-BKHCN (gọi tắt là Thông tư 55) Hướng dẫn định mức xây dựng, phân bổ dự toán và quyết toán kinh phí đối với nhiệm vụ KH&CN có sử dụng NSNN (thay thế Thông tư 44/2007/TTLT/BTC-BKHCN); - Về khoán chi đối với các nhiệm vụ KH&CN: Thông tư liên tịch số 27/2015/TTLT-BKHCN-BTC ngày 30/12/2015 (gọi tắt là Thông tư 27) Quy định khoán chi thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng NSNN (thay thế Thông tư 93/2006/TTLT/BTC-BKHCN); - Về quản lý, xử lý tài sản của nhiệm vụ KH&CN: Thông tư liên tịch số 16/2015/TTLT-BKHCN-BTC ngày 01/9/2015 hướng dẫn việc quản lý, xử lý tài sản được hình thành thông qua việc triển khai thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng NSNN. Dưới góc độ đầu tư thì các nhiệm vụ KH&CN (đề tài, dự án) sử dụng NSNN được coi là một dạng đầu tư công. Khi thanh tra các nhiệm vụ KH&CN, việc xem xét công tác quản lý, sử dụng kinh phí của nhiệm vụ KH&CN không chỉ đảm bảo kiểm soát, sử dụng đúng, hiệu quả nguồn NSNN mà còn là một biện pháp nghiệp vụ quan trọng để xác định "tính thực" và góp phần đánh giá tính chính xác kết quả của nhiệm vụ KH&CN. Với ý nghĩa như vậy, trong phạm vi bài viết này, tôi xin được nêu những điểm mới của các Thông tư nêu trên và cùng với đó là một số gợi ý khi thanh tra các nhiệm vụ KH&CN trong thời gian tới.
1. Thông tư 55 đã cụ thể hóa đối tượng áp dụng và nguyên tắc áp dụng định mức Nếu như Thông tư 44 chỉ quy định đối tượng áp dụng là “các đề tài nghiên cứu khoa học, dự án sản xuất thử nghiệm, dự án KH&CN có sử dụng NSNN, các hoạt động phục vụ công tác quản lý các đề tài, dự án KH&CN của cơ quan có thẩm quyển” thì tại Thông tư 55 quy định đối tượng áp dụng rất cụ thể và rõ ràng. Cụ thể, “Thông tư này áp dụng đối với các cơ quan quản lý nhiệm vụ KH&CN và cơ quan có thẩm quyền phê duyệt nhiệm vụ KH&CN có sử dụng NSNN; các tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ KH&CN có sử dụng NSNN và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan”. Ngoài ra, Thông tư cũng quy định cụ thể và chi tiết nguyên tắc áp dụng định mức xây dựng và phân bổ dự toán; chức danh thực hiện nhiệm vụ KH&CN. Việc quy định cụ thể và rõ ràng về đối tượng giúp cho các chủ nhiệm nhiệm vụ KH&CN trả công xứng đáng cho những người trực tiếp tham gia, đồng thời đảm bảo thông tin minh bạch trong quá trình thực hiện. 2. Thông tư 55 đã xây dựng dự toán căn cứ vào hệ số tiền công ngày Thông tư 55 có sự thay đổi lớn về định mức chi cũng như có cách tiếp cận mới trong hướng dẫn xây dựng dự toán cho các dự án KHCN. Theo đó, ngoài định mức cao hơn hẳn so với quy định trước đó, Thông tư 55 cũng quy định việc tính toán công lao động của nhà khoa học tham gia dự án căn cứ vào hệ số tiền công ngày cho các chức danh thực hiện nhiệm vụ KH&CN chứ không tính theo chuyên đề như Thông tư 44. Tiền công trực tiếp cho các chức danh thực hiện nhiệm vụ KH&CN được tính theo ngày công lao động quy đổi (08 giờ/ 01 ngày; trường hợp có số giờ công lẻ, trên 4 giờ được tính 1 ngày công, dưới 4 giờ được tính ½ ngày công) và mức lương cơ sở do Nhà nước quy định tại thời điểm xây dựng dự toán. Căn cứ khả năng, nguồn lực, đặc thù, trình độ hoạt động KH&CN của cơ quan, đơn vị, các Bộ, cơ quan trung ương, địa phương có trách nhiệm hướng dẫn, ban hành định mức chi tiền công của các Hội đồng của nhiệm vụ KH&CN cấp Bộ, cấp tỉnh, cấp cơ sở để thực hiện thống nhất trong phạm vi Bộ, cơ quan trung ương và địa phương, đảm bảo không vượt quá định mức quy định. Trước đây theo Thông tư 44, công lao động của các nhà khoa học được tính theo các chuyên đề nên khi làm khối lượng công việc cao, các nhà khoa học thường phải “vẽ” ra các chuyên đề và chia nhỏ các chuyên đề để tăng dự toán kinh phí (phần công lao động) cho nhiệm vụ KH&CN. Nhưng với Thông tư 55, việc dự toán công lao động được định lượng bằng số ngày công lao động x hệ số chức danh khoa học của những người thực hiện đề tài, dự án. Cách tính này tưởng như đã khắc phục được việc làm chuyên đề để thanh toán đối phó với cơ chế tài chính nhưng trên thực tế đã nảy sinh vấn đề khó giải quyết, đó là: theo quy định của Luật