Sách phương pháp nghiên cứu khoa học update 2024
Sách Phương pháp Nghiên cứu Khoa học Show Chương 1: Giới thiệu về nghiên cứu khoa học
Chương 2: Đặt vấn đề nghiên cứu
Chương 3: Nghiên cứu tài liệu
Chương 4: Phương pháp nghiên cứu
Chương 5: Thu thập dữ liệu
Chương 6: Phân tích dữ liệu
Chương 7: Trình bày kết quả nghiên cứu
Chương 8: Đánh giá và ứng dụng kết quả nghiên cứu
Phụ lục
Tài liệu giới thiệu, định nghĩa, khái niệm và phân loại nghiên cứu khoa học. tác giả đưa ra các phương pháp luận, phương pháp chứng minh, phương pháp thực nghiệm, phương pháp tâm lý học, phương pháp sử học và phương pháp khoa học môi trường trong nghiên cứu nghiên cứu. Tiểu luận Chiến lược nguồn nhân lực Vận dụng mô hình SWOT để xây dựng chiến lược tuyển dụng tại công ty Cổ phần Thực phẩm Cholimex
Preview text
PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Hà Nội, tháng 8/“Giáo trình Phương pháp nghiên cứu khoa học” bao gồm 5 chương như sau: # Chương 1: Tổng luận về phương pháp nghiên cứu khoa họcdo GS. TS. Đinh Văn Sơn và PGS. TS. Vũ Mạnh Chiến biên soạn # Chương 2: Thiết kế nghiên cứu do PGS. TS. Nguyễn Hoàng Việtvà TS. Nguyễn Viết Thái biên soạn # Chương 3: Nghiên cứu định tính do TS. Trần Thị Thu Phươngvà TS. Nguyễn Thị Liên biên soạn # Chương 4: Nghiên cứu định lượng do TS. Trần Văn Trang và TS.Phạm Tuấn Anh biên soạn # Chương 5: Viết và thuyết trình báo cáo nghiên cứu khoa họcdo TS. Nguyễn Thu Thủy và TS. Chử Bá Quyết biên soạn Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các nhà khoa học đã cung cấp tài liệu tham khảo giúp chúng tôi hoàn thành giáo trình này. Đặc biệt tập thể tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành tới PGS. Bùi Xuân Nhàn, PGS. Phạm Đức Hiếu, PGS. Bùi Đức Thọ, PGS. Hà Văn Sự, TS. Lương Minh Huân và TS. Phan Thanh Tú đã đóng góp nhiều ý kiến quý báu để giáo trình được hoàn chỉnh. Quá trình thực hiện biên soạn chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các bạn đồng nghiệp cũng như của các em sinh viên để giáo trình được hoàn thiện hơn nữa. Tập thể tác giả Chương 1
TỔNG LUẬN VỀ PHƯƠNG PHÁP
Top 5 sách phương pháp nghiên cứu khoa học
• Tác phẩm luận bàn các nội dung về nguyên lý, triết lý khoa học, quy trình nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực khoa học xã hội.
• Sách giới thiệu các khái niệm cơ bản về phương pháp nghiên cứu: phương pháp nghiên cứu, các loại phương pháp nghiên cứu, tư duy khoa học, v.v.
• Cuốn sách giúp độc giả hiểu rõ bản chất của phương pháp nghiên cứu khoa học, công cụ phục vụ nghiên cứu và phương pháp xử lý số liệu.
• Tác phẩm cung cấp các thông tin cơ bản về phương pháp luận, cách xử lý dữ liệu, cách trình bày kết quả nghiên cứu,...
