Tại sao trầm cảm lại tự sát

 

Khi một người trầm cảm có ý định tự sát, thậm chí là suy nghĩ về cái chết, họ phải được hỗ trợ bằng thuốc.

Khi đã thực hiện tự sát nhưng không thành công, họ nằm trong trường hợp có chỉ định phải nhập viện. 

Một số trường hợp tự tử thương tâm tại TP.HCM gần đây hay những trường hợp sát hại người thân được cho có liên quan đến trầm cảm.

Rối loạn tâm lý này âm ỉ hàng ngày, chỉ chờ có biến cố là phựt lên thành ngọn lửa thiêu rụi sự sống người bệnh hay cả một gia đình.

Nhiều rào cản vô hình đã khiến “lời nguyền tự sát” của rối loạn trầm cảm đang dần được hiện thực hóa bằng những cái chết do tự sát, mà nhiều nhất là lao mình từ tầng cao chung cư xuống mặt đất...

Trị liệu sai cách, trầm cảm hóa loạn thần

Chị T.T. [40 tuổi, ngụ Q.Bình Thạnh, TP.HCM] vẫn nhớ rõ không khí đêm đó, lạnh lẽo và âm u, trong một khu rừng vắng lặng ở Đồng Nai. Cơ thể chị gồng cứng, tưởng như những dây thần kinh đang bị kéo căng hết mức.

Chỉ khi những viên thuốc ngủ bắt đầu ngấm, chị mới có thể cho cơ thể mình được nghỉ ngơi. Một chút nữa thôi, chị T. đã nhảy xuống hồ nước sâu trong cơn hoang tưởng... 

8 tháng trước, những ngày dài trầm cảm đã bắt đầu tìm đến sau khi chị bị mất việc do công ty làm ăn thua lỗ. Biến cố này quá lớn với chị vì hàng chục năm qua, chị như chiếc xe luôn chạy bon bon trên đường công danh sự nghiệp.

Từ một người có mức thu nhập cao, nay rơi vào cảnh thất nghiệp, chị vô cùng suy sụp. Những sẻ chia cứ vơi dần vì ai cũng bận bịu việc riêng. Chưa kể, mối quan hệ với đồng nghiệp hay bạn bè của chị cũng mong manh vì chị vốn ít nói.

Thêm vào đó, hôn nhân của chị đang trục trặc. Xin việc mãi không xong, chị càng thêm chán nản. Mẹ ruột vì lo cho chị mà cứ ghé qua hỏi thăm, thúc giục tìm việc càng khiến chị thêm hoảng. 

Một ngày, chị về nhà, nói rằng không hiểu vì sao khi ra đường, dường như ai cũng để ý đến chị. Chị cảm thấy rất bất an, như thể có ai đó đang theo dõi mình. Chị bắt đầu lạc đường nhiều hơn, ngay cả khi đi trên những cung đường quen.

Trong nỗ lực thoát khỏi tình trạng bế tắc, chị T. tham gia một khóa trị liệu tâm lý. Thay vì được chữa lành, cú sốc tâm lý do trị liệu đã đưa chị T. rơi vào tình trạng loạn thần. Trong chị xuất hiện những hoang tưởng, ảo giác, ảo thanh.

Việc trị liệu tâm lý bất thành, chị T. được đưa về nhà lúc nửa đêm, trong tình trạng người gồng co cứng, nói năng lảm nhảm... 

Sau đó, chị T. được đưa đến phòng khám tâm thần. Những liều thuốc trầm cảm đã giúp chị ổn định trở lại. Thật ra chị T. vẫn còn may mắn, vì chưa đi đến trạm cuối của trầm cảm: thực hiện thành công việc tự sát. 

Những cái chết được lập trình sẵn

Trong những vụ tự tử tại TP.HCM gần đây, nạn nhân được xác định đã bị rơi vào tình trạng trầm cảm. Những cái chết như thế không phải là do phút giây suy nghĩ nông nổi của người bị trầm cảm. Chúng được lập trình từ lâu, là cái đích phải đến của người bị rối loạn trầm cảm. 