lao động, người lao động không được phép làm ngoài giờ quá 200 giờ/năm. Do vậy số kinh phí cho phần tiền công cũng bị không chế ở mức thấp và tổng số kinh phí dành cho nhiệm vụ KH&CN cũng bị giảm đi nhiều. Trước sự thay đổi về cách tính và định mức lập dự toán, công tác thanh tra nhiệm vụ KH&CN cũng nên có cách tiếp cận thay đổi cho phù hợp để góp phần đánh giá việc phê duyệt nhiệm vụ của Hội đồng và cơ quan phê duyệt. Nếu trước đây, khi kiểm tra thuyết minh được phê duyệt theo Thông tư 44, công tác thanh tra thường tập trung vào việc xem xét các chuyên đề về: số lượng chuyên đề, nội dung chuyên đề và định mức cho từng từng chuyên đề thì với Thông tư 55, việc kiểm tra nên theo hướng rà soát định mức số lượng ngày công và hệ số chức danh khoa học tương ứng để từ đó đánh giá việc chấp hành các quy định về lập, thực hiện, phê duyệt dự toán. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu của cơ chế mới được triển khai, việc rà soát đánh giá không chỉ đơn giản là nhằm “bắt lỗi” mà cần xem xét lỗi đó là chủ quan hay khách quan để từ đó có hình thức hướng dẫn, giải thích cho các nhà khoa học, các tổ chức KH&CN hiểu và thực hiện đúng các quy định của pháp luật hiện hành. Như vậy, đối với khâu đầu vào của nhiệm vụ KH&CN (từ bước xây dựng dự toán và phê duyệt thuyết minh) công tác thanh tra cũng nên xem xét vai trò, trách nhiệm của cơ quan, đơn vị được giao quản lý như: Việc xác định nhiệm vụ, tuyển chọn, xét chọn, phê duyệt nhiệm vụ có đúng trình tự, thủ tục và định mức theo quy định không? thông qua việc: Rà soát hồ sơ đầu vào, bao gồm: (1) Thuyết minh, Hợp đồng đặt hàng, Quyết định phê duyệt, Quyết định gia hạn, điều chỉnh (nếu có); (2) Các ý kiến, biên bản của thành viên Hội đồng,… (3) Các văn bản giấy tờ khác có liên quan ( như kết quả của kiểm toán nhà nước, …). Kiểm tra việc phê duyệt các nội dung trong thuyết minh đã đúng với quy định chưa?. 3. Thông tư 55 đã bổ sung định mức thuê chuyên gia phối hợp nghiên cứu Các quy định trước đây không có quy định về việc chi cho việc thuê chuyên gia, khiến việc chi trả cho các chuyên gia gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, trong Thông tư 55 đã cho phép thuê chuyên gia trong nước với định mức lên tới 40 triệu/tháng. Với chuyên gia nước ngoài, mức chi cũng cho phép lên tới 50% dự toán của nhiệm vụ. Thông tư 55 nêu rõ: trường hợp thuê chuyên gia trong nước theo ngày công thì mức dự toán thuê chuyên gia trong nước không quá 40.000.000 đồng/người/tháng (22 ngày/1 tháng). Tổng dự toán kinh phí thực hiện nội dung chi thuê chuyên gia trong nước không quá 30% tổng dự toán kinh phí chi tiền công trực tiếp thực hiện nhiệm vụ KH&CN quy định. Tổng dự toán kinh phí thực hiện nội dung chi thuê chuyên gia ngoài nước không quá 50% tổng dự toán kinh phí chi tiền công trực tiếp thực hiện nhiệm vụ KH&CN quy định. Thủ trưởng cơ quan có thẩm quyền phê duyệt nhiệm vụ KH&CN có sử dụng NSNN chịu trách nhiệm về nội dung và mức kinh phí thuê chuyên gia ngoài nước. Trong trường hợp đặc biệt, nhiệm vụ KH&CN có dự toán thuê chuyên gia trong nước vượt quá 40.000.000 đồng/người/tháng hoặc tổng dự toán kinh phí thực hiện nội dung chi thuê chuyên gia trong nước vượt quá 30% tổng dự toán kinh phí chi tiền công trực tiếp thực hiện nhiệm vụ KH&CN quy định hoặc tổng dự toán kinh phí thực hiện nội dung chi thuê chuyên gia ngoài nước vượt quá 50% tổng dự toán kinh phí chi tiền công trực tiếp thực hiện nhiệm vụ KH&CN quy định thì đối với nhiệm vụ KH&CN cấp quốc gia, cơ quan có thẩm quyền phê duyệt nhiệm vụ KH&CN có sử dụng NSNN quyết định phê duyệt và chịu trách nhiệm sau khi có ý kiến bằng văn bản của Bộ KH&CN. Đối với hoạt động nghiên cứu nói chung và việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN nói riêng thì sự tham gia của chuyên gia có một vai trò đặc biệt quan trọng ảnh hưởng lớn đến chất lượng, hiệu quả nghiên cứu. Do vậy, quá trình thanh tra có thể xem xét, kiểm tra qua một số yếu tố: (1) khả năng đáp ứng điều kiện về chuyên gia (trình độ, năng lực, thành tích nghiên cứu); (2) vai trò của chuyên gia đối với quá trình nghiên