• Cuốn sách đi sâu phân tích về triết lý nghiên cứu khoa học hiện đại, cơ sở hình thành và phát triển của khoa học. NGHIÊN CỨU KHOA HỌCGiới thiệu Nội dung chương này giới thiệu tổng quan về phương pháp nghiên cứu khoa học. Cụ thể, phần đầu 1 sẽ trình bày khái niệm nghiên cứu khoa học và các tiêu chí hay các phân loại nghiên cứu khoa học; tiếp theo, phần 1 gồm những thuật ngữ cơ bản trong nghiên cứu khoa học. Trong phần 1, tiến trình tư duy của một nghiên cứu khoa học tiêu chuẩn sẽ được giới thiệu chi tiết theo các bước cơ bản mà nhà nghiên cứu cần thực hiện. Cuối cùng, phần 1 đề cập đến cách trình bày các nội dung chính của các sản phẩm nghiên cứu khoa học. Qua chương này, học viên sẽ có cái nhìn tổng quan về phương pháp nghiên cứu khoa học, nắm được những vấn đề cơ bản như thế nào được gọi là một nghiên cứu khoa học, cách phân loại và đặc biệt cách trình bày theo đúng tiêu chuẩn của một nghiên cứu khoa học. Các nội dung này là nền tảng để học viên tiếp tục đi sâu tham khảo các nội dung ở các chương tiếp sau. 1. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ CÁC PHÂN LOẠI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 1.1. Khái niệm về nghiên cứu khoa học Thuật ngữ nghiên cứu có nguồn gốc từ recherche trong tiếng Pháp (“recerchier” trong tiếng Pháp xưa và được sử dụng lần đầu vào năm 1577) với ý nghĩa ban đầu là sự tìm kiếm. Nghiên cứu có nhiều định nghĩa khác nhau. Theo định nghĩa rộng nhất của Martyn Shuttleworth (2008), “ nghiên cứu bao hàm bất cứ sự thu thập dữ liệu, thông tin, và dữ kiện nào nhằm thúc đẩy tri thức ”. Creswell (2008) định nghĩa “ nghiên cứu là một quá trình có các bước thu thập và phân tích thông tin nhằm về thế giới tự nhiên và xã hội. Những kiến thức hay lý thuyết mới này, tốt hơn, phù hợp hơn, có thể thay thế dần cho những kiến thức cũ, không còn phù hợp với thực tế. Ví dụ, như quan niệm: Trái đất hình vuông được thay thế bằng quan niệm trái đất có hình tròn. Nghiên cứu khoa học dựa vào việc ứng dụng các phương pháp khoa học, khai thác trí tò mò để cung cấp thông tin và lý thuyết khoa học nhằm giải thích bản chất và tính chất của thế giới. Nó có thể giúp tạo ra những ứng dụng thực tiễn giúp cải thiện hoạt động của con người. Phương pháp nghiên cứu khoa học là quá trình được sử dụng để thu thập thông tin và dữ liệu phục vụ cho các quyết định nghiên cứu. Các phương pháp nghiên cứu có thể bao gồm nghiên cứu lý thuyết, phỏng vấn, khảo sát và các nghiên cứu kỹ thuật khác; và có thể bao gồm cả thông tin hiện tại và quá khứ. Cần phân biệt phương pháp nghiên cứu và tiếp cận nghiên cứu. Nếu như phương pháp nghiên cứu bao hàm trong nó tổng quan quy trình của một nghiên cứu khoa học, thì tiếp cận nghiên cứu là một nội dung đầu tiên trong quy trình nghiên cứu, giúp nhà nghiên cứu định hướng rõ hơn con đường (định tính hay định lượng) thực hiện nghiên cứu đã xác định. Những ngành khoa học khác nhau có những phương pháp nghiên cứu khoa học (PP NCKH) khác nhau. Các ngành khoa học tự nhiên (vật lý, hoá học, nông nghiệp...) sử dụng phương pháp thực nghiệm, như tiến hành bố trí thí nghiệm để thu thập số liệu, để giải thích và kết luận. Các ngành khoa học xã hội (nhân chủng học, kinh