100 phim có thật hàng đầu năm 2022

  • Lê Hồng Lâm
  • Viết cho BBC Tiếng Việt từ Sài Gòn

9 tháng 3 2021

100 phim có thật hàng đầu năm 2022

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Cho dù có hai đạo diễn gốc Châu Á là Lee Isaac Chung (người Hàn Quốc), thắng giải Phim nước ngoài hay nhất với Minari và Chloé Zhao (người gốc Trung Quốc), thắng giải Phim chính kịch và Đạo diễn xuất sắc nhất với Nomadland tại Quả Cầu Vàng năm nay, nhưng hai bộ phim do họ thực hiện đều là hai sản phẩm của điện ảnh Mỹ sản xuất 100%.

Trong khi đó, các bộ phim đến từ châu Á, nhìn chung vẫn rất ít cơ hội và ít được công nhận tại Quả cầu vàng và Oscar, hai giải thưởng thường niên lớn nhất của điện ảnh Mỹ và thế giới.

Trường hợp hy hữu diễn ra vào mùa giải năm ngoái khi Parasite của điện ảnh Hàn Quốc giành tới 4 giải thưởng quan trọng và tạo được một thành công mang tính lịch sử tại giải Oscar, đồng thời phá vỡ rào cản đối với các bộ phim không nói tiếng Anh, nhưng điện ảnh châu Á vẫn hiếm khi được thừa nhận tại các giải thưởng này. Cho dù trên thực tế, đây đang là châu lục có lượng người xem đến rạp lớn nhất thế giới.

TẠI SAO PHIM CHÂU Á ÍT ĐƯỢC CÔNG NHẬN TẠI CÁC GIẢI THƯỞNG ĐIỆN ẢNH Ở MỸ?

Trong bảng đề cử Quả Cầu Vàng năm nay (vừa trao giải sáng 1/3 – giờ Việt Nam), ở hạng mục Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất, có một phim phần lớn thoại bằng tiếng Hàn Quốc là Minari, nhưng đây lại là một bộ phim của điện ảnh Mỹ thuần túy, do A24 và Plan B của Brad Pitt sản xuất.

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Dàn diễn viên tham gia đóng phim Minari cùng đạo diễn Lee Isaac Chung

Việc loại bộ phim này tại các hạng mục chính của Hiệp hội báo chí nước ngoài tại Mỹ - mà nó hoàn toàn xứng đáng - đã gây ra một tranh cãi lớn trong cộng đồng những nhà làm phim châu Á tại Mỹ và thậm chí họ cho rằng ban tổ chức giải Quả Cầu Vàng phân biệt chủng tộc.

Tuy nhiên, tại đề cử Oscar sắp tới (15/3), Minari chắc chắn sẽ có những vị trí đề cử xứng đáng hơn ở các hạng mục chính, cùng với một bộ phim xuất sắc khác của đạo diễn gốc Á là Nomadland của Chloe Zhao, dù phim này chỉ nói tiếng Anh từ đầu đến cuối.

Ở hạng mục Phim quốc tế xuất sắc nhất của Oscar (tiền thân là giải Phim nói tiếng nước ngoài), trong danh sách “shortlist” với 15 bộ phim vừa công bố, có 3 đại diện của châu Á là A Sun của Đài Loan, Better Days của Hong Kong và Sun Children của Iran.

Tuy nhiên, trong top 5 đề cử cuối cùng, giới phê bình chỉ hy vọng vào tác phẩm đại diện cho điện ảnh Đài Loan là A Sun (Dương quang phổ chiếu), một bộ phim về đề tài bi kịch gia đình, từng phát streaming trên Netflix năm ngoái.

Nhưng nhìn chung, trong nhiều năm qua, điện ảnh châu Á vẫn xuất hiện một cách hiếm hoi tại bảng đề cử chứ chưa đừng nói thắng giải, mặc dù đây là khu vực sở hữu nhiều nền điện ảnh hàng đầu thế giới như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ và Iran. Đồng thời, đây cũng là khu vực đang vươn lên dẫn đầu thị trường điện ảnh của thế giới.

Nhìn lại lịch sử của hạng mục này, thành tích điện ảnh của châu Á quá khiêm nhường, nếu không muốn nói là khá tệ so với châu Âu, châu lục chiếm hơn 80% chiến thắng, hay gần đây là khu vực điện ảnh Nam Mỹ, cũng đang vươn lên mạnh mẽ.