Theo tiêu chuẩn chẩn đoán của Hiệp hội tâm thần Hoa Kỳ APA, một trong những triệu chứng của rối loạn trầm cảm chủ yếu - Major Depressive Disorder - là sự xuất hiện ý tưởng tự sát thoáng qua hoặc ý định tự sát hay đã thử thực hiện tự sát.

Theo diễn tiến của trầm cảm, người mắc rối loạn tâm lý này sẽ tiến đến việc kết liễu sự sống của mình. Nếu tự sát lần đầu thất bại, người bị trầm cảm sẽ tiếp tục tự sát những lần tiếp theo cho đến khi thành công. Dù người nhà có biết được ý định này, cũng sẽ không thể ngăn cản họ. 

Một vụ tự sát thành công đã xảy ra tại Bệnh viện T. [TP.HCM] năm 2018. Nạn nhân là một cô gái bị trầm cảm. Lần tự sát đầu tiên, cô được đưa đến súc ruột tại bệnh viện này. Cô tiếp tục uống thuốc ngủ để tự sát lần thứ hai.

Lần này, cô cũng được đưa đến bệnh viện và cũng được súc ruột. Nhưng ngay tại bệnh viện, cô đã tự kết thúc đời mình bằng việc nhảy lầu. 

Người bị trầm cảm thật ra không muốn kết thúc cuộc đời mình. Họ thực hiện điều đó như giải pháp cuối cùng để giải quyết những vấn đề bế tắc của cuộc đời họ. Người bị trầm cảm như ở dưới hố sâu chỉ toàn bóng tối, không thể thấy được những lối đi khác, giải pháp khác cho bế tắc của mình. Đôi khi, họ cũng giơ đôi tay cầu cứu. Nhưng đa phần, không ai hiểu họ muốn gì nên đã không thể cứu được họ.

Bác sĩ CK2 tâm thần kinh Trần Minh Khuyên, phòng khám Bệnh viện Đại học Y Dược 1 [TP.HCM], cho biết: “Khi một người trầm cảm có ý định tự sát, thậm chí là suy nghĩ về cái chết, họ phải được hỗ trợ bằng thuốc. Khi đã thực hiện tự sát nhưng không thành công, họ nằm trong trường hợp có chỉ định phải nhập viện. Tại bệnh viện, bác sĩ sẽ dùng thuốc chống trầm cảm hoặc có thể dùng biện pháp sốc điện để xua tan ý định tự sát nơi họ”.

Vì sao trầm cảm không được phát hiện?

Trên cánh tay phải của T.L.B. [30 tuổi, ngụ Q.3, TP.HCM] là hình xăm tên cô và từ “bình tĩnh” để nhắc bản thân luôn tỉnh táo. Sau biến cố mất người thân, B. trở nên buồn bã, lo lắng.

Mỗi sáng, cô chỉ muốn mình đừng bao giờ tỉnh dậy nữa. Hơn 6 tháng qua, cô không ngừng dằn vặt mình về cái chết của người thân. Bạn bè khuyên nhủ nhưng B. vẫn không thể thoát ra được nỗi buồn đau. 

Nghe giới thiệu của bạn bè, B. tìm đến một phòng mạch tâm lý. Tình trạng vẫn không được cải thiện, B. lại tìm đến một chuyên gia tư vấn tâm lý khác và tình trạng vẫn như cũ. Từ đó, B. quyết định không khám tâm lý nữa vì thấy phí công vô ích…

Cũng như B., trường hợp chị T.T. ở Q.Bình Thạnh, TP.HCM nói trên đã nhiều lần từ chối đi khám tâm lý. Sau nhiều lần được gia đình thuyết phục, chị T. miễn cưỡng đến phòng khám tâm thể tại một bệnh viện quận. Nhưng chỉ sau vài câu hỏi ban đầu, chị đứng phắt dậy, phản bác gay gắt và đùng đùng bỏ về, nói rằng bản thân không hề có vấn đề gì về tâm lý.

Để rồi vài tháng sau, tình trạng trầm cảm của chị T. ngày càng trở nên xấu hơn và bắt đầu xuất hiện tình trạng hoang tưởng, ảo giác. Suýt nữa chị đã mất mạng khi quyết định nhảy xuống hồ nước, theo tiếng nói văng vẳng bên tai rằng nếu uống được nước hồ, chị sẽ giải quyết hết nỗi phiền muộn trong cuộc đời này. 

