Phương pháp luận nghiên cứu khoa học mới 2024

Phương pháp luận nghiên cứu khoa học là tập hợp các phương pháp luận, nguyên tắc, phương pháp chung và cơ bản được áp dụng trong nghiên cứu khoa học để đạt được các mục đích của nghiên cứu. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học bao gồm các thành phần chính sau:

  1. Triết học nghiên cứu khoa học: Đây là cơ sở lý luận và thế giới quan của nghiên cứu khoa học, bao gồm các vấn đề liên quan đến bản chất của thế giới, tính khách quan và chủ quan, quan hệ giữa lý thuyết và thực tiễn, v.v.
  2. Khái niệm và ngôn ngữ nghiên cứu khoa học: Đây là các công cụ cơ bản được sử dụng trong nghiên cứu khoa học để biểu đạt các thông tin, dữ liệu và kết quả nghiên cứu. Các khái niệm và ngôn ngữ này phải được sáng sủa, rõ ràng, nhất quán và có tính khách quan khoa học.
  3. Các phương pháp nghiên cứu khoa học: Đây là các phương pháp chung được sử dụng trong nghiên cứu khoa học để thu thập dữ liệu, phân tích thông tin và đưa ra kết luận. Các phương pháp nghiên cứu khoa học bao gồm nhiều loại khác nhau, chẳng hạn như phương pháp quan sát, phương pháp thực nghiệm, phương pháp điều tra, phương pháp thống kê, v.v.
  4. Các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng nghiên cứu khoa học: Đây là các tiêu chuẩn được sử dụng để đánh giá chất lượng của một nghiên cứu khoa học, bao gồm các tiêu chuẩn liên quan đến tính khách quan, tính hợp lệ, tính tin cậy, tính tổng quát, tính mới và tính ứng dụng của nghiên cứu.

Phương pháp luận nghiên cứu khoa học đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng và tính khách quan của nghiên cứu khoa học. Nó cung cấp một khuôn khổ rõ ràng và nhất quán để các nhà nghiên cứu tiến hành nghiên cứu, giúp tăng tính hiệu quả và độ tin cậy của các kết quả nghiên cứu.

Một số ví dụ về phương pháp luận nghiên cứu khoa học bao gồm:

  • Phương pháp luận khoa học tự nhiên: Đây là phương pháp luận nghiên cứu khoa học truyền thống, được sử dụng rộng rãi trong các ngành khoa học tự nhiên như Vật lý, Hóa học, Sinh học, v.v. Phương pháp luận khoa học tự nhiên dựa trên nguyên tắc quan sát, thực nghiệm và suy luận.
  • Phương pháp luận khoa học xã hội: Đây là phương pháp luận nghiên cứu khoa học được áp dụng trong các ngành khoa học xã hội như Xã hội học, Tâm lý học, Kinh tế học, v.v. Phương pháp luận khoa học xã hội dựa trên nguyên tắc hiểu biết và giải thích các hiện tượng xã hội thông qua các phương pháp nghiên cứu khác nhau, chẳng hạn như điều tra, quan sát, phỏng vấn, v.v.
  • Phương pháp luận nghiên cứu hành động: Đây là phương pháp luận nghiên cứu khoa học được sử dụng trong các nghiên cứu hành động, tức là các nghiên cứu nhằm can thiệp vào một tình huống thực tế để cải thiện tình hình. Phương pháp luận nghiên cứu hành động bao gồm các bước như chẩn đoán tình hình, lên kế hoạch hành động, thực hiện hành động, đánh giá kết quả và điều chỉnh kế hoạch nếu cần.

Nghiên cứu khoa học là sự tìm kiếm những điều mà khoa học chưa biết: hoặc là phát hiện bản chất sự vật, phát triển nhận thức khoa học về thế giới; hoặc là sáng tạo phương pháp mới và phương tiện kỹ thuật mới để làm biến đổi sự vật phục vụ cho mục tiêu hoạt động của con người.

Nghiên cứu khoa học là loại hoạt động đặc biệt. Nó đặc biệt ở chỗ đó là công việc tin kiểm những điều chưa biết và người nghiên cứu hoàn toàn không để hình dung được, hoặc không thể hình dung thật chính xác kết quả dự kiến. Điều này khác biệt hoàn toàn với hàng loạt hoạt động khác trong đời sống xã hội, chẳng hạn, khi xây dựng một toả nhà thì người kỹ sư xây dựng đã hình dung rất rõ công trình của mình, từ địa điểm xây dựng, hướng nhà, diện tích xây dựng. phong cách kiến trúc, kết cấu, bố trí nội thất, bố trí ngoại thất và chỉ phi xây dựng.

Có thể nói, nghiên cứu khoa học là sự tìm tòi, khám phá trong một thế giới hoàn toàn chưa được biết đến, và kết quả tìm kiếm ra sao cũng không thể dự kiến trước một cách chi tiết.

Chính vị vậy, mà trong nghiên cứu khoa học, mỗi người nghiên cứu cần đưa ra một cặc một số nhận định sơ bộ về kết quả cuối cùng của nghiên cứu Gọi đó là giả thuyết nghiên cứu, hoặc giả thuyết khoa học

Giáo trình khác

Gợi ý cho bạn

Phương pháp luận nghiên cứu khoa học mới 2024

31 Tháng 08

Sự xuất hiện của BadBazaar Android Spyware - Đe dọa người dùng Signal và Telegram

Trong thời kỳ số hóa ngày càng mở rộ, nguy cơ về an ninh mạng ngày càng gia tăng. Mới đây, các chuyên gia an ninh đã phát hiện ra sự hiện diện của phần mềm độc hại Android mang tên BadBazaar. Điều đáng lo ngại là BadBazaar đã được phân phối thông qua các ứng dụng giả mạo của Signal và Telegram trên cửa hàng Google Play Store và Samsung Galaxy Store. Hãy cùng điểm qua những phát hiện quan trọng từ cuộc nghiên cứu này.