Ở châu Á, điện ảnh Nhật Bản có thành tích tốt nhất với 13 đề cử tại Oscar và chiến thắng một lần (chính thức) vào năm 2009 cho bộ phim Departures. Các đề cử khác của điện ảnh Nhật Bản chủ yếu ở thập niên 50, 60 – giai đoạn điện ảnh nước này được phương Tây công nhận với những bậc thầy điện ảnh như Kurosawa và Kinoshita. Người góp phần quảng bá nền điện ảnh Nhật Bản đầy bản sắc và độc đáo ra thế giới là Madame Kawakita.

Vào cuối những năm 80 của thế kỷ trước, thế hệ điện ảnh thứ 5 của Trung Quốc bắt đầu vươn ra thế giới với các bộ phim của Trương Nghệ Mưu và Trần Khải Ca. Phim của hai đạo diễn này lần lượt có đề cử tại Quả Cầu Vàng và Oscar trong những năm 90.

Năm 1994, điện ảnh châu Á lập một thành tích chưa từng có tại Oscar (và cũng chưa bao giờ lặp lại) là có tới 3 bộ phim tại top 5 đề cử Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất là Bá Vương Biệt Cơ của Trần Khải Ca (đại diện cho Trung Quốc), Hỷ Yến của Lý An (Đài Loan) và Mùi Đu Đủ Xanh của Trần Anh Hùng (Việt Nam). Đáng tiếc là ba bộ phim xuất sắc này cuối cùng lại thua cuộc trước một tác phẩm đến từ điện ảnh Tây Ban Nha.

Đến năm 2000, Ngọa Hổ Tàng Long của Lý An, bộ phim giành tới 10 đề cử Oscar mới trở thành bộ phim Hoa ngữ đầu tiên giành 4 chiến thắng Oscar, trong đó có hạng mục Phim nói tiếng nước ngoài xuất sắc nhất.

Tính đến nay, số giải Oscar cho phim nói tiếng nước ngoài đến từ châu Á chỉ đếm trên đầu ngón tay, bất chấp đây là khu vực có nhiều nhà làm phim nghệ thuật hàng đầu thế giới như Hầu Hiếu Hiền, Dương Đức Xương, Vương Gia Vệ, Trương Nghệ Mưu, Trần Khải Ca, Thái Minh Lượng…. Thậm chí, một bậc thầy của điện ảnh Ấn Độ là Satyajit Ray từng có phim gửi đi tranh giải nhưng chưa bao giờ được đề cử.

Lý do khiến điện ảnh châu Á ít được công nhận tại các giải thưởng điện ảnh hàng đầu của Mỹ phải chăng là sự khác biệt về văn hóa và thẩm mỹ?

Những thành viên trong Viện Hàn lâm thường xuất phát từ khu vực châu Âu và Mỹ latinh và họ thường chọn phim của các nền điện ảnh nước này bởi có chung lịch sử và sự gần gũi về mặt văn hóa và địa lý.

Trong khi đó, các đại diện đến từ châu Á đôi khi lại quá xa lạ về gu thưởng thức điện ảnh đối với họ. Ví dụ, hai đại diện khá nổi bật của điện ảnh châu Á năm nay A Sun (Đài Loan) và Better Days (Hong Kong) đề cập đến hai câu chuyện mang tính dị biệt về đề tài gia đình và bạo lực học đường mang tính bản địa, mà đôi khi người phương Tây rất khó cảm nhận và chia sẻ.

“Thiếu hiểu biết về văn hóa là vấn đề then chốt, cùng với phong cách kể chuyện quá khác biệt là những lý do khiến những người bỏ phiếu của Viện hàn lâm luôn e dè trước các bộ phim đến từ châu Á,” một nhà nghiên cứu chỉ ra lý do.

Ngược lại, Parasite của Bong Joon Ho (Hàn Quốc), dù kể một câu chuyện mang tính bản địa, nhưng lại giàu giá trị phổ quát và đặc biệt là ngôn ngữ điện ảnh thời thượng, rất gần với Hollywood, nền điện ảnh mà Bong thừa nhận chịu ảnh hưởng lớn trong suốt quá trình làm phim của mình.