cứu (nội dung, mức độ và kết quả tham gia); (3) các thỏa thuận, nghĩa vụ pháp lý liên quan (quyền tác giả, thuế…). Mục đích là kiểm soát việc hợp thức hóa để rút tiền ngân sách và qua đó cũng là “kênh” thông tin để đánh giá yếu tố “thực” của quá trình thực hiện nhiệm vụ KH&CN. 4. Thông tư 55 đã thay đổi một số định mức chi quản lý nhiệm vụ KH&CN Thông tư 44 không có quy định về khoản chi nào cho cơ quan chủ trì, nơi các chủ nhiệm dự án thực hiện các đề tài dự án, sử dụng điện nước và cơ sở vật chất. Điều này đã dẫn đến việc các cơ quan chủ trì đã ra văn bản trái quy định đòi chủ nhiệm đề tài để lại phần trăm kinh phí để bù các khoản chi phí này. Thông tư 55 sẽ giải quyết được vướng mắc này khi có nhiều quy định về dự toán liên quan tới hoạt động của cơ quan chủ trì liên quan tới điện nước, cơ sở vật chất cũng như chi phí quản lý. Cụ thể, quy định dự toán kinh phí quản lý chung nhiệm vụ KH&CN bằng 5% tổng dự toán kinh phí thực hiện nhiệm vụ KH&CN có sử dụng NSNN nhưng tối đa không quá 200 triệu đồng. Trong công tác thanh tra, việc rà soát xác định nội dung chi này cũng cần được xem xét. Mục đích là để kiểm soát tránh việc chi trùng (nhiều khoản chi có tên gọi khác nhau cho cùng một nội dung). Nghĩa là khi nội dung chi này đã được dự toán và phê duyệt thì các hoạt động, khoản chi liên quan đến quản lý nhiệm vụ KH&CN của tổ chức chủ trì sẽ không được thanh toán ở nội dung khác. Ngoài ra định mức chi hoạt động của các Hội đồng trong Thông tư 55 có sự thay đổi so với Thông tư 44, có một số định mức cao hơn, nhưng cũng có định mức thấp hơn. Đồng thời đơn vị tính cũng có thay đổi. Cụ thể: Đối với nội dung chi họp Hội đồng tư vấn xác định nhiệm vụ KH&CN và Hội đồng tư vấn tuyển chọn, giao trực tiếp tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ KH&CN thì đơn vị tính là Hội đồng (theo Thông tư 44 đơn vị tính là đề tài, dự án); chi nhận xét đánh giá, chi thẩm định nội dung, chi tư vấn nghiệm thu chính thức tính trên nhiệm vụ như Thông tư 44, tuy nhiên khung định mức chi tối đa có sự thay đổi. Thông tư 55 còn quy định thêm chức danh Phó chủ tịch hội đồng; đồng thời chi tư vấn tuyển chọn, xét chọn tổ chức, cá nhân chủ trì không căn cứ vào nhiệm vụ có bao nhiêu hồ sơ đăng ký mà căn cứ vào phiếu nhận xét đánh giá và không quy định khung định mức phân bổ ngân sách đối với hoạt động thực hiện đề tài, dự án KH&CN. 5. Thông tư 55 có nội dung chi cho công bố kết quả nghiên cứu và chi đăng ký sáng chế, giải pháp hữu ích Thông tư 55 cũng đưa ra quy định cụ thể về việc công bố kết quả nghiên cứu và chi đăng ký sáng chế, giải pháp hữu ích. Nội dung chi công bố kết quả nghiên cứu (đã được công bố) và chi đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (đã được cấp bằng) được thanh toán trực tiếp tại Quỹ Phát triển KH&CN quốc gia theo quy định tại khoản 2 Điều 13 Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ Phát triển KH&CN quốc gia ban hành kèm theo Nghị định số 23/2014/NĐ-CP ngày 03/4/2014 của Chính phủ về Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ Phát triển KH&CN quốc gia. II. Thông tư liên tịch số 27/2015/TTLT-BKHCN-BTC Quy định khoán chi thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng NSNN, được ban hành vào ngày 30/12/2015 và có hiệu lực từ 15/02/2016. Một số điểm mới nổi bật của Thông tư này như sau: 1. Phương thức khoán chi Về phương thức khoán chi, nhiệm vụ KH&CN được khoán chi theo một trong hai phương thức: (1) Khoán chi đến sản phẩm cuối cùng: áp dụng đối với các nhiệm vụ được xác định rõ tên sản phẩm cụ thể; chỉ tiêu chất lượng chủ yếu của sản phẩm, đơn vị đo, mức chất lượng hoặc yêu cầu khoa học cần đạt được; số lượng quy mô sản phẩm tạo ra; địa chỉ ứng dụng; có tổng dự toán các khoản chi sửa chữa, mua sắm tài sản, đoàn ra không quá 01 tỷ đồng; (2) Khoán chi từng phần: áp dụng đối với các nhiệm vụ không đủ điều kiện khoán chi đến sản phẩm cuối cùng. Trong khoán chi từng phần, cơ bản các nội dung kinh phí được thực hiện khoán chi (tiền công, hội thảo, công tác trong nước, …); chỉ không khoán chi đối với các nội dung mua nguyên nhiên, vật