Phương pháp luận nghiên cứu khoa học mới 2024

17 Tháng 05

Lợi ích của thực phẩm sạch đối với sức khỏe con người

Thực phẩm sạch là một khái niệm ngày càng được quan tâm và ưa chuộng trong xã hội hiện đại. Đối với sức khỏe con người, việc tiêu thụ thực phẩm sạch mang lại nhiều lợi ích to lớn. Bài viết này sẽ trình bày về những lợi ích đó trong một phạm vi 5000 từ, từ vai trò của thực phẩm sạch trong việc cung cấp chất dinh dưỡng quan trọng cho cơ thể đến khả năng giảm nguy cơ mắc các bệnh mãn tính.

Phương pháp luận nghiên cứu khoa học mới 2024

21 Tháng 04

Quy luật 37% là gì?

Thống kê học có nhiều quy luật và hằng số chẳng những rất thú vị mà còn gây ngạc nhiên. Chúng ta đã biết những trị số 0.05 để tuyên bố một khám phá, hay hằng số 1.96 của phân bố chuẩn có ảnh hưởng đến cuộc sống như thế nào. Nhưng có lẽ ít ai biết được quy luật 37%. Đây là một quy luật mới được tái khám phá, nhưng có nhiều ứng dụng trong y khoa, khoa học, tìm nhân viên, thậm chí... tình yêu.

Phương pháp luận nghiên cứu khoa học mới 2024

08 Tháng 12

Điều gì xảy ra nếu như các máy chủ lớn nhất thế giới mất hết dữ liệu

Bạn có bao giờ tưởng tượng nếu một ngày nào đó, toàn bộ dữ liệu internet bị mất đi? Không còn email, không còn mạng xã hội, không còn tin tức, không còn video, không còn âm nhạc, không còn game, không còn gì cả. Chỉ còn lại những thiết bị điện tử vô dụng và những ký ức mờ nhạt về thế giới kỹ thuật số đã từng tồn tại.

Phương pháp luận nghiên cứu khoa học mới 2024

13 Tháng 01

Phòng tránh Gian lận Trực tuyến khi Mua Sắm Trên Sàn Thương mại Điện tử

Mua sắm trực tuyến đã trở thành một phần quan trọng của cuộc sống hàng ngày, giúp chúng ta tiết kiệm thời gian và năng lượng. Tuy nhiên, cùng với sự thuận tiện này là nguy cơ gặp phải các trường hợp gian lận trực tuyến, đặc biệt là khi mua hàng trên các sàn thương mại điện tử

1.1. Khái niệm: Khoa học là một hệ thống tri thức v ề tự nhiên, xã hội và tư duy, về các quy luật vận động của vật chất cũng như những quy luật phát triển khách quan của tự nhiên, xã hội và tư duy. Hệ thống tri thức này được hình thành và tích lũy trong lịch sử phát triển của loài người thông qua các hoạt động tìm tòi, sáng tạo của nhân loại. Nó không ngừng được phát triển dựa trên cơ sở thực tiễn xã hội. Mục tiêu cơ bản của khoa học là xây dựng lý luận nhằm phát hiện, giải thích và dự báo về bản chất của các hiện tượng tự nhiên và xã hội, phát hiện ra mối liên hệ giữa chúng, và trang bị cho con người những tri thức về quy luật khách quan của thế giới hiện thực mà họ có thể áp dụng vào các hoạt động thực tiễn sản xuất và đời sống Khoa học còn giúp con người sáng tạo ra các sản phẩm mới, tri thức mới, đề ra các giải pháp mới nhằm phục vụ cho mục tiêu sinh tồn và phát triển của con người và xã hội loài người.

Hệ thống tri thức được đề cập ở đây là hệ thống tri thức khoa học. Chúng ta cần phân biệt tri thức khoa học và tri thức kinh nghiệm. - Tri thức kinh nghiệm : là những hiểu biết và kinh nghiệm mà con người tích lũy được từ những hoạt động thường ngày, từ mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, và từ mối quan hệ giữa con người với nhau. Tri thức kinh nghiệm giúp con người hiểu biết về sự vật, biết cách quản lý thiên nhiên, biết cách ứng xử trong các quan hệ xã hội, và tìm ra cách giải quyết những vấn đề phát sinh trong tự nhiên và xã hội để có thể sinh tồn và phát triển. Tri thức kinh nghiệm không ngừng được sử dụng và phát triển trong hoạt động thực tiễn nhưng do quá trình tích lũy tri thức kinh

nghiệm thường diễn ra một cách rời rạc và ngẫu nhiên. Mặc dù tri thức kinh nghiệm là cơ sở cho sự hình thành các tri thức khoa học, nó chỉ phát triển đến một giới hạn hiểu biết nhất định. Ví dụ: Trắng quầng thì hạn, trăng tán thì mưa. - Tri thức khoa học : là những hiểu biết được tích lũy một cách có hệ thống thông qua các hoạt động nghiên cứu khoa học. Các hoạt động này được thực hiện theo một kế hoạch đã được vạch ra từ trước, có mục tiêu xác định và được tổ chức và triển khai dựa trên các phương pháp khoa học. Tri thức khoa học tổng hợp và khái quát hóa các số liệu và sự kiện ngẫu nhiên, rời rạc thành những cơ sở lý thuyết về logic tất yếu. Tri thức khoa học được xác lập dựa trên các căn cứ xác đáng, và các kết luận đã được khảo nghiệm và kiểm chứng. Tri thức khoa học được tổ chức trong khuôn khổ các bộ môn khoa học (disciplines) như Toán học, Vật lý học, Sinh học, Triết học, Tâm lý học, Giáo dục học, Xã hội học, vv...

1.1. Phân loại khoa học Phân loại khoa học là sự sắp xếp các bộ môn khoa học thành từng nhóm dựa theo một tiêu thức nào đó. Có nhiều cách phân loại khoa học. Dưới đây là một số cách phân loại khoa học phổ biến: 1.1.2. Phân loại theo đối tượng nghiên cứu của khoa học Dựa trên đối tượng nghiên cứu, về cơ bản khoa học được chia thành 2 nhóm chính: Khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. - Khoa học tự nhiên (n atural sciences) nghiên cứu các vật thể, hiện tượng tồn tại trong tự nhiên, và các quy luật tự nhiên ví dụ như âm thanh, vật chất, thiên thể, trái đất, hoặc cơ thể con người, hay quy luật vạn vật hấp dẫn ... Khoa học tự nhiên có thể phân chia thành các nhóm nhỏ hơn như khoa học vật chất, khoa học trái đất, khoa học sự sống, và các ngành khoa học khác. Khoa học vật chất (physical sciences) bao gồm các bộ môn khoa học như vật lý, hóa học, và thiên văn học. Địa chất học trực thuộc khoa học trái đất (earth sciences) trong khi các bộ 1 môn như sinh học và thực vật học được xếp vào khoa học sự sống (life sciences).