Hai chữ “tâm thần” thường khiến người ta ngần ngại. Có người gắng đến nơi, vẫn ráng giấu kín khổ đau, ậm ừ từ chối khai bệnh. Mới đây, một cô gái có gương mặt u uất đến phòng mạch, chỉ nói trí nhớ giảm sút và khó ngủ. Bác sĩ tâm thần nghiêm giọng: “Tuổi em còn rất trẻ, không thể bị suy giảm trí nhớ. Nếu chỉ mất ngủ thì đơn giản thôi, chỉ cần tôi kê liều thuốc là tối ngủ được. Nhưng quan trọng, lúc thức dậy vào sáng hôm sau, em có cảm giác thoải mái không?”.

Cô gái bật khóc, vén tay áo cho bác sĩ xem những vết dao lam rạch nát cánh tay vì bị rơi vào tình trạng trầm cảm dẫn đến hội chứng hủy hoại bản thân. 

Bác sĩ Trần Minh Khuyên nhận định: “Để phát hiện những dấu hiệu của các rối loạn tinh thần, phải quan sát biểu hiện thân chủ; gợi mở để họ chịu chia sẻ. Bên cạnh đó, người bệnh phải hợp tác và tin tưởng thì bác sĩ mới có thể chẩn đoán đúng”.  

Gian nan tìm “thầy” chữa tâm lý

Số lượng người đủ khả năng chẩn đoán và điều trị các rối loạn tâm lý tại Việt Nam nói chung và TP.HCM nói riêng hiện nay còn quá ít so với tỷ lệ chung trong dân số tiềm ẩn rối loạn trầm cảm.

Theo thống kê của Bộ Y tế năm 2017, Việt Nam có khoảng 15% dân số mắc các rối loạn tâm thần. Theo thống kê của Bệnh viện Tâm thần TP.HCM năm 2018, điều tra dịch tễ cắt ngang về tần suất các loại bệnh tâm thần thường gặp trong dân số tại TP.HCM cho thấy có 16% dân số có thể có vấn đề sức khỏe tâm thần. Trong đó, trầm cảm chiếm 6%; rối loạn lo âu 7%...

Điều trị trầm cảm nếu chỉ dùng thuốc vẫn chưa phải tối ưu, phải có sự kết hợp giữa dùng thuốc và trị liệu tâm lý. Trong khi đó, số lượng các nhà tâm lý trị liệu tại Việt Nam rất ít.

Những dấu hiệu nhận biết sớm hành vi tự sát của người bị trầm cảm

Tin rằng cái chết của mình sẽ làm giảm khổ đau cho bản thân, giảm gánh nặng cho gia đình, người bị trầm cảm có biểu hiện hay than thở những lời tiêu cực hoặc thổ lộ ý định tự tử. Hoặc người trầm cảm có hành vi sắp xếp hậu sự cho bản thân [viết thư tuyệt mệnh, sắp xếp chuyện gia đình…].

Cần chú ý dấu hiệu khi người trầm cảm đột nhiên trở nên bình tĩnh khác thường, không còn buồn bã hay khóc lóc như trước đó. Đây là lúc họ đã đi đến quyết định tự sát sau thời gian trầm buồn và suy tư nhiều về cái chết, lựa chọn cách để ra đi. 

Hiếu Nguyễn

Có sự đồng thuận rằng bệnh nhân nhập viện sau khi tự sát có nguy cơ tử vong cao nhất trong vài ngày đầu hoặc vài tuần sau khi xuất viện và nguy cơ vẫn còn cao trong vòng 6 đến 12 tháng đầu sau khi xuất viện. Sau đó, nguy cơ tự sát sẽ dao động nhưng luôn luôn cao hơn những người chưa bao giờ tự sát.

Lý do tăng nguy cơ tự sát bao gồm:

  • Cảm xúc của bệnh nhân có thể mất nhiều thời gian để cải thiện.

  • Bệnh nhân có thể không cảm thấy lạc quan khi dùng thuốc theo toa.

  • Bệnh nhân có thể không cảm thấy đủ khỏe để đi đến các cuộc hẹn tiếp theo theo lịch trình.