Parasite mới chỉ là bộ phim duy nhất của Hàn Quốc lọt vào đề cử Phim quốc tế hay nhất tại Oscar, bất chấp điện ảnh nước này chiến thắng vang dội tại các LHP hàng đầu ở châu Âu và năm nào cũng gửi phim tốt nhất tranh giải Oscar. Đại diện của điện ảnh Hàn Quốc năm nay, The Man Standing Next, thậm chí không lọt vào “shortlist” – top 15 phim.

ĐIỆN ẢNH ĐÔNG NAM Á MỜ NHẠT… VÌ THIẾU CHIẾN DỊCH TIẾP THỊ?

Điện ảnh Đông Nam Á đến nay mới chỉ có hai đại diện lọt vào top 5 đề cử phim nói tiếng nước ngoài xuất sắc nhất tại giải Oscar là Mùi Đu Đủ Xanh của Trần Anh Hùng (Việt Nam) năm 1994 và The Missing Picture của đạo diễn Rithy Panh (Campuchia) năm 2014. Tuy nhiên, hai bộ phim này đều do Pháp bỏ vốn sản xuất và hai đạo diễn cũng mang quốc tịch Pháp.

Những đại diện khác của điện ảnh Đông Nam Á như Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Phillippines và Singapore hầu như năm nào cũng gửi phim tranh giải Oscar nhưng chưa bao giờ lọt được vào bảng đề cử, cho dù một số đạo diễn của các nước này đã từng chiến thắng tại LHP Cannes, Berlin hay Venice.

Anthony Chen, một đạo diễn nổi bật của điện ảnh Singapore từng chiến thắng giải Camera D’or (Phim đầu tay hay nhất) tại LHP Cannes với Ilo Ilo (2014) nhưng phim này bị loại thẳng tay tại đề cử Oscar.

Kỳ vọng của Chen và điện ảnh Singapore năm nay là Wet Season cũng không lọt vào được top 15.

Khi được hỏi lý do tại sao điện ảnh Đông Nam Á không được các giải thưởng lớn của Mỹ thừa nhận, Chen nói rằng nền điện ảnh của khu vực này vốn phát triển khá chậm, quá riêng tư và ít có giá trị phổ quát. Và để chen chân vào top 5 đề cử của Oscar thì các thành viên của Viện Hàn lâm để mắt tới các nền điện ảnh lớn của châu lục là Nhật, Hàn, Trung, Iran thay vì những nước nhỏ hơn.

Chiến dịch tiếp thị thiếu bài bản cũng là một lý do khiến các nền điện ảnh nhỏ ở châu Á ít được Viện hàn lâm chú ý.

Nhà sản xuất người Thái Raymond Phathanavirangoon, người đứng sau bộ phim về đề tài nhà tù Apprentice (2016) của đạo diễn Junfeng Boo (Singapore) được đánh giá cao tại LHP Cannes năm đó, nhưng bị Oscar phớt lờ, cho rằng ngoài sự khác biệt văn hóa, thì chuyện bộ phim không tiếp cận được các thành viên Viện Hàn lâm cũng là một lý do khiến phim Đông Nam Á không được chú ý.

“Với Apprentice, chúng tôi đã thuê một nhà báo Hoa Kỳ và thực hiện một số quảng cáo cũng như trình chiếu tại Mỹ với số kinh phí khoảng 60.000 – 80.0000 USD, một con số quá nhỏ để tiếp thị” - Raymond Phathanavirangoon thừa nhận.

Ông cũng từng tiếp thị một số bộ phim của Thái Lan nhưng kết quả vẫn là con số 0 tròn trĩnh.

“Một chiến dịch tiếp thị đầy đủ tại Oscar phải tiêu tốn hàng trăm nghìn, thậm chí cả triệu đô la Mỹ. Bạn phải bay qua đó, tổ chức các buổi tiệc cocktail, mời các tên tuổi lớn của điện ảnh tham dự mới hy vọng họ để mắt đến. Đó không phải là điều mà các nền điện ảnh ở Đông Nam Á dám làm” – ông nói tiếp.

Ngay cả những nền điện ảnh lớn trong khu vực châu Á cũng đối mặt với vấn đề này. Các chiến dịch tranh giải Oscar thường được tài trợ bởi các nhà phát hành phim ở Hoa Kỳ hay các hãng phim, các nhà sản xuất hàng đầu.