liệu, phụ tùng chưa được ban hành định mức kinh tế kỹ thuật; sửa chữa, mua sắm tài sản cố định, đoàn ra. Trước đây, dù thực hiện theo hình thức khoán hay không khoán thì công tác thanh tra thường bám sát vào việc: (1) Làm rõ các khoản chi không đúng trình tự; nội dung và thời gian thực hiện theo Thuyết minh được phê duyệt; (2) Kiểm tra thủ tục, nội dung, định mức chi theo đúng Thuyết minh được phê duyệt; đồng thời đối chiếu với các quy định khác có liên quan; (3) Kiểm tra chất lượng sản phẩm của các Hợp đồng thuê khoán chuyên môn (chuyên đề); (4) Kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của các chứng từ mua sắm (tài sản, nguyên, nhiên vật liệu). Từ đó trong công tác xây dựng đề cương tiến hành thanh tra cũng đưa ra 1 số biểu mẫu theo hướng bám sát nội dung và trình tự trong thuyết minh được phê duyệt (ví dụ: Biểu mẫu kê chi tiết nội dung công việc theo tiến độ cấp ngân sách; Biểu mẫu kê theo các nội dung TKCM: tên người thực hiện, địa chỉ, công tác chuyên môn, chuyên đề, hợp đồng, kinh phí tương ứng và thời gian thực hiện, …) để thuận lợi trong quá trình kiểm tra hồ sơ chứng từ trực tiếp tại cơ sở. Với việc khoán chi đến sản phẩm cuối cùng thì công tác thanh tra cũng nên có một số thay đổi về phương pháp cho phù hợp như: (1) Xác định các nội dung và phần công việc chính, có yếu tố và vai trò quyết định đến việc tạo ra sản phẩm cuối cùng; (2) Tập trung kiểm tra chứng từ thực chi cho các nội dung và phần công việc nêu trên; (3) Kiểm tra tính logic và phù hợp của quá trình triển khai những công việc trong thực tế (có thay đổi hoặc không thay đổi so với thuyết minh) với việc tạo ra sản phẩm cuối cùng. Từ đó có những thay đổi trong việc xây dựng đề cương, biểu mẫu trước khi tiến hành thanh tra (ví dụ: Biểu mẫu kê những nội dung công việc thay đổi so với thuyết minh theo nội dung, kinh phí và người thực hiện; lập bảng kê danh sách những cá nhân tham gia thực hiện đề tài theo tổng ngày công thực hiện, nội dung tham gia, kinh phí, kết quả tương ứng; Biểu mẫu bảng kê những nội dung mua sắm được giao khoán….). Đối với các nhiệm vụ KH&CN cụ thể thì khi thanh tra, có thể kiểm tra, rà soát việc đáp ứng các điều kiện để được khoán chi; các nội dung, định mức được giao khoán; việc tuân thủ các nguyên tắc, quy định về quản lý, sử dụng số kinh được giao khoán… Mục đích của công việc này là nhằm phát hiện, xử lý, chấn chỉnh các vi phạm với lỗi cố ý. Nhắc nhở hướng dẫn khắc phục những thiếu sót, tồn tại với lỗi vô ý, giúp cho các nhà khoa học, các tổ chức KH&CN thực hiện đúng pháp luật, tránh để xảy ra những vi phạm, hậu quả không đáng có. Tuy nhiên, tất cả những vấn đề đó đều phải thực sự vì khoa học, đúng với nguyên tắc của hoạt động thanh tra chuyên ngành KH&CN. 2. Sử dụng kinh phí được giao khoán Chủ nhiệm nhiệm vụ chủ động xây dựng phương án triển khai các nội dung công việc được giao khoán, trong đó được quyền điều chỉnh mục chi, nội dung chi, định mức chi, kinh phí giữa các phần công việc được giao khoán (đảm bảo trong phạm vi tổng mức kinh phí được giao khoán, phù hợp với quy định chi tiêu của các nhiệm vụ tại Quy chế chi tiêu nội bộ của tổ chức chủ trì), trình thủ trưởng tổ chức chủ trì phê duyệt trước khi triển khai nhằm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ, phù hợp với các vấn đề phát sinh trong thực tế triển khai nhiệm vụ. Kinh phí tiền công lao động trực tiếp cho các cá nhân thực hiện nhiệm vụ thuộc tổ chức chủ trì được chuyển vào quỹ tiền lương, tiền công của tổ chức chủ trì và được chi theo phương án đã được thủ trưởng tổ chức chủ trì phê duyệt. Kinh phí chi quản lý chung nhiệm vụ được coi là nguồn thu của tổ chức chủ trì nhiệm vụ để bổ sung kinh phí phục vụ quá trình quản lý và thực hiện nhiệm vụ. Tổ chức chủ trì, chủ nhiệm nhiệm vụ tự quyết định việc mua sắm đối với nội dung mua sắm được giao khoán và tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình; đồng thời phải đảm bảo chế độ hoá đơn, chứng từ đầy đủ theo đúng quy định của pháp luật. Kinh phí giao khoán tiết kiệm do không chi hết được để lại cho tổ chức chủ trì quyết định