- Khoa học nông nghiệp ( A gricultural sciences) bao gồm các ngành như nông lâm ngư nghiệp, chăn nuôi, thú y và các bộ môn khoa học nông nghiệp khác; - Khoa học xã hội ( S ocial Sciences) có các ngành như tâm lý học, xã hội học, khoa học giáo dục, kinh tế học và kinh doanh, luật, khoa học chính trị, truyền thông và các bộ môn khoa học xã hội khác; và - Khoa học nhân văn (Hum anities) bao gồm lịch sử và khảo cổ học, văn học và ngôn ngữ, triết học, tôn giáo và đạo đức học, nghệ thuật và các bộ môn khoa học nhân văn khác. Hiện nay vẫn còn một số tranh cãi về các cách phân loại trên liên quan đến việc phân nhóm toán học và triết học. Theo một số tác giả, không thể xếp toán học vào nhóm khoa học tự nhiên cũng như không thể xếp triết học vào nhóm khoa học xã hội và nhân văn vì đối tượng nghiên cứu của toán học và triết học khác với đối tượng nghiên cứu của các ngành khoa học đang được xếp cùng nhóm. Đối tượng nghiên cứu của toán học không phải là vật thể tồn tại trong tự nhiên và hiện tượng tự nhiên như các bộ môn khoa học tự nhiên khác. Toán học nghiên cứu các hình thức không gian và quan hệ định lượng giữa các sự vật, hiện tượng. Tương tự đối tượng nghiên cứu của triết học không phải là con người và hành vi mà là các quy luật phổ biến của tự nhiên, xã hội, tư duy, phương pháp luận chung về nhận thức khoa học. Theo một số cách phân loại, triết học và toán học được xếp thành một nhóm riêng ngoài khoa học xã hội và khoa học tự nhiên. Popper (2002) đã xếp toán học, logic học, xác xuất thống kê, lý thuyết thông tin, lý 1 thuyết hệ thống và một số bộ môn khoa học khác vào nhóm formal sciences (tạm dịch là khoa I học chính thức). Khác với khoa học tự nhiên, khoa học chính thức không đề cập đến tính xác thực của lý thuyết dựa trên những quan sát thực nghiệm. Khoa học chính thức quan tâm đến đặc tính của các hệ thống tư duy trừu tượng dựa trên các định nghĩa và quy luật. Mặc dù vậy, khoa học chính thức có tầm ảnh hưởng lớn đến các ngành khoa học khác. Ví dụ như, các phương pháp của khoa học chính thức đóng vai trò quan trọng đối với việc xây dựng và kiểm tra các mô hình khoa học dùng để giải quyết các vấn đề trong hiện thực. Những tiến triển quan trọng trong khoa học chính thức thường làm tiền đề cho sự phát triển chủ đạo trong các ngành khoa học thực nghiệm. 1 __ .2. Phân loại theo mục đích

Theo cách phân loại này, khoa học được chia thành 2 nhóm chính: Khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng.

- Khoa học cơ bản ( basic sciences) hay còn gọi là khoa học thuần túy (pure sciences) bao gồm các ngành khoa học giải thích về các vật thể và các lực cơ bản nhất cũng như mối quan hệ giữa chúng, và các định luật chi phối chúng. Vật lý, sinh học, và hóa học là những ngành khoa học thuộc nhóm khoa học cơ bản. C - Khoa học ứng dụ ng ( applied sciences) bao gồm các ngành khoa học áp dụng những kiến thức từ khoa học cơ bản vào thực tiễn. Ví dụ, kỹ thuật là một ngành khoa học ứng dụng. Ngành kỹ thuật áp dụng các định luật vật lý và hóa học để phát triển những ứng dụng có tính thực tiễn cao như xây dựng những cây cầu vững chắc hơn, hay chế tạo ra các động cơ tiết kiệm nhiên liệu. Trong khi đó, y học áp dụng những kiến thức của sinh học vào việc trị bệnh cho con người.

Cả khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng điều cần thiết cho sự phát triển của xã hội loài người. Tuy nhiên, khoa học ứng dụng không thể tồn tại độc lập, nó phải dựa vào khoa học cơ bản để phát triển.

  • Ngoài hai cách phân loại kể trên, khoa học còn được phân loại dựa theo phương pháp hình thành khoa học, theo mức độ khái quát của khoa học, và theo tính tương liên giữa các khoa học... 1.1. Lý thuyết khoa học Lý thuyết là nền tảng của khoa học. Không có bộ môn hay ngành khoa học nào tồn tại mà không có một hệ thống lý thuyết. Nghiên cứu khoa học luôn luôn phải dựa trên cơ sở lý thuyết. Và một trong những sản phẩm quan trọng của nghiên cứu khoa học là sự đóng góp vào hệ thống lý thuyết hiện có. 1.1.3. Khái niệm Lý thuyết khoa học là một hệ thống các khái niệm có liên quan với nhau với nhau và các luận điểm về mối liên hệ giữa các khái niệm đó. Chúng được đề ra để giải thích và dự đoán về sự vật, hiện tượng tự nhiên hay xã hội một cách logic, có hệ thống và chặt chẽ trong phạm vi các giả định và điều kiện biến nhất định. Lý thuyết khoa học không chỉ mô tả hay dự đoán sự vật hay hiện tượng mà còn phải giải thích nguyên nhân vì sao sự vật hay hiện tượng đó xảy ra, hay lý giải mối quan hệ nhân quả giữa các khái niệm. Lý thuyết khoa học có thể được kiểm nghiệm hay bị bác bỏ bằng các phương pháp khoa học. Do lý thuyết giải thích về kiểu mẫu các sự kiện, hành vi hay hiện tượng, về