  • Một khi ở nhà, bệnh nhân cảm thấy rằng các vấn đề nguy cơ không được giải quyết.

Do đó, trước khi xuất viện, bệnh nhân và người trong gia đình hoặc bạn thân cần được tư vấn về nguy cơ tử vong do tự sát ngay lập tức, và nên hẹn ngày khám lại trong tuần đầu tiên sau khi xuất viện trước khi bệnh nhân rời bệnh viện. Một cuộc gọi điện thoại đơn giản hoặc hai cuộc gọi sau khi xuất viện đã được chứng minh là làm giảm đáng kể sự xuất hiện của các lần thử lại. Ngoài ra, bệnh nhân và những thành viên trong gia đình hoặc bạn bè cần được cho biết tên, liều lượng, và tần suất sử dụng thuốc của bệnh nhân.

Trong những tuần đầu tiên sau khi xuất viện, gia đình và bạn bè nên đảm bảo rằng

  • Không nên để bệnh nhân một mình.

  • Phải theo dõi sự tuân thủ của bệnh nhân với chế độ dùng thuốc theo toa.

  • Hàng ngày bệnh nhân nên được hỏi về trạng thái chung của tâm thần, cảm xúc, giấc ngủ, và năng lượng [ví dụ như thức dậy, mặc quần áo và tương tác với những người xung quanh]

Thành viên gia đình hoặc bạn bè của bệnh nhân nên đưa bệnh nhân đến các cuộc hẹn tiếp theo và nên thông báo cho bác sĩ chăm sóc sức khoẻ về sự tiến triển hoặc không tiến triển của bệnh nhân. Những can thiệp này cần được tiếp tục ≥ 2 tháng sau khi xuất viện.

Mặc dù một số toan tự sát hoặc tự sát hoàn thành là một bất ngờ và gây sốc, thậm chí đối với người thân và cộng sự, các dấu hiệu cảnh báo có thể rõ ràng đối với các thành viên gia đình, bạn bè, hoặc các bác sĩ chăm sóc sức khỏe. Cảnh báo thường rất rõ ràng, như khi bệnh nhân thực sự thảo luận về các kế hoạch hoặc đột nhiên viết hoặc thay đổi di chúc. Tuy nhiên, các cảnh báo có thể tinh tế hơn, như khi bệnh nhân đưa ra ý kiến về việc không có gì đáng sống hoặc chết sẽ tốt hơn.

Trung bình, bác sĩ chăm sóc chính gặp phải 6 người có khả năng tự sát trong thực hành mỗi năm. Khoảng 77% số người chết do tự tử đã được bác sĩ phát hiện trong vòng 1 năm trước khi tự tử, và khoảng 32% đã được theo dõi bởi một bác sĩ theo dõi tình trạng tâm thần trong năm trước đó.

Vì những rối loạn về thể chất nghiêm trọng và đau đớn, lạm dụng chất và rối loạn tâm thần [đặc biệt là trầm cảm] thường là yếu tố nguy cơ của tự sát, nhận ra những yếu tố nguy cơ này và bắt đầu điều trị thích hợp là những đóng góp quan trọng mà bác sĩ có thể thực hiện để ngăn ngừa tự sát.

Mỗi bệnh nhân trầm cảm phải được đặt câu hỏi về những suy nghĩ tự sát. Sự sợ hãi rằng sự hỏi như thế có thể làm phát sinh ý tưởng về sự tự hủy hoại bản thân ở bệnh nhân là vô căn cứ. Việc hỏi như vậy giúp bác sĩ có được một hình ảnh rõ hơn về mức độ nặng của trầm cảm, khuyến khích thảo luận mang tính xây dựng, và chuyển tải nhận thức của bác sĩ về sự thất vọng sâu sắc và tuyệt vọng của bệnh nhân.

Thậm chí những bệnh nhân đe dọa tự sát sắp xảy ra [ví dụ những người gọi và tuyên bố rằng họ sẽ uống một liều có thể gây chết của một loại thuốc hoặc đe dọa nhảy từ độ cao xuống] có thể vẫn còn mong muốn được sống. Bác sĩ hoặc người khác mà họ kêu gọi giúp đỡ phải hỗ trợ mong muốn sống này.