phương án sử dụng. Với việc giao quyền tự chủ cho tổ chức chủ trì và chủ nhiệm nhiệm vụ, dưới góc độ thanh tra có thể xem xét: (1) Cơ sở, tính hợp lý của việc điều chỉnh các nội dung chi đảm bảo thống nhất với tiến độ và phù hợp với kết quả thực hiện; (2) Tính hợp lý, hợp lệ, hợp pháp của các hóa đơn chứng từ mua sắm được giao khoán; (3) Kiểm tra quy chế chi tiêu nội bộ đã có hoặc quy định cho các nội dung chi được giao khoán chưa? Có đảm bảo tính công khai minh bạch trong việc tự chủ sử dụng kinh phí khoán không? Việc xem xét các nội dung này góp phần đảm bảo sự công bằng, dân chủ trong tổ chức KH&CN; giám sát việc quản lý, sử dụng kinh phí đã được giao khoán để hạn chế sự tùy tiện, ngẫu hứng khi được giao quyền. Tuy nhiên, quá trình xem xét cần hết sức tôn trọng quyền sử dụng kinh phí được giao khoán của họ. Giúp đỡ họ thực hiện đúng, đủ các quyền hợp pháp đó. Như vậy, cũng là góp phần đảm bảo cho nhiệm vụ KH&CN đạt kết quả tốt nhất có thể. 3. Thanh toán, tạm ứng kinh phí Điểm mới trong thanh toán, tạm ứng kinh phí theo Thông tư này là tạm ứng kinh phí được thực hiện theo tiến độ hợp đồng nghiên cứu và phát triển KH&CN; thanh toán tạm ứng được căn cứ vào bảng kê khối lượng công việc đã thực hiện; kho bạc nhà nước chỉ thực hiện kiểm soát chi theo bảng kê khối lượng công việc đã thực hiện thay cho việc kiểm soát trên các hóa đơn, chứng từ chi tiết. Bảng kê khối lượng công việc đã thực hiện do tổ chức chủ trì lập căn cứ vào thực tế khối lượng công việc đã triển khai thực hiện và được đơn vị quản lý kinh phí xác nhận. Như vậy, nếu như trước đây các hóa đơn, chứng từ thực chi trong quá trình thực hiện đã được Kho bạc Nhà nước rà soát , kiểm tra 1 lần trước khi thanh toán thì hiện nay các hóa đơn, chứng từ này chỉ được rà soát, kiểm tra trong kế hoạch kiểm tra định kỳ của cơ quan quản lý (nếu có). Như vậy, công tác thanh tra cũng nên tiếp cận theo hướng không đặt nặng vào vấn đề kiểm tra toàn bộ hồ sơ chứng từ chi tiết mà nên tăng cường kiểm tra tính hợp lý, hợp lệ của hóa đơn, chứng từ đối với các nội dung chi lớn, có tính quyết định đến việc tạo ra sản phẩm cuối cùng nhằm đảm bảo tương ứng với khối lượng công việc hoàn thành. Kết quả của việc kiểm tra, rà soát nội dung này có thể được coi là một kênh quan trọng để đánh giá “tính thực” đối với quá trình thực hiện nhiệm vụ KH&CN. 4. Quyết toán kinh phí thực hiện nhiệm vụ Nhiệm vụ được quyết toán một lần sau khi hoàn thành và các bên đã tiến hành thanh lý hợp đồng. Đối với nhiệm vụ KH&CN thực hiện trong nhiều năm, tổ chức chủ trì có trách nhiệm tổng hợp, báo cáo đơn vị quản lý kinh phí về số kinh phí thực nhận và thực chi trong năm để đơn vị quản lý kinh phí tổng hợp số kinh phí thực nhận, thực chi của nhiệm vụ vào quyết toán của đơn vị theo niên độ ngân sách. Cuối năm, số dư dự toán, số dư tạm ứng trong thời gian thực hiện nhiệm vụ được chuyển nguồn sang năm sau để tiếp tục thực hiện. Trước đây, nhiệm vụ được quyết toán theo niên độ ngân sách nên thường gặp phải một số khó khăn vướng mắc như: kinh phí thường bị cấp chậm so với thực tế triển khai khiến cho các chủ nhiệm đề tài đôi khi phải chạy chứng từ để khớp với thời gian thực hiện và năm quyết toán. Từ đó công tác thanh tra cũng tập trung vào kiểm tra hồ sơ, xem xét các hóa đơn, chứng từ theo đúng nội dung thuyết minh được phê duyệt, hợp lý về mặt thời gian thực hiện và phù hợp với năm quyết toán. Trước sự thay đổi trên, để đảm bảo bám sát việc thực hiện đúng kinh phí của nhiệm vụ, cần nâng cao vai trò của kiểm tra định kỳ để tránh rủi ro đối với những nhiệm vụ hoàn thành sản phẩm đăng ký (mặc dù có chế tài xử phạt nhưng công tác hậu xử lý thường diễn ra chậm và khó thu hồi). Do nhiệm vụ được quyết toán 1 lần, Kho bạc nhà nước không kiểm soát chi chứng từ chi tiết trong suốt quá trình thực hiện nên công tác thanh tra vẫn nên tập trung vào: (1) Xác định các nội dung và phần công việc chính, có yếu tố và vai trò quyết định đên việc tạo ra sản phẩm cuối cùng; (2) Kiểm tra tính hợp lý, hợp lệ, hợp pháp của chứng từ thực chi cho các nội dung và phần công việc nêu trên. Đối với hồ sơ thanh quyết toán các nội dung chuyên môn (chuyên đề, báo cáo), nhất thiết phải có sản phẩm kèm theo. Nếu thiếu thì yêu cầu khắc phục, bổ sung ngay. Trường hợp vẫn không bổ sung được thì sẽ kiên quyết xử lý. Việc rà soát, yêu cầu như vậy không chỉ đảm bảo cho Đoàn thanh tra thực hiện đúng trách nhiệm của mình mà còn giúp cho chủ nhiệm và tổ chức chủ trì tránh phạm lỗi nghiêm trọng khi các đoàn thanh tra, kiểm toán đề cao quan điểm xác định đó là hành vi “nghiệm thu, thanh quyết toán khống”. 