- Khái niệm là một hình thức tư duy được diễn đạt ở mức độ trừu tượng hóa cao. Khái niệm được xây dựng để gọi tên, và nhận dạng bản chất của sự vật hay hiện tượng đang được quan tâm. Khái niệm có hai bộ phận nội hàm và ngoại diên. Nội hàm là tất cả thuộc tính của sự vật hay hiện tượng được định nghĩa trong khái niệm. N goại diện bao gồm tất cả các đối tượng thỏa mãn nội hàm của khái niệm. Ví dụ, khái niệm “khoa học” có nội hàm là “hệ thống tri thức về bản chất của sự vật”, ngoại diện của “khoa học” bao gồm khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học nông nghiệp vv... Một khái niệm chuẩn xác phải có nội hàm xúc tích và ngoại diện phù hợp với khái niệm được định nghĩa. Nội hàm và ngoại diện có mối tương quan nghịch chiều: nội hàm càng được mở rộng (chứa càng nhiều thuộc tính thì ngoại diện càng bị thu hẹp. Có 2 loại khái niệm: khái niệm đơn hướng và khái niệm đa hướng. Khái niệm đơn hướng chỉ chứa một khái niệm đơn giản, ví dụ như cân nặng, tuổi tác. Khái niệm đa hướng bao gồm nhiều khái niệm có liên hệ với nhau. Ví dụ, khái niệm nhân cách bao hàm một số khái niệm cơ bản như ý nghĩ, cảm xúc, hành vi ... của con người. - Quy luật là những liên kết giả định giữa các khái niệm dựa trên logic suy diễn. Quy luật được trình bày dưới dạng khẳng định và phải chỉ ra được mối quan hệ nhân quả (ví dụ, nếu X xảy ra, thì sau đó Y sẽ xảy ra). Cần ghi nhớ rằng mặc dù quy luật có thể chỉ có tính phỏng đoán nhưng các quy luật phải kiểm tra được, và có thể bị bác bỏ nếu chúng không được chứng minh bởi các quan sát thực nghiệm. Các mối liên hệ được trình bày trong các quy luật của lý thuyết khoa học phải là những mối liên hệ có tính tất yếu, ổn định, lặp đi lặp lại, chứ không phải là các mối liên hệ có tính ngẫu nhiên, rời rạc. Các khái niệm có thể liên hệ với nhau theo các hình thức khác nhau. Theo Vũ Cao Đàm (2013), có thể chia các hình thức liên hệ giữa các khái niệm thành 2 nhóm: liên hệ hữu hình và liên hệ vô hình. Liên hệ hữu hình là những liên hệ có thể biểu diễn dưới dạng sơ đồ hoặc bằng các biểu thức toán học. Liên hệ có thể sơ đồ hóa bao gồm: liên hệ nối tiếp (các sự vật diễn tiến tiếp nối nhau, ví dụ như trình tự cài đặt phần mềm máy tính), liên hệ song song (các sự vật đồng thời xuất hiện, hoặc xếp song song hoặc có thứ bậc, thẩm quyền tương đương), liên hệ hình cây (liên hệ xuất phát từ một gốc, chia ra thành các nhánh, ví dụ như cây phả hệ gia đình, sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước), liên hệ

mạng lưới (liên hệ gồm một trung tâm vây quanh bởi các phần tử, ví dụ như mạng giao thông, mạng máy tính, mạng đại lý phân phối), và liên hệ hỗn hợp. Liên hệ cũng có thể được trình bày bằng các công cụ toán học. Ví dụ như liên hệ tuyến tính, liên hệ phi tuyến.

Liên hệ vô hình là những liên hệ không thể biểu diễn trên bất kỳ loại sơ đồ nào. Liên hệ vô hình có thể bao gồm: liên hệ chức năng liên hệ hành chính, dân sự, thương mại), liên hệ N tình cảm, hay trạng thái tâm lý. Tương tự như khái niệm, quy luật được phát biểu ở cấp độ lý thuyết, và không thể kiểm nghiệm trực tiếp được. Thay vào đó chúng chỉ có thể được kiểm nghiệm thông qua việc kiểm tra các mối quan hệ tương ứng giữa các biến số có thể đo lường được của các khái niệm. Ở cấp độ thực nghiệm, mối quan hệ giữa các biến số được gọi là giả thuyết. - Logic tạo nên điểm xuất phát cho việc chứng minh các quy luật được đề xuất. Logic hoạt động như một “chất keo” kết nối các khái niệm lý thuyết và làm cho các mối quan hệ giữa các khái niệm có ý nghĩa và phù hợp. Logic cũng giúp trình bày các giải thích – thành phần trung tâm của lý thuyết. Không có logic, quy luật sẽ có tính bột phát, tùy tiện, và vô nghĩa, và không thể kết nối vào một hệ thống gắn kết chặt chẽ các quy luật, điều được xem là điểm mấu chốt của bất kỳ lý thuyết nào.

- Giả định điều kiện biên là các giả định về giá trị, thời gian, không gian và các điều kiện biên chi phối phạm vi áp dụng của lý thuyết. Ví dụ, các lý thuyết có thể có những giả định ẩn về văn hóa (ví dụ, chúng có thể áp dụng trong nền văn hóa cá nhân hay tập thể), về thời gian (ví dụ, chúng có thể áp dụng ở giai đoạn đầu hay giai đoạn sau của hành vi con người), hay về không gian (ví dụ, chúng có thể áp dụng ở một số khu vực nhất định). Một lý thuyết được sử dụng đúng hay kiểm nghiệm đúng chỉ khi tất cả các giả định ẩn hình thành nên các giới hạn của lý thuyết được hiểu đúng. Không may là các nhà lý thuyết hiếm khi trình bày những giả định ngầm của họ một cách rõ ràng. Điều này thường dẫn đến sự áp dụng sai các lý thuyết vào các tình huống vấn đề trong nghiên cứu.