tế, lịch sử...) sử dụng phương pháp thu thập thông tin từ sự quan sát, phỏng vấn hay điều tra. Tuy nhiên, PP NCKH đều có những bước chung như quan sát sự vật hay hiện tượng, đặt vấn đề và lập giả thuyết, thu thập số liệu và dựa trên số liệu để rút ra kết luận. Đồng thời, khía cạnh đạo đức đều hiện diện trong mỗi bước của chu trình nghiên cứu khoa học. Các nghiên cứu trong khoa học quản trị được xây dựng trên một nền tảng của sự tin tưởng. Các nhà nghiên cứu tin tưởng rằng kết quả nghiên cứu của các tác giả khác là đúng đắn. Xã hội cũng tin tưởng rằng kết quả nghiên cứu khoa học phản ánh trung thực, chính xác, khách quan các hiện tượng quản trị, kinh tế xã hội. Vì vậy, đạo đức nghiên cứu trong nghiên cứu quản trị gắn liền với sự tôn trọng những nguyên tắc đạo đức căn bản của nhà nghiên cứu, như: Tính trung thực, khách quan và tuân thủ đúng quy trình xây dựng hiện tượng, đối tượng và khung lý luận nghiên cứu, cũng như trong quá trình thu thập số liệu và phân tích dữ liệu. Có nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại các nghiên cứu khoa học. Trong phạm vi của cuốn sách này, chúng tôi xin được phép chỉ đề cập đến các phương pháp phân loại thông dụng và phổ thông nhất. 1.1. Phân loại nghiên cứu khoa học 1.1.2. Nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng Nghiên cứu cơ bản (còn được gọi là nghiên cứu nền tảng, nghiên cứu thuần túy hoặc nghiên cứu hàn lâm) là một nghiên cứu có hệ thống hướng tới sự phát triển tri thức hay sự hiểu biết về các khía cạnh cơ bản của hiện tượng. Nghiên cứu cơ bản được thực hiện mà không cần suy nghĩ về một mục tiêu cuối cùng mang tính ứng dụng thực tế. Nó được thực hiện bởi sự tò mò hoặc đam mê của nhà khoa học để trả lời những câu hỏi khoa học, do đó, động lực để thôi thúc các nhà khoa học tiến hành nghiên cứu là mở rộng kiến thức. Nghiên cứu cơ bản được thực hiện trong tất cả các ngành khoa học và kỹ thuật. Nghiên cứu cơ bản tập trung vào xây dựng, khẳng định hoặc bác bỏ lý thuyết để giải thích hiện tượng quan sát được. Nghiên cứu cơ bản là nguồn gốc của hầu hết các ý tưởng khoa học mới và cách suy nghĩ về thế giới. Nó có thể được khám phá, mô tả hoặc giải thích. Nghiên cứu cơ bản tạo ra những ý tưởng mới, nguyên tắc và lý thuyết, nó có thể không được sử dụng ngay lập tức nhưng lại hình thành cơ sở của sự tiến bộ và phát triển trong các lĩnh vực khác nhau. Nghiên cứu cơ bản hiếm khi giúp ta liên hệ trực tiếp với những vấn đề hàng ngày; tuy nhiên, nó kích thích cách suy nghĩ mới đối với các nhà nghiên cứu với một vấn đề trong tương lai. Phần lớn các nhà khoa học cho rằng những hiểu biết một cách cơ bản, nền tảng về tất cả các khía cạnh của
1.1.2. Nghiên cứu quy nạp (inductive) và nghiên cứu diễn dịch (deductive) Phân loại tương quan giữa phương pháp nghiên cứu quy nạp (inductive) và nghiên cứu diễn dịch (deductive) được thể hiện như trong hình 1 sau đây: Hình 1. Nghiên cứu quy nạp và nghiên cứu diễn dịch Nguồn: Thiétart và ctg., 2003 Nghiên cứu diễn dịch: Suy luận diễn dịch trước hết là phương tiện dùng để chứng minh một sự vật hoặc hiện tượng nào đó trong tự nhiên (Grawitz, 1996). Suy luận diễn dịch có đặc trưng là nếu các giả thuyết được lập ra ban đầu (tiền đề) đúng thì kết luận cũng phải đúng. Theo Aristotle, kiến thức đạt được nhờ sự suy luận. Muốn suy luận phải có tiền đề và tiền đề đó đã được chấp nhận. Vì vậy, một tiền đề có mối quan hệ rất rõ ràng với kết luận. Suy luận suy diễn là suy luận đi từ cái chung tới cái riêng. Chúng ta có thể lấy ví dụ suy luận diễn dịch theo như sau:
Trên thực tế, suy luận diễn dịch cũng không chỉ giới hạn trong thuyết tam đoạn luận trong ví dụ nêu trên. Các nhà lý luận phân biệt giữa diễn dịch hình thức và diễn dịch sáng tạo. Diễn dịch hình thức là quá trình suy luận dựa trên việc chuyển từ điều còn tiềm ẩn sang điều hiển nhiên, rõ ràng. Và hình thức hay sử dụng nhất chính là thuyết tam đoạn luận nêu trên. Theo đó, suy luận là “một quá trình logic qua đó có thể rút ra từ một hay nhiều đề xuất ban đầu một kết luận” (Morfaux, 1980). Thuyết tam đoạn luận là một quá trình suy luận logic chặt chẽ, tuy nhiên đôi khi nó không đưa ra một kết luận giúp nhận thức một sự việc mới nào cả. Kết luận đã được giả định trước trong các tiền đề, và do đó, lý luận mang tính chất lặp lại và trùng ý. Trái lại, theo suy luận sáng tạo, kết luận là một kiến thức mới mẻ mang lại hiểu biết mới. Kết luận không chỉ là biểu hiện của nội dung các tiền đề mà còn là các bước lý luận theo đó người ta chỉ ra một điều là kết quả của một điều khác. Do vậy, nghiên cứu diễn dịch là suy luận dựa trên cách tiếp cận giả thuyết - suy luận. Cách tiếp cận này dựa trên việc xây dựng một hay nhiều giả thuyết và ra các khái niệm lý thuyết mới vững chắc, chặt chẽ và hợp lý. Ngày nay, các nhà nghiên cứu đã kết hợp cả hai phương pháp trên hay còn gọi là “phương pháp khoa học”, theo đó, phương pháp khoa học cần phải xác định tiền đề chính (gọi là giả thuyết) và sau đó phân tích các kiến thức có được (nghiên cứu riêng) một cách logic để kết luận giả thuyết. 1.1.2. Nghiên cứu định tính (qualitative) và nghiên cứu định lượng (quantitative) Khi tiến hành nghiên cứu, nhà nghiên cứu phải lựa chọn phương pháp thu thập và phân tích số liệu. Có thể sử dụng một trong hai phương pháp là phương pháp định tính và phương pháp định lượng hoặc cả hai phương pháp bổ sung cho nhau. Grawitz (1996) đã khẳng định rằng, trong quá trình nghiên cứu luôn cần phải phân biệt giữa chất lượng và số lượng. Tuy nhiên, sự phân biệt này đôi khi là không rõ ràng. Brabet (1988) đã đặt ra câu hỏi liệu có còn cần phải phân biệt giữa phương pháp định tính và phương pháp định lượng nữa hay không vì sự phân biệt này hoàn toàn không rõ ràng và đòi hỏi phải dựa trên nhiều tiêu chí để đánh giá. Khi phân biệt giữa chất lượng và số lượng, các tác giả sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau như “dữ liệu định tính và dữ liệu định lượng, “biến số định tính và biến số định lượng”, “phương pháp định tính và phương pháp định lượng” hay “nghiên cứu định tính” (Grawitz, 1993; Evrard và cộng sự , 1993; Glaser và Strauss, 1967; Miles và Huberman, 1984; Silverman, 2001). Thực tế, sự khác biệt giữa định tính và định lượng cũng rất mơ hồ vì không có những tiêu chí cho phép phân biệt hai phương pháp một cách tuyệt đối. Trong tài liệu này, chúng ta cùng phân biệt nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng dựa trên một số tiêu chí khác nhau như: bản chất của dữ liệu, định hướng nghiên cứu, tính chất khách quan hay chủ quan của kết quả nghiên cứu và tính linh hoạt của nghiên cứu. - Phân biệt dựa vào bản chất của dữ liệu: Đã có nhiều tác giả phân biệt chất lượng và số lượng trong nghiên cứu dựa vào bản chất của dữ liệu. Theo Miles và Huberman (1984), “dữ liệu định tính mang hình thức của từ chứ không phải là con số”. Theo Yin (2013), “dữ liệu số”cung cấp bằng chứng về mặt số lượng, trong khi “dữ liệu không phải số”cung cấp bằng chứng có tính chất định tính. Tuy nhiên, bản chất của dữ liệu không buộc nhà nghiên cứu phải sử dụng cách xử lý giống nhau. Ví dụ như nhà nghiên cứu có thể sử dụng phương pháp xử lý số liệu thống kê thường mang tính định lượng để xử lý các biến số danh nghĩa. Thực tế, bản chất của số liệu không quyết định việc lựa chọn phương pháp nghiên cứu định tính hay định lượng. Evrard và cộng sự (1993) cũng chỉ ra rằng không nên nhầm lẫn giữa các dữ liệu định tính với dữ liệu định lượng với các nghiên cứu trên cùng một đối tượng. Do dó, để phân biệt giữa nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng cần phải đánh giá thêm các tiêu chí khác nữa.
Về cơ bản, tính chất giúp phân biệt nghiên cứu định tính nằm trong cách thức giải thích vấn đề. Việc phân tích, giải thích phải dựa trên vị trí là một đối tượng được nghiên cứu chứ không phải của nhà nghiên cứu. Nhà nghiên cứu sẽ giải thích với tính chủ quan của mình nhưng sự đánh giá của nhà nghiên cứu đối với hiện tượng sẽ có giá trị hơn bởi được tham gia trực tiếp vào trong phạm vi nghiên cứu (Lincoln và Guba, 1985). Như vậy, việc thu thập và phân tích dữ liệu phải dựa trên vị trí của nhà nghiên cứu. Nghiên cứu định tính cho phép đưa vào đó yếu tố chủ quan nhiều hơn so với nghiên cứu định lượng và do vậy, nó phù hợp hơn với các nghiên cứu mang tính chất tìm tòi, xây dựng lý thuyết mới.
Tóm lại, chúng ta có thể tổng hợp lại những khác biệt chính giữa nghiên cứu định lượng và nghiên cứu định tính như sau (Bảng 1): Bảng 1: Phân biệt nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng Yếu tố Định tính Định lượng Dữ liệu thu được Dữ liệu “mềm” (tính chất) Dữ liệu “cứng” (số lượng) Phương pháp thu thập dữ liệu Chủ động giao tiếp với đối tượng nghiên cứu Thụ động giao tiếp với đối tượng nghiên cứu Số lượng mẫu (đối tượng nghiên cứu) Nhỏ Lớn Thu thập dữ liệu Trực tiếp qua quan sát hay phỏng vấn Phải qua xử lý Mối quan hệ Trực tiếp tiếp xúc với người được phỏng vấn Gián tiếp Bối cảnh nghiên cứu Không kiểm soát Có kiểm soát Phân tích dữ liệu Phân tích nội dung Phân tích số liệu với sự hỗ trợ của các trình xử lý dữ liệu Ví dụ Nghiên cứu hệ thống quản trị rủi ro của ngân hàng Vietcomank Nghiên cứu các yếu tố tác động đến quyết định mua của khách hàng 1. NHỮNG THUẬT NGỮ CƠ BẢN TRONG NGHIÊN CỨUKHOA HỌC 1.2. Khái niệm a) Định nghĩa Khái niệm là quá trình nhận thức hay tư duy của con người bắt đầu từ những tri giác hay bằng những quan sát sự vật hiện thực tác động vào giác quan. Như vậy, có thể nói khái niệm là hình thức của tư duy, nó phản ánh một lớp các đối tượng như sự vật, quá trình và hiện tượng thông qua các