Mục tiêu bài học chi tiết đánh giá được năm 2024
Bài viết này tập trung vào việc định nghĩa các mục tiêu giảng dạy trong nhà trường phổ thông, sau đó, hướng dẫn giáo viên cách viết mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể. Bài viết cũng chú trọng đến vấn đề xác định 3 lĩnh vực chính trong nhà trường phổ thông như các nhiệm vụ giáo dục của các nhà quản lý cũng như các giáo viên. Show
Bài viết này tham khảo nhiều tư liệu khác nhau, trong đó đặc biệt là từ quyển “Xây dựng chương trình” của Oliva (1997) đã được dịch sang tiếng Việt vào năm 2005. Bài viết đang được gởi đăng trê Tạp chí Khoa học của Trường ĐHSP Tp. Hồ Chí Minh. Theo Payne (2003), nhiều hệ thống giáo dục phân loại các mục tiêu giáo dục và kết quả đầu ra. Mục tiêu được phân loại như sau: a) có thể đạt được hay không thể đạt được; b) rõ ràng hay ngầm ẩn; c) bản chất (bên trong) hay tiên nghiệm; d) cá nhân hay thuộc về xã hội; e) chung hay cụ thể. Tuy nhiên, trong bài viết này chúng tôi chỉ lựa chọn các mục tiêu được sử dụng phổ biến nhất trong giáo dục. Các định nghĩaMục tiêu cơ bản/cuối cùng: được xem là mục đích/mục tiêu chung của giáo dục, không quan sát được trong bối cảnh lớp học. Ví dụ: Học sinh có các thói quen tốt trong rèn luyện sức khoẻ, hành vi lịch sự và có văn hoá khi bỏ phiếu tín nhiệm, hay có thái độ, chủ kiến cũng như tư duy có phán đoán về các tác phẩm nghệ thuật hay văn học. Mục tiêu trước mắt (hay còn gọi là mục tiêu ngắn hạn): đề có thể đánh giá một mục tiêu cơ bản/cuối cùng, chúng ta phải lập ra các mục tiêu trước mắt hay còn gọi là mục tiêu ngắn hạn. Các mục tiêu này có thể đo lường được, quan sát được. Ví dụ của các mục tiêu ngắn hạn/trước mắt như: học sinh tham gia đầy đủ các buổi tập thể dục chung của lớp, học sinh không bỏ phiếu trắng khi bầu lớp trưởng, học sinh cảm nhận được thân phận của người phụ nữ trong chế độ phong kiến qua phân tích đoạn thơ “Thuý Kiều ở Lầu Ngưng Bích”. Mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể: Mục tiêu chung cũng giống như mục tiêu cơ bản/cuối cùng, nhưng thường có một vài điểm so sánh và lập lại ở mức độ cao hơn theo các cấp độ lớp học (ví dụ: phát triển kĩ năng đọc). Mục tiêu cụ thể thường có tính duy nhất, không lập lại đối với từng khoá/bậc/lớp học khác nhau và thường được phát biểu dưới dạng kết quả đầu ra mà chúng ta mong đợi học sinh phải đạt được. Có thể thấy rõ sự khác biệt giữa các mục tiêu cụ thể bằng các mức độ khó/cao hơn trong nội dung và các trọng tâm/điểm nhấn ở các mục tiêu gần giống nhau ở các lớp/bậc học khác nhau. Nhìn chung, các nhà giáo dục khuyên những người làm chương trình không nên viết các mục tiêu chung có tính quá ‘toàn cầu’, ví dụ như: phát triển con người toàn diện, các công dân biết tự hoàn thiện mình, có đầy đủ phẩm chất của các công dân ưu tú, phát triển tính tự giác và tự học suốt đời. Những mục tiêu ‘bay bổng’ và đầy nhiệt huyết như vậy, theo Dyer (2003) là rất khó ‘định lượng’ bằng các mục tiêu cụ thể. Các mục tiêu quá cụ thể như “các học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông, nếu như mong muốn, sẽ được chuẩn bị đầy đủ để có thể tham gia vào một nghề nghiệp” cũng được cho rằng quá thiên về định hướng dạy nghề/giáo dục nghề nghiệp. Mục tiêu giảng dạy cụ thể và học tập – Xác định 3 lĩnh vực chính trong nhà trường phổ thôngTheo Oliva (1997), để xác định mục tiêu học tập (và giảng dạy), cần phải trả lời các câu hỏi như sau:
Ở giai đoạn xác định mục tiêu giảng dạy cụ thể và học tập, giáo viên phải quyết định có nên định rõ chủ đề hay xác định năng lực, có nên mô tả những nét nổi bật của các mục tiêu của giáo viên hay của học sinh, có nên theo đuổi sự thông thạo về nội dung hay chỉ đơn giản là chỉ biết qua tài liệu và nên đặt sự chú trọng của mục tiêu chung của việc hướng dẫn theo nhóm hay đến từng cá nhân. Bất cứ hoạt động lập kế hoạch giảng dạy nào cũng nên bao gồm việc xác định mục tiêu chung và mục tiêu của việc giảng dạy, lựa chọn các chiến lược giảng dạy và chọn các phương pháp để đánh giá kết quả học tập (như là kết quả của việc giảng dạy. Thường mô hình này nằm trong một kế hoạch tổng thể lớn hơn bao gồm các bước sau đây:
Các mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể của chương trìnhNhìn chung, Oliva (1997) cho rằng các mục tiêu chung của chương trình đóng vai trò như các nguồn lực của các mục tiêu cụ thể làm nền tảng cho việc giảng dạy và học tập. Từ các mục tiêu chung và các mục tiêu cụ thể, các đánh giá kết quả học tập được xây dựng và thực hiện. Bảng 1 dưới đây minh họa các bước từ việc xây dựng mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể đến việc giảng dạy. Bảng 1: CÁC MINH HỌA VỀ TRẬT TỰ CỦA QUI TRÌNH ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP
(Nguồn: Oliva, 1997) Từ mục tiêu chung của giáo dục, chúng ta chuyển đến mục tiêu giảng dạy cụ thể. Một mục tiêu giảng dạy cụ thể là một tuyên bố thực hiện các mong đợi từ phía mỗi học sinh trong một lớp, được viết ra trong các thuật ngữ chung chung và không có các tiêu chí để đạt được. Thuật ngữ “mục tiêu giảng dạy cụ thể” được sử dụng trong đề tài này cho thấy công việc mà người học được mong đợi phải hoàn tất, nhưng việc thực hiện đó không được tuyên bố theo cách mà các tri thức đạt được có thể sẵn sàng cho việc đo lường. Bởi vì một mục tiêu chung của một chương trình thường chỉ ra phương hướng cho các mục tiêu của chương trình, một mục tiêu chung của việc giảng dạy cũng chỉ ra phương pháp cho các mục tiêu cụ thể của việc giảng dạy. Một mục tiêu giảng dạy cụ thể là một tuyên bố về việc thực hiện cần phải được mỗi học sinh trong lớp học hoàn thành, xuất phát từ một mục tiêu chung của giáo dục và được viết ra bằng các thuật ngữ có thể đo lường và quan sát được. Chúng ta có thể xem thuật ngữ này như thuật ngữ kết quả học tập cụ thể (Gronlund, 2003 và Tyler, trích trong Oliva, 1997). Ví dụ, tuyên bố sau đây là một ví dụ của một mục tiêu giảng dạy cụ thể:”Người học sẽ biến đổi phân số sau đây thành phần trăm với 100 phần trăm độ chính xác:1/4, 1/3, ½, 2/3, ¾.” Các mục tiêu giảng dạy cụ thể cũng được người ta biết đến như là các mục tiêu hành vi, các mục tiêu thực hiện, hay năng lực. Các lĩnh vực học tậpCác mục tiêu chung và các mục tiêu giảng dạy cụ thể cần phải được xác định trong ba lĩnh vực học tập – nhận thức, tình cảm/thái độ và kỹ năng. Ví dụ, hãy xem ba minh hoạ của các dạng học tập khác nhau:
Các ví dụ này minh họa ba lĩnh vực học tập chính. Nhận thức về hệ thống bầu cử nằm vào lĩnh vực kiến thức, việc thích đọc sách – vào lĩnh vực tình cảm và kỹ năng đi xe đạp – vào lĩnh vực kỹ năng. Lĩnh vực nhận thức.Benjamin S. Bloom định nghĩa lĩnh vực nhận thức là bao gồm các mục tiêu cụ thể “giải quyết việc nhớ lại hoặc nhận ra kiến thức và sự phát triển các năng lực và kỹ năng trí tuệ” (Bloom, 1956). Học tập nhận thức, bao gồm các quá trình thuộc về trí não, được xếp từ việc học thuộc lòng đến kỹ năng tư duy, giải quyết và đánh giá vấn đề. Lĩnh vực tình cảm.David R. Krathwohl, Benjamin S. Bloom và Bertram B. Masia định nghĩa lĩnh vực tình cảm/thái độ là bao gồm các mục tiêu cụ thể “nhấn mạnh đến sắc thái của tình cảm, một cảm xúc, hay là một mức độ của sự chấp nhận hay chối từ.” (Krathwohl, Bloom và Masia, 1964). Lĩnh vực kỹ năng.Robert J. Armstrong, Terry D. Cornell, Robert E. Kranner và E. Wayne Roberson, Sự Phát triển và Đánh giá các Mục tiêu Hành vi (Worthington, Ohio: Charles A. Jones, 1970), trang 22. Mục tiêu của bài học là gì?Mục tiêu bài học là gì: “Mục tiêu bài học” là tuyên bố về những gì học sinh phải chỉ ra, phải thể hiện, phải làm được sau bài học. “Mục tiêu thực hiện là một lời phát biểu mô tả kết quả thực hiện đã dự định của người học vào cuối buổi dạy”. (Robert F. Mager, 1994). Mục tiêu của quá trình dạy học là gì?
Tại sao phải xác định mục tiêu bài đấy?Đặt mục tiêu bài học đúng sẽ giúp giáo viên tổ chức hoạt động, sử dụng phương pháp và phương tiện dạy học… một cách phù hợp để đạt được các mục tiêu đặt ra. Việc xác định không đúng hoặc không rõ ràng mục tiêu bài giảng thì giáo viên sẽ rất khó mà triển khai một bài giảng hiệu quả. Mục tiêu dạy học được xác định ở các lĩnh vực nào tại sao?Các mục tiêu chung và các mục tiêu giảng dạy cụ thể cần phải được xác định trong ba lĩnh vực học tập – nhận thức, tình cảm/thái độ và kỹ năng. Ví dụ, hãy xem ba minh hoạ của các dạng học tập khác nhau: Kiến thức về hệ thống bầu cử chính quyền nhân dân. |