1.1.3. Tiêu chí đánh giá một lý thuyết Theo Bhattacherjee (2012), lý thuyết khoa học được đánh giá theo bốn tiêu chí sau:

nhau để tìm hiểu đối tượng nghiên cứu. Do vậy, sự phát triển của các trường phái khoa học thường dẫn đến sự hình thành một hướng mới về lý thuyết hoặc phương pháp luận nghiên cứu khoa học

Bộ môn khoa học là hệ thống lý thuyết được phát triển hoàn chỉnh về một đối tượng nghiên cứu. Bộ môn khoa học phải có một khung mẫu lý thuyết (paradigm) ổn định Ngành khoa h ọc đề cập đến một lĩnh vực hoạt động xã hội về nghiên cứu khoa học hoặc đào tạo. Tiêu chí để nhận diện một bộ môn khoa học bao gồm: - Có một đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu là bản chất sự vật hoặc hiện tượng nằm trong tiêu điểm nghiên cứu của bộ môn khoa học; - Có một luận điểm xuyên suốt lĩnh vực nghiên cứu, - Có một hệ thống khái niệm và phạm trù; và - Có một hệ chuẩn mực.

1. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

1. 2 .1. Khái niệm Nghiên cứu khoa học là sự điều tra, xem xét một cách có hệ thống, kỹ lưỡng ở một lĩnh vực tri thức nào đó nhằm xác lập các dữ kiện hoặc nguyên lý với mục tiêu khám phá những thuộc tính, bản chất của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội , phát hiện các quy luật vận động của chúng, cũng như sáng tạo ra các giải pháp và phương tiện mới tác động lên sự vật, hiện tượng, biến đổi trạng thái của chúng để cải thiện cuộc sống và hoạt động lao động sản xuất của con người. Kết quả nghiên cứu khoa học giúp phát triển kho tàng tích lũy tri thức thông qua việc mở rộng, hiệu chỉnh hay xác minh tri thức, tạo ra tri thức mới và lấp đầy các khoảng trống tri thức.

Nghiên cứu khoa học còn là một hoạt động có tính học thuật bao gồm các công đoạn: - xác định vấn đề: - xây dựng giả thuyết:

  • thu thập và phân tích dữ liệu;
  • suy luận và đưa ra kết luận dưới dạng các giải pháp cho vấn đề nghiên cứu hay dưới dạng các khái quát hóa để hình thành lý thuyết; và
  • kiểm tra cẩn thận các kết luận để quyết định xem chúng có phù hợp với giả thuyết được xây dựng hay không. Tất cả các công đoạn này đều được tiến hành dựa trên sự vận dụng các ý tưởng, nguyên lý, các phương pháp tư duy, và các phương pháp khoa học đã được kiểm chứng về độ chuẩn

xác và độ tin cậy. Nghiên cứu khoa học phải đảm bảo tính khách quan, không thiên lệch. Nghiên cứu khoa học được vận hành ở hai cấp độ: cấp độ lý thuyết và thực nghiệm. Cấp độ lý thuyết liên quan đến việc xây dựng những khái niệm trừu tượng về các hiện tượng tự nhiên và xã hội và mối liên hệ giữa những khái niệm này. Trong khi đó, cấp độ thực nghiệm liên quan đến việc kiểm nghiệm các khái niệm và mối quan hệ được phát triển ở cấp độ lý thuyết để tìm hiểu xem chúng phù hợp như thế nào với các quan sát ở hiện thực, với mục đích cuối cùng là hoàn thiện lý thuyết. Theo thời gian, một lý thuyết càng ngày càng được cải thiện (phù hợp hơn với quan sát thực tế), và khoa học ngày càng phát triển. Nghiên cứu khoa học đòi hỏi mối liên hệ chặt chẽ giữa lý thuyết và thực nghiệm. Cả lý thuyết và thực nghiệm đều là những thành phần cốt yếu của nghiên cứu khoa học. Một nghiên cứu nếu chỉ dựa vào thực nghiệm để đưa ra kết luận mà không dựa vào nền tảng lý thuyết thì sẽ không bao giờ được chấp nhận là một nghiên cứu khoa học. 1 __****. 2. Chức năng của nghiên cứu khoa học  M ô tả: trình bày lại sự vật, hiện tượng, cấu trúc, trạng thái và sự vận động của chúng mức nguyên bản tối đa nhằm cung cấp cho con người thông tin về đặc trưng của hiện tượng, sự vật. Các thông tin này đều phải dựa trên cơ sở các quan sát, điều tra. Có hai loại mô tả: mô tả định lượng và mô tả định tính. Mô tả định tính chỉ ra các đặc trưng về chất của sự vật, hiện tượng trong khi mô tả định lượng cung cấp các tiêu chí về đặc trưng về lượng của chúng. Những mô tả khách quan, chính xác về sự vật, hiện tượng sẽ cung cấp dữ kiện, tạo ra tiền đề thiết yếu cho các nghiên cứu tiếp theo.  Giải thích , làm rõ bản chất, lý giải sự hình thành, phát triển và vận động của sự vật, hiện tượng, chỉ ra mối quan hệ của chúng với các hiện tượng, sự vật khác, với môi trường xung quanh, và những điều kiện, nguyên nhân, và những hệ quả đã có hay sẽ xảy ra.

- Tính thông tin : Nghiên cứu khoa học cho ra đời nhiều dạng sản phẩm khác nhau, ví dụ như báo cáo hay tác phẩm khoa học, vật liệu mới, mẫu sản phẩm mới, giải pháp mới, hay mô hình quản lý mới. Tuy đa dạng về mặt hình thức, tất cả các sản phẩm khoa học trên đều mang đặc trưng thông tin. Thông tin bao gồm thông tin về các quy luật vận động của sự vật, hiện tượng, thông tin về quy luật xã hội, hay thông tin về quy trình công nghệ và các tham số đặc trưng cho quy trình đó; - Tính khách quan : Kết luận của nghiên cứu khoa học phải phản ánh trung thực bản chất của sự vật, hiện tượng nghiên cứu. Kết luận được đưa ra phải dựa trên các bằng chứng đã được kiểm chứng và không bị tác động bởi các quan điểm, định kiến, sở thích, và hệ thống giá trị của nhà nghiên cứu. Tính khách quan vừa được xem là một đặc trưng, chuẩn mực giá trị của nghiên cứu khoa học vừa là tiêu chuẩn về phẩm chất của nhà nghiên cứu;