5. Chế tài xử lý đối với các nhiệm vụ không hoàn thành và công khai thông tin Ngoài chế tài về xử lý kinh phí đã được nêu cụ thể tại Nghị định số 95/2014/NĐ-CP, Thông tư còn quy định chế tài về quyền được tham gia các nhiệm vụ KH&CN tiếp theo. Tổ chức chủ trì chưa thực hiện hoàn trả NSNN theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền phê duyệt nhiệm vụ thì không được quyền tham gia tuyển chọn, xét giao trực tiếp nhiệm vụ có sử dụng NSNN. Kế thừa Thông tư 93, Thông tư 27 cũng quy định chi tiết về nội dung và hình thức thực hiện công khai trong và ngoài tổ chức chủ trì. Do thay đổi hình thức từ định mức tính theo chuyên đề sang tính theo ngày công nên có thêm nội dung công khai: danh sách và mức tiền công thực nhận của các thành viên tham gia thực hiện. Đối với việc thực hiện công khai nhiệm vụ KH&CN, công tác thanh tra nên chú ý: (1) Đối với tổ chức chủ trì: Tổ chức thực hiện thế nào? Có thực hiện công khai ở trong và ngoài tổ chức không? Hình thức, nội dung, thời gian công khai; (2) Đối với cơ quan, đơn vị được giao nhiệm vụ quản lý: Việc xác định nhiệm vụ, tuyển chọn, xét chọn, Phê duyệt thuyết minh theo ngày công lao động có hợp lý không? Nghiệm thu có đúng trình tự, thủ tục quy định không? Việc xem xét nội dung công khai trong hoạt động thanh tra nhiệm vụ KH&CN không đặt nặng vấn đề tài chính mà chủ yếu để đảm bảo sự dân chủ, công bằng, minh bạch trong tổ chức KH&CN; tránh nghiên cứu trùng lặp gây lãng phí; tạo tiền đề để tăng cường giám sát, phản biện về chuyên môn của các nhiệm vụ từ đó nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học. III. Thông tư liên tịch số 16/2015/TTLT-BKHCN-BTC ngày 01/9/2015 quy định về Quản lý, xử lý tài sản được hình thành thông qua việc triển khai thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng NSNN. Đối với lĩnh vực KH&CN, yêu cầu quản lý tài sản được đầu tư, trang bị để phục vụ nhiệm vụ KH&CN cũng như kết quả được tạo ra trong quá trình thực hiện có tính đặc thù. Hiện nay, việc quản lý và xử lý tài sản được hình thành thông qua việc triển khai thực hiện nhiệm vụ KH&CN từ NSNN chưa được thực hiện thống nhất, thậm chí có nơi, có chương trình, dự án chưa được triển khai thực hiện. Vì vậy, việc ban hành hướng dẫn việc quản lý, xử lý tài sản được hình thành thông qua việc triển khai thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng NSNN là thật sự cần thiết, bao gồm: Tài sản được trang bị để triển khai thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ; Tài sản là kết quả của việc triển khai thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ thể hiện dưới dạng tài sản hữu hình và tài sản vô hình;Tài sản là vật tư thu được trong quá trình triển khai thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Nội dung của Thông tư 16 nhấn mạnh một số điểm mới trong quản lý, xử lý tài sản được hình thành thông qua việc triển khai thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng NSNN như sau: Thứ nhất, đối với tài sản được trang bị để triển khai thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng NSNN, Thông tư quy định thêm một số hình thức xử lý tài sản có tính chất đặc thù như: (i) Ưu tiên bán trực tiếp cho tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ KH&CN. Lý do: Các tài sản được trang bị cho tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ KH&CN gắn với việc phát huy kết quả nghiên cứu, các tài sản này thường gắn với mô hình ứng dụng KH&CN và thường chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng số kinh phí để thực hiện nhiệm vụ (phần còn lại do các doanh