Hỗ trợ cấp cứu tâm thần cho người tự sát bao gồm những điều sau đây:

  • Thiết lập mối quan hệ và giao tiếp cởi mở với họ

  • Hỏi về chăm sóc tâm thần hiện tại và trong quá khứ và các loại thuốc hiện đang được dùng

  • Giúp giải quyết vấn đề gây ra sự khủng hoảng

  • Cung cấp sự trợ giúp mang tính xây dựng với vấn đề, bao gồm một Kế hoạch An toàn được soạn thảo với bệnh nhân

  • Bắt đầu điều trị rối loạn tâm thần cơ bản

  • Chuyển họ đến một nơi thích hợp để chăm sóc theo dõi càng sớm càng tốt

  • Cho xuất viện những bệnh nhân có nguy cơ thấp cùng với một người thân hoặc một người bạn tận tâm và hiểu biết

Những người bị trầm cảm có nguy cơ cao tự sát và cần được theo dõi cẩn thận về hành vi và ý tưởng tự sát. Nguy cơ tự sát có thể sớm tăng lên trong khi điều trị trầm cảm, trong khi sự chậm chạp về tâm thần và sự thiếu quyết đoán đã được cải thiện nhưng cảm xúc chán nản chỉ được nâng lên một phần. Khi thuốc chống trầm cảm được bắt đầu sử dụng hoặc khi liều tăng lên, một vài bệnh nhân sẽ bị kích động, lo âu, và tăng trầm cảm, có thể làm tăng tình trạng tự sát.

Những cảnh báo sức khoẻ cộng đồng gần đây về mối liên quan giữa sử dụng thuốc chống trầm cảm [đặc biệt là paroxetin] và những ý nghĩ, cố gắng tự sát ở trẻ em, vị thành niên và người trưởng thành trẻ tuổi đã làm giảm đáng kể [> 30%] việc kê đơn thuốc chống trầm cảm cho những người này. Tuy nhiên, tỷ lệ tự sát của thanh niên tăng 14% trong cùng một giai đoạn. Do đó, bằng cách không khuyến khích điều trị trầm cảm bằng thuốc, những cảnh báo này có thể đã tạm thời dẫn đến tử vong do tự sát nhiều hơn, mà không phải là ít hơn. Những phát hiện này đều cho thấy phương pháp tốt nhất là khuyến khích điều trị, nhưng với sự cẩn thận thích hợp như

  • Kê đơn thuốc chống trầm cảm với liều lượng không gây độc

  • Ưu tiên sử dụng thuốc chống trầm cảm mà không gây chết người nếu dùng quá liều

  • Các chuyến thăm thường xuyên hơn trong thời gian điều trị

  • Đưa ra một cảnh báo rõ ràng cho bệnh nhân và cho các thành viên trong gia đình và những người quan trọng khác rằng các triệu chứng có thể xấu đi hoặc có thể có ý tưởng tự sát

  • Hướng dẫn bệnh nhân, thành viên trong gia đình, và những người quan trọng khác gọi ngay bác sĩ kê đơn hoặc tìm kiếm sự chăm sóc gần đó nếu triệu chứng tồi tệ hơn hoặc có ý tưởng tự sát xuất hiện

Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng lithium, khi được dùng cùng với thuốc chống trầm cảm và thuốc an thần kinh không điển hình, làm giảm số ca tử vong do tự sát ở bệnh nhân trầm cảm điển hình hoặc rối loạn lưỡng cực. Lithium, ngay cả ở liều lượng thấp, có hiệu quả cao như thuốc chống trầm cảm đối với rối loạn trầm cảm tái diễn. Ngoài ra, clozapin làm giảm nguy cơ tự sát ở bệnh nhân tâm thần phân liệt.

  • 1. Wyman PA, Brown CH, LoMurray M, et al: An outcome evaluation of the Sources of Strength suicide prevention program delivered by adolescent peer leaders in high schools. Am J Public Health 100:1653-1661, 2010. doi: 10.2105/AJPH.2009.190025.

  • 2. Gould MS, Cross W, Pisani AR, et al: Impact of applied suicide intervention skills training [ASIST] on national suicide prevention lifeline counselor. Suicide Life Threat Behav 43:676-691, 2013. doi: 10.1111/sltb.12049

Video liên quan

Chủ Đề