- Tính tin cậy : Một nghiên cứu khoa học chỉ được xem là có tính tin cậy khi nó cho ra một kết quả giống nhau hoàn toàn sau khi được kiểm chứng nhiều lần do nhiều người khác nhau thực hiện nhưng sử dụng cùng một phương pháp, và tiến hành trong cùng một điều kiện nghiên cứu. Một kết quả thu được ngẫu nhiên cho dù phù hợp với giả thuyết nghiên cứu thì cũng chưa được xem là đủ tin cậy để đưa ra kết luận về vấn đề nghiên cứu. Điều này dẫn đến nguyên tắc mang tính phương pháp luận nghiên cứu khoa học: các điều kiện, nhân tố và phương tiện thực hiện (nếu có) phải được trình bày rõ trong các báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học; - Tính rủi ro : Nghiên cứu khoa học luôn có độ rủi ro nhất định. Nhà nghiên cứu có thể đối mặt với thất bại khi tiến hành nghiên cứu. Nguyên nhân thất bại có thể là do bị thiếu thông tin cần thiết và đáng tin cậy, do trình độ kỹ thuật của thiết bị chưa đáp ứng được nhu cầu kiểm chứng giả thuyết, do năng lực xử lý thông tin có hạn của nhà nghiên cứu, do đặt sai giả thuyết nghiên cứu hay do các yếu tố bên ngoài. Rủi ro còn có thể xảy ra trong giai đoạn triển khai thành quả của nghiên cứu vào thực tiễn, ví dụ như chưa làm chủ được kỹ thuật khi mở rộng phạm vi ứng dụng hay không thể đưa vào ứng dụng vì một nguyên nhân xã hội nào đó.

- Tính kế thừa. Ngày nay hầu hết các nghiên cứu khoa học đều được phát triển dựa trên kết quả của các nghiên cứu trước đó cả về mặt kiến thức và phương pháp nghiên cứu. Tính kế thừa còn bao gồm cả sự chấp nhận lý luận và phương pháp luận từ các lĩnh vực khoa học dù là rất khác nhau.

 Tính cá nhân : Tính cá nhân được thể hiện qua tư duy cá nhân, nỗ lực cá nhân và chủ kiến cá nhân. Dấu ấn cá nhân được biểu hiện trong cách đặt vấn đề nghiên cứu, lựa chọn phương pháp, hình thức nghiên cứu, phương tiện nghiên cứu, và thể hiện quan điểm cá nhân khi trình bày kết quả nghiên cứu hay đưa ra kết luận 1.2. Phân loại nghiên cứu khoa học Có nhiều cách phân loại nghiên cứu khoa học. Tài liệu này giới thiệu bốn cách phân loại phổ biến: phân loại dựa trên mục tiêu nghiên cứu, phân loại dựa trên giai đoạn / tầng bậc nghiên cứu, phân loại dựa trên cách tiếp cận nghiên cứu, và phân loại dựa trên hình thức điều tra thu thập thông tin.

1.2.4. Phân loại theo mục tiêu nghiên cứu Dựa trên mục tiêu nghiên cứu, nghiên cứu khoa học bao gồm các loại sau - Nghiên cứu mô tả : mô tả một cách có hệ thống những đặc điểm, bản chất của một trạng thái, sự vật, hay hiện tượng. Nghiên cứu mô tả thực hiện các quan sát cẩn thận về sự vật, hiện tượng dựa trên các phương pháp khoa học (chính xác và có thể tái tạo) nhằm đưa ra những thông tin chi tiết về sự vật, hiện tượng đó. Nghiên cứu mô tả cung cấp một bức tranh bao quát về sự vật, hiện tượng nghiên cứu. Nghiên cứu mô tả không chỉ có thể được tiến hành độc lập mà nó có thể làm cơ sở cho các loại nghiên cứu khác Điều tra dân số, việc làm, mô tả tình hình kinh tế, xã hội, thái độ sinh viên về chất lượng đào tạo, sở thích của người dùng về một sản phẩm ... là một số ví dụ về nghiên cứu mô tả...

- Nghiên cứu giải thích : đưa ra các giải thích về các hiện tượng, hành vi hay vấn đề được quan sát. Mục tiêu chính của nghiên cứu giải thích là làm rõ vì sao hai khía cạnh của một tình trạng hay hiện tượng có quan hệ với nhau và chúng quan hệ với nhau theo cách thức nào. Ví dụ: giải thích nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình, nguyên nhân trẻ bỏ học, hay môi trường gia đình có ảnh hưởng ra sao với thành tích học tập của trẻ. - N ghiên cứu tương quan: khám phá hay thiết lập mối quan hệ/ liên kết sự tương thuộc giữa hai hay nhiều khía cạnh của một trạng thái. Ví dụ, một chiến dịch quảng cáo có ảnh hưởng gì đến tình hình tiêu thụ của một sản phẩm, nỗ lực học tập có liên hệ ra sao với thành tích học tập, sự

Trên cơ sở các giai đoạn nghiên cứu, nghiên cứu khoa học có thể được chia thành ba loại: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, và nghiên cứu triển khai. - N ghiên cứu cơ bản : mục tiêu nhằm khám phá bản chất, thuộc tính của các sự vật, hiện tượng, sự tương tác trong nội bộ của sự vật, mối liên hệ giữa các sự vật. Nghiên cứu cơ bản cho ra đời các khám phá, phát hiện, phát minh, trên cơ sở đó hình thành nên một hệ thống lý thuyết có tính khái quát và có ảnh hưởng đến một hay nhiều lĩnh vực khoa học. Nghiên cứu cơ bản lại được chia nhỏ thành hai loại: nghiên cứu cơ bản thuần túy và nghiên cứu cơ bản định hướng. Nghiên cứu cơ bản thuần túy nghiên cứu về bản chất sự vật, qua đó bổ sung thông tin vào hệ thống trị thức. Tuy nhiên nghiên cứu cơ bản thuần túy thường không có ý nghĩa ứng dụng tức thời. Nghiên cứu cơ bản thuần túy thường liên quan đến việc kiểm tra các giả thuyết có chứa các khái niệm có tính chuyên ngành và độ trừu tượng cao. Nghiên cứu cơ bản thuần túy cũng quan tâm đến việc phát triển, kiểm tra, tinh chỉnh các phương pháp, quy trình, kỹ thuật, và công cụ nghiên cứu, những thành tố của phương pháp luận nghiên cứu khoa học. Nghiên cứu cơ bản định hướng là các nghiên cứu cơ bản mà mục đích ứng dụng đã được dự kiến từ trước, ví dụ như các nghiên cứu điều tra tài nguyên, kinh tế, và xã hội. Nghiên cứu cơ bản định hướng bao gồm hai loại: (1) nghiên cứu nền tảng – nghiên cứu về quy luật tổng thể của một hệ thống sự vật, ví dụ như điều tra cơ bản các điều kiện của thiên nhiên, điều tra cơ bản về các điều kiện kinh tế, xã hội; và (2) nghiên cứu chuyên đề – nghiên cứu về một hiện tượng đặc biệt của sự vật, ví dụ như bức xạ, gen di truyền, động cơ học tập. Nghiên cứu chuyên đề vừa có đóng góp vào hệ thống tri thức khoa học vừa có ý nghĩa ứng dụng thực tiễn.