nghiệp tự bỏ kinh phí), nếu bán trực tiếp cho tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ KH&CN đó sẽ phát huy tốt hơn công năng sử dụng của tài sản, giảm chi phí và thời gian xử lý tài sản; (ii) Nhà nước chuyển giao không bồi hoàn tài sản được trang bị để thực hiện nhiệm vụ KH&CN liên kết quy định tại Điều 32 Luật KH&CN và Điều 38 Nghị định số 08/2014/NĐ-CP ngày 27/01/2014 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật KH&CN. Lý do, tại khoản 3 Điều 38 Nghị định số 08/2014/NĐ-CP quy định: “Nhiệm vụ KH&CN liên kết đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều này được Nhà nước hỗ trợ không thu hồi vốn đầu tư cho các dự án đối với các nội dung liên quan đến hoạt động KH&CN của dự án”. Thứ hai, đối với tài sản là kết quả của quá trình thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng NSNN, Thông tư quy định sau khi được đánh giá, nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN từ mức “Đạt” trở lên, tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ KH&CN có trách nhiệm kiểm kê kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, báo cáo đại diện chủ sở hữu nhà nước để thực hiện bàn giao. Riêng đối với tài sản của nhiệm vụ KH&CN liên kết quy định tại Điều 32 Luật KH&CN và Điều 38 Nghị định số 08/2014/NĐ-CP ngày 27/01/2014 của Chính phủ thuộc sở hữu của tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ KH&CN. Về hình thức xử lý: Thông tư quy định riêng cho hai nhóm kết quả nghiên cứu: (i) Đối với kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển KH&CN sử dụng NSNN dưới dạng tài sản vô hình (kết quả nghiên cứu), việc giao quyền sở hữu, quyền sử dụng cho đối tượng thụ hưởng thực hiện theo hướng dẫn của Bộ KH&CN tại Thông tư số 15/2014/TT-BKHCN ngày 13/6/2014 quy định trình tự, thủ tục giao quyền sở hữu, quyền sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ sử dụng NSNN. (ii) Đối với kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ sử dụng NSNN không thuộc phạm vi nêu trên, Thông tư quy định hình thức xử lý tài sản bao gồm: (1) Nhà nước giao tài sản cho tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ KH&CN; (2) Bán tài sản; (3) Điều chuyển tài sản. Thực trạng công tác quản lý và sử dụng tài sản của tổ chức chủ trì trước đây gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc thậm chí có tình trạng lãng phí, sử dụng tùy tiện tài sản do chưa có cơ chế, quy định quản lý chặt chẽ và hướng dẫn chi tiết cụ thể; từ đó khiến công tác thanh tra đôi khi cũng chỉ dừng lại ở việc nhắc nhở tổ chức chủ trì và các cá nhân có liên quan có trách nhiệm bảo quản tài sản, báo cáo cơ quan quản lý có thẩm quyền để có phương án xử lý, giải quyết. Với việc quy định chi tiết về nguyên tắc, hình thức, thẩm quyền và trình tự xử lý các loại tài sản được hình thành thông qua việc triển khai thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng NSNN thì vai trò của thanh tra nên xem xét việc thực hiện đúng trách nhiệm, đúng thẩm quyền của tổ chức chủ trì và cơ quan quản lý; việc thực hiện đúng các quy định tại Thông tư trong quá trình quản lý, sử dụng tài sản. Đối với việc trang bị tài sản nên xem xét: (1) Phê duyệt trang bị tài sản có phù hợp với nội dung thực hiện nhiệm vụ không, có phản ánh đúng thực trạng về tình hình tài sản hiện có của tổ chức chủ trì không? ( mục đích để tránh trường hợp phê duyệt lãng phí hoặc tùy tiện khi thẩm định nội dung đầu vào của nhiệm vụ); (2) Tài sản có được sử dụng đúng mục đích không? (3) Tài sản có được hạch toán, theo dõi, tính hao mòn và báo cáo đúng quy định hay không? (Thông tư số 162/2014/TT-BTC ngày 06/11/14 quy định chế độ quản lý, tính hao mòn tài sản cố định trong các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và các tổ chức có sử dụng ngân sách nhà nước); (4) Chi phí sửa chữa, bảo dưỡng tài sản có hợp lý không? Trong quá trình xử lý tài sản công tác thanh tra cũng nên chú ý đến hình thức xử lý như: (1) Xem xét việc bán hoặc thanh lý tài sản có đảm bảo đúng quy định không? tài sản có đáp ứng yêu cầu về thanh lý không? (thể hiện ở Biên bản đánh giá tài