thuộc tính, đặc trưng, bản chất của các đối tượng đó. Khái niệm hình thành nên sự hiểu biết của con người về các sự vật, hiện tượng được phản ánh. Mỗi một khái niệm là đánh dấu một nấc thang của sự hiểu biết và góp phần hình thành nên toàn bộ tri thức nói chung. Nhà Khái niệm quan hệ và khái niệm không quan hệ: Khái niệm quan hệ là khái niệm phản ánh các đối tượng mà sự tồn tại của chúng quyết định sự tồn tại của khái niệm khác. Ví dụ: vợ và chồng , cha mẹ và con cái. Khái niệm không quan hệ là khái niệm phải ánh đối tượng mà sự tồn tại của chúng mang tính độc lập, không phụ thuộc vào khái niệm khác. Ví dụ: Luật sư, pháp luật ... - Căn cứ vào ngoại diên của khái niệm: Khái niệm được chia thành khái niệm chung, khái niệm đơn nhất và khái niệm rỗng. Khái niệm mà ngoại diên chỉ gồm một đối tượng là khái niệm đơn nhất, ví dụ: Thủ tướng Anh. Khái niệm có ngoại diên chứa từ hai đối tượng trở lên gọi là khái niệm chung, ví dụ: Luật, nghị định, bộ trưởng... Khái niệm chung còn được chia thành khái niệm chung hữu hạn ( các tỉnh ở Việt Nam, các bộ trưởng ... ) và khái niệm chung vô hạn ( giao dịch dân sự ... ). Khái niệm mà ngoại diên là tập hợp rỗng, nghĩa là không chứa bất kỳ đối tượng nào là khái niệm rỗng. Những khái niệm rỗng thường là sản phẩm của trí tưởng tượng con người, ví dụ như “ hình vuông tròn” , “ số tự nhiên lớn nhất ”, “ nàng tiên cá ”. Căn cứ vào ngoại diên khái niệm còn có thể hiểu theo nghĩa tập hợp và theo nghĩa phân liệt. Khái niệm có ngoại diên chứa từ hai đối tượng trở lên nhưng lớp các đối tượng trong ngoại diên được suy nghĩ đến như một chỉnh thể thống nhất gọi là hiểu theo nghĩa tập hợp, hay ngắn gọn là khái niệm tập hợp Ví dụ: Bộ Luật Lao động, văn bản quy phạm pháp luật ... Khái niệm có ngoại diên chứa từ hai đối tượng trở lên và nội hàm của khái niệm có thể quy về cho từng đối tượng đó gọi là khái niệm phân biệt. Ví dụ, khái niệm “ con người ” có thể hiểu theo nghĩa tập hợp, lúc đó nó tương đương với khái niệm “loài người”, hoặc hiểu theo nghĩa phân liệt, khi đó nó không tương đương với khái niệm “loài người”.
riêng, cái đặc thù, và đi từ cái riêng, cái đặc thù đến cái chung, cái phổ biến. Mặt hình thức của các phương pháp vừa nói chính là thu hẹp và mở rộng khái niệm. Mở rộng khái niệm là thao tác logic đi từ khái niệm với ngoại diên hẹp đến khái niệm với ngoại diên rộng hơn, bao hàm nó. Thu hẹp khái niệm là thao tác logic đi từ khái niệm với ngoại diên rộng đến khái niệm với ngoại diên hẹp. Mở rộng và thu hẹp khái niệm giúp ta xác định nội hàm và ngoại diên của khái niệm được tốt hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho định nghĩa và phân chia khái niệm.
1.2. Định nghĩa Định nghĩa là sự xác định bằng ngôn ngữ nhất định những đặc trưng cơ bản tạo thành nội dung của khái niệm về một sự vật, hiện tượng hay quá trình, với mục đích phân biệt nó với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác. Nói cách khác, định nghĩa là thao tác logic xác định, nêu lên nội hàm của khái niệm, giúp xác định được các đối tượng mà khái niệm phản ánh. Định nghĩa có vai trò quan trọng trong khoa học và là bộ phận căn bản trong mọi lý thuyết khoa học (Thiétart và ctg., 2003). |