- Nghiên cứu ứng dụng : vận dụng các kết quả thu được từ nghiên cứu cơ bản (quy luật, khám phá, phát minh) để giải thích và nâng cao sự hiểu biết về một sự vật, hiện tượng hoặc tạo ra những nguyên lý mới về giải pháp trong công nghệ hay trong tổ chức, quản lý để giải quyết một vấn đề cụ thể trong sản xuất và đời sống. Tuy nhiên, kết quả của nghiên cứu ứng dụng chưa thể trực tiếp đưa vào sử dụng trong thực tiễn, mà thường phải tiến hành thêm một loại hình nghiên cứu khác có tên gọi là nghiên cứu triển khai (Dương Văn Tiến, 2006).

- Nghiên cứu triển khai hay triển khai thực nghiệm : vận dụng các quy luật, nguyên lý thu được từ nghiên cứu cơ bản và ứng dụng để đưa ra các vật mẫu và công nghệ sản xuất vật mẫu với những tham số khả thi về kỹ thuật. Hoạt động triển khai có ba giai đoạn:

- Tạo mẫu (prototype): trong giai đoạn này nhà nghiên cứu tiến hành các thực nghiệm để tạo ra sản phẩm mẫu. Quy trình sản xuất mẫu hay quy mô áp dụng chưa được xem xét trong giai đoạn này; - Tạo quy trình (pilot): nhà nghiên cứu tìm kiếm và thử nghiệm công nghệ để sản xuất ra sản phẩm theo mẫu được tạo ra ở giai đoạn một; - Sản xuất thử (làm Serie 0): trong giai đoạn này độ tin cậy của quy trình được kiểm chứng trên quy mô nhỏ.

Các loại hình nghiên cứu và mối quan hệ giữa chúng được minh họa ở hình 1.

Nghiên c u cb nảứ ơ Nghiên c u ngd ngụứ ứ Tri n khaiể

NCCB thuẫần T o mẫẫuạ túy

NCCB đ nhị h ngướ

NCCB chuyên đêầ

NCCB nêần t ngả

Làm pilot

S n xuẫấtả thử

Hình 1 Vòng tròn nghiên cứu

(Nguồn: Bhattacherjee, A., 2012. S ocial Science Research: Principles, Methods, and Practices, University of South Florida, Tampa, Florida, USA, tr. 7).

Nghiên cứu quy nạp và diễn dịch như hai nửa của một vòng tròn nghiên cứu mà nó không ngừng được lặp đi lặp lại giữa lý thuyết và thực nghiệm trong đó mỗi sự lặp lại của lý thuyết và dữ liệu đều đóng góp cho vào việc giải thích chính xác hơn về hiện tượng nghiên cứu và hoàn thiện hơn lý thuyết. Bạn không thể thực hiện nghiên cứu quy nạp hay diễn dịch nếu bạn không biết rõ hai thành phần cơ bản của nghiên cứu là lý thuyết và dữ liệu. Một nhà nghiên cứu toàn diện là người có thể tiến hành cả nghiên cứu suy diễn và quy nạp. Cả nghiên cứu suy diễn và quy nạp đều quan trọng cho sự phát triển của khoa học. Tuy nhiên, nghiên cứu quy nạp có vẻ có giá trị hơn trong những lĩnh vực mà trước đó còn chưa có nhiều giải thích và lý thuyết, trong khi nghiên cứu suy diễn sẽ hiệu quả hơn khi mà có nhiều lý thuyết cạnh tranh cùng giải thích về một hiện tượng và các nhà nghiên cứu quan tâm đến việc tìm hiểu xem lý thuyết nào hoạt động tốt nhất và tốt nhất trong điều kiện nào. 1.2.4. Phân loại theo hình thức thu thập, đo lường và phân tích thông tin Theo cách phân loại này, nghiên cứu khoa học được chia thành hai nhóm: nghiên cứu định lượng và nghiên cứu định tính. Tiêu chí phân loại bao gồm mục tiêu nghiên cứu, cách đo lường các biến số và cách phân tích dữ liệu. - Nghiên cứu định lượng là nghiên cứu (1) có mục tiêu nhằm lượng hóa sự biến đổi trong một tình huống, hiện tượng, vấn đề hay sự kiện, (2) các khía cạnh của quá trình điều tra nghiên cứu như mục tiêu, thiết kế, lấy mẫu hay câu hỏi điều tra thường được xác định từ trước, (3) chủ yếu sử dụng các biến số định lượng để thu thập thông tin, và (4) phân tích dữ liệu được thực hiện nhằm xác định mức độ, độ lớn, số lượng của biến đổi, ví dụ xác định có bao nhiêu người có cùng thái độ về một vấn đề nào đó, xác định mức độ ảnh hưởng của trí thông mình đối với thành tích học tập của học sinh.

Thống kê không phải là một bộ phận của nghiên cứu định lượng. Chức năng chính của thống kê là kiểm tra nhằm xác nhận hay phủ nhận các kết luận được rút ra dựa trên dữ liệu đã phân tích. Thống kê hỗ trợ việc lượng hóa mức độ, độ lớn của một mối liên kết hay quan hệ, tính toán chỉ số độ tin cậy của kết quả, và giúp phân lập ảnh hưởng của các biến số khác nhau. - Nghiên cứu định tính là nghiên cứu (1) chủ yếu nhằm mô tả một tình huống, hiện tượng, vấn đề hay sự kiện, khám phá bản chất, sự biến đổi tính đa dạng của chúng, (2) các khía cạnh của quá trình điều tra nghiên cứu có tính linh hoạt và thường không được xác định từ trước, (3) sử dụng thang đo thứ tự hay định danh để đo lường các biến số dùng để thu thập thông tin, (4) thực hiện phân tích dữ liệu để xác minh sự biến đổi của tình huống, hiện tượng hay vấn đề nghiên cứu mà không định lượng nó. Ví dụ như nghiên cứu mô tả một hiện tượng đang được khảo sát, mô tả điều kiện sống của một cộng đồng, hay mô tả các ý kiến khác nhau về một vấn đề kinh tế, xã hội.