sản, sổ sách tính hao mòn tài sản); thủ tục thanh lý đầy đủ, đúng trình tự không? xem xét yếu tố giá của tài sản (việc thành lập lập Hội đồng định giá hoặc thuê tổ chức thẩm định giá có đảm bảo yêu cầu về chuyên môn, năng lực không, giá được thẩm định có sát với giá trị trường của tài sản cùng loại, có cùng tiêu chuẩn kỹ thuật không); nộp tiền bán tài sản có đảm bảo theo quy định không?. Về trình tự xử lý tài sản (được trang bị, là vật tư thu được), Thông tư quy định chi tiết các bước xử lý, theo đó công tác thanh tra cũng nên chú ý đến vai trò, trách nhiệm và thẩm quyền của tổ chức chủ trì và cơ quan quản lý nhiệm vụ đối với tài sản như: Tổ chức chủ trì có bảo quản tài sản và hồ sơ tài sản theo quy định khi nhiệm vụ kết thúc không ( vẫn thực hiện mở sổ theo dõi tài sản), có thực hiện việc kiểm kê tài sản và đề xuất phương án xử lý đúng thời hạn không?; đơn vị quản lý nhiệm vụ có thực hiện đúng trách nhiệm tổng hợp, lập phương án xử lý tài sản kịp thời theo quy định không? Từ đó qua thanh tra có thể thấy được những khó khăn vướng mắc (về thời gian, về thủ tục, những phát sinh) mà tổ chức chủ trì gặp phải trong quá trình thực hiện trình tự xử lý, và đây cũng là 1 kênh tham khảo để đánh giá yếu tố lỗi mà tổ chức chủ trì gặp phải (lỗi khách quan, lỗi chủ quan). Như vậy, Thông tư 16 đã quy định khá rõ ràng và chi tiết về quản lý, xử lý tài sản, giúp cho tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ dễ dàng thực hiện; giúp cho cơ quan quản lý nhà nước quản lý tài sản chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, mặc dù có hiệu lực thực hiện trong thực tế chưa lâu nhưng trong hoạt động thanh tra cũng đã gặp phải 1 số vướng mắc đối với Thông tư như: đối với nhiệm vụ KH&CN được ngân sách nhà nước hỗ trợ một phần thì việc thống nhất phương án xử lý tài sản là kết quả nhiệm vụ KH&CN còn gây nhiều tranh cãi giữa các đồng chủ sở hữu, vì trên thực tế việc thống nhất này là rất khó khăn và không hiệu quả. Đa phần có ý kiến cho rằng nhà nước nên giao (cho) toàn bộ tài sản đó cho tổ chức chủ trì để họ phát huy hiệu quả sử dụng của tài sản. Hoặc khó khăn về việc quy định cụ thể chi tiết về hình thức xử lý đối với tài sản vô hình là kết quả của nhiệm vụ KH&CN mà NSNN đóng góp 1 phần khi chưa có quy định. Với thực trạng trên, vai trò của công tác thanh tra lại càng được chú trọng trong việc phản ánh đúng thực trạng để đưa ra các kiến nghị, đề xuất hay biện pháp xử lý giúp cho tổ chức chủ trì, cơ quan quản lý thực hiện tốt vai trò, trách nhiệm của mình. Kết luận Có thể nói, những văn bản trên được ban hành thể hiện những nét đột phá trong cơ chế quản lý tài chính cho các nhiệm vụ KH&CN, nhằm mục đích khắc phục những tồn tại, vướng mắc, cản trở hoạt động nghiên cứu khoa học thời gian qua. Với ý nghĩa là một khâu trong chu trình quản lý KH&CN, song hành cùng công tác quản lý nhiệm vụ KH&CN thì hoạt động thanh tra cũng nên có những cách tiếp cận mới cho phù hợp. Chúng ta cũng thấy rằng, thanh tra nhiệm vụ KH&CN là hoạt động thanh tra chuyên ngành có tính đặc thù, đặc thù về đối tượng thanh tra: là những nhà khoa học, tổ chức KH&CN (tổ chức, cá nhân có tri thức bậc cao); đặc thù về nội dung thanh tra (phần chuyên môn thường có tính chuyên ngành sâu). Do vậy, kết quả thanh tra cũng cần có tính đặc thù: vừa đảm bảo pháp luật được thực hiện nghiêm túc nhưng KH&CN cũng được phải được tôn trọng và tạo điều kiện phát triển; mặt tích cực của cơ chế quản lý KH&CN phải được phát huy, nhân rộng và mặt tiêu cực, hạn chế phải được kiểm soát, tránh bị lợi dụng. Đầu tư từ NSNN cho nghiên cứu ngày càng lớn với kỳ vọng KH&CN thực sự là động lực của phát triển. Thanh tra là “nhìn sâu vào bên trong” để hiểu được, đánh giá đúng bản chất sự vật, hiện tượng. Vì thế, khi xem xét, đánh giá việc quản lý, sử dụng kinh phí của các nhiệm vụ KH&CN trong công tác thanh tra nhiệm vụ KH&CN cũng là góp phần trả lời câu hỏi về hiệu quả đầu tư cho nghiên cứu khoa học, trả lại cho khoa học tính khách quan, trung thực, chính xác, qua đó cũng tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về KH&CN./. |