Cả nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng đều có điểm mạnh và điểm yếu của mình, không có loại nghiên cứu nào là có tính vượt trội. Hiện nay đang có xu hướng kết hợp cả hai loại hình nghiên cứu này vào trong một nghiên cứu.

1.2. Sản phẩm của nghiên cứu khoa học Thông tin là sản phẩm của tất cả nghiên cứu khoa học ở bất kỳ lĩnh vực tri thức nào. Dựa trên cơ sở logic, sản phẩm của nghiên cứu khoa học bao gồm: - Cá c luận điểm được chứng minh hay bị bác bỏ bởi kết quả nghiên cứu. Luận điểm khoa học, tùy thuộc vào ngành khoa học, sẽ có những hình thức và tên gọi khác nhau. Chúng có thể là các định luật, định lý, quy luật, hay nguyên lý. - Cá c luận cứ , những sự kiện khoa học đã được kiểm nghiệm, dùng để chứng minh (khi phù hợp) hay bác bỏ (khi không phù hợp) với luận điểm trong thực tế.  Một số sản phẩm đặc biệt của nghiên cứu khoa học bao gồm: phát minh, phát hiện và sáng chế. Cần xác định rõ sự khác biệt giữa ba sản phẩm đặc biệt này: - Phát minh : là sự phát hiện ra những quy luật, tính chất, hiện tượng của thế giới vật chất. Chúng tồn tại một cách khách quan nhưng trước đó chưa được nhận biết. Sự phát hiện ra những quy luật, bản chất ... này góp phần thay đổi cơ bản nhận thức của con người về thế giới vật chất. Phát

Phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học là gì?

Phương pháp luận nghiên cứu khoa học là kết quả của quá trình khái quát lý thuyết và thực tiễn nghiên cứu khoa học và trở thành công cụ sắc bén để chỉ dẫn các nhà khoa học, các nhà quản lý trong công tác tổ chức, quản lý và thực hành nghiên cứu khoa học một cách sang tạo.

Phương pháp nghiên cứu khoa học gồm những gì?

Các phương pháp nghiên cứu khoa học cơ bản.

Phương pháp luận. ... .

Phương pháp thu thập số liệu. ... .

Phương pháp nghiên cứu định tính. ... .

Phương pháp nghiên cứu định lượng. ... .

Phương pháp toán học. ... .

Phương pháp quan sát. ... .

Phương pháp điều tra. ... .

Phương pháp thực nghiệm..

Phương pháp nghiên cứu khoa học thực tiễn là gì?

Phương pháp nghiên cứu thực tiễn là một trong những phương pháp nghiên cứu khoa học cơ bản. Trong phương pháp này, chủ thể nghiên cứu trực tiếp tác động vào các đối tượng nghiên cứu. Từ đó, các đối tượng nghiên cứu thể hiện, bộc lộ bản chất và quy luật vận động của đối tượng đấy.

9 phương pháp luận nghiên cứu khoa học

  1. Phương pháp luận nghiên cứu định tính:
    • Nghiên cứu trường hợp (Case study)
    • Nghiên cứu hiện tượng (Phenomenology)
    • Nghiên cứu dân tộc học (Ethnography)
    • Nghiên cứu lý thuyết cơ bản (Grounded theory)
    • Nghiên cứu phân tích diễn ngôn (Discourse analysis)

  1. Phương pháp luận nghiên cứu định lượng:
    • Thí nghiệm (Experiment)
    • Khảo sát (Survey)
    • Phân tích dữ liệu thứ cấp (Secondary data analysis)
    • Mô hình hóa (Modeling)
    • Phân tích thống kê (Statistical analysis)

  1. Phương pháp luận nghiên cứu hỗn hợp:
    • Kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng

  1. Phương pháp luận nghiên cứu hành động (Action research):
    • Nghiên cứu nhằm giải quyết các vấn đề thực tế
    • Nghiên cứu viên đóng vai trò là người tham gia và thay đổi chủ động tình huống nghiên cứu

  1. Phương pháp luận nghiên cứu thiết kế (Design research):
    • Nghiên cứu nhằm tạo ra các sản phẩm hoặc hệ thống mới
    • Nghiên cứu viên đóng vai trò là nhà thiết kế và thử nghiệm sản phẩm/hệ thống

  1. Phương pháp luận nghiên cứu đánh giá (Evaluation research):
    • Nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả của các chương trình, dự án hoặc chính sách
    • Nghiên cứu viên đóng vai trò là người đánh giá và đưa ra các khuyến nghị

  1. Phương pháp luận nghiên cứu lập trình (Programmatic research):
    • Nghiên cứu nhằm phát triển một chương trình nghiên cứu dài hạn, có kế hoạch
    • Nghiên cứu viên đóng vai trò là người quản lý chương trình nghiên cứu

  1. Phương pháp luận nghiên cứu liên ngành (Interdisciplinary research):
    • Nghiên cứu liên quan đến nhiều ngành học khác nhau
    • Nghiên cứu viên đóng vai trò là người kết hợp kiến thức từ các ngành khác nhau

  1. Phương pháp luận nghiên cứu quốc tế (International research):
    • Nghiên cứu liên quan đến nhiều quốc gia khác nhau
    • Nghiên cứu viên đóng vai trò là người nghiên cứu quốc tế

Tại sao phương pháp nghiên cứu là một phần quan trọng của khoa học?

Không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu thực tiễn, phương pháp nghiên cứu lý thuyết cũng có vai trò quan trọng trong nghiên cứu khoa học. Đây là phương pháp mà người nghiên cứu tiến hành phân tích các luận cứ, kết quả đã thu được trong quá trình nghiên cứu và tổng hợp lại đưa ra luận điểm chính.