Điện ảnh châu Âu là một ví dụ. Họ có một nền điện ảnh lâu năm, nhiều tài năng lớn và luôn được hỗ trợ hào phóng bởi các công ty và nhà sản xuất giàu kinh nghiệm. Các công ty sản xuất và phát hành phim lớn của Mỹ như Neon, Magnolia Pictures, Sony Pictures Classics (SPC) và Netflix, có thể đủ khả năng hỗ trợ một chiến dịch quảng bá phim đáng kể cho các tác phẩm xuất sắc của châu Âu.

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Hai nhà sản xuất phim Parasite, Kwak Sin-ae và Bong Joon-ho hân hoan khi thắng giả Oscar

Parasite là một ví dụ tuyệt hảo cho chiến dịch tiếp thị thành công cho điện ảnh Hàn Quốc.

Được hỗ trợ bởi Neon và công ty sản xuất của bộ phim là CJ Entertaiment, bộ phim có một nguồn ngân sách quảng bá dư dả và một chiến dịch bài bản kéo dài.

Bong Joon Ho và dàn diễn viên trong phim cũng xuất hiện liên tục tại các tiệc chiếu phim và chiêu đãi, đến mức họ trở thành những nhân vật quen thuộc trên báo chí Mỹ.

Trong khi đó, một chiến dịch tiếp thị ít dụng công hơn cho bộ phim của Nhật Bản Shoplifters (thắng giải Cành cọ vàng năm 2018) của đạo diễn Hirokazu Kore-eda, dù mang về cho điện ảnh nước này thêm một đề cử Oscar, nhưng cơ hội chiến thắng thì rất mong manh.

Nhưng đôi khi, việc Viện Hàn lâm chọn đề cử cho một bộ phim châu Á nào đó còn là vì lý do chính trị hoặc kinh tế. “Giải Oscar có ý nghĩa với một số nền điện ảnh và không có ý nghĩa với một số nền điện ảnh khác. Và đôi khi mối quan tâm của Viện Hàn lâm Hoa Kỳ cho một nền điện ảnh nào đó là vì quốc gia này đang có một nền công nghiệp điện ảnh bùng nổ và lượng khán giả mà họ muốn nhắm đến” – một nhà báo Mỹ nhận định.

Như vậy, Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản vẫn là những nền điện ảnh lớn ở châu Á có cơ hội tiếp cận với giải Oscar hơn cả. Những nền điện ảnh nhỏ hơn thì đừng mơ, trừ khi xuất hiện một bộ phim khiến thế giới phải choáng váng.

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả.

Phim dựa trên những câu chuyện có thật là một giống giải trí đặc biệt. Chúng ta biết rõ hơn là tin vào mọi chi tiết hoặc dòng đối thoại, các tác phẩm luôn là một hư cấu theo nghĩa rộng và các nhà làm phim đang đối phó với các sự kiện thực tế cần phải có quyền tự do. Họ có thể phải đoán những cuộc gặp gỡ nhất định có thể như thế nào, hoặc tưởng tượng cuộc đối thoại trong một tình huống mà không có hồ sơ. Thời gian được rút ngắn; Thứ tự của các sự kiện có thể bị xáo trộn; Hình hỗ trợ có thể được kết hợp thành một ký tự duy nhất. Nhưng một bộ phim như vậy cũng đòi hỏi sự tin tưởng của chúng tôi. Chúng ta có thể muốn tin, ngay cả khi chúng ta biết chúng ta không nên. Đôi khi sự hoài nghi của chúng tôi và sự sợ hãi của chúng tôi phải đi đôi với nhau.ovies based on true stories are a special breed of entertainment. We know better than to believe every detail or line of dialogue—movies are always a fiction in the broad sense—and that filmmakers who are dealing with real-life events need to take liberties. They might have to guess what certain encounters might have been like, or imagine dialogue in a situation of which there’s no record. Timelines are abridged; the order of events may be shuffled; supporting figures may be melded into a single character. And yet such a film also demands our trust. We may want to believe, even when we know we shouldn’t. Sometimes our skepticism and our awe have to walk hand-in-hand.

Nhưng một bộ phim sống động, bao bọc có thể thu hút chúng ta gần với tinh thần của một sự kiện hoặc một người theo những cách khiến chúng ta muốn mở rộng quan điểm của mình. Đôi khi, chúng tôi bị cuốn hút vào thư viện hoặc hiệu sách, vì vậy chúng tôi có thể đọc thêm về những gì thực sự đã xảy ra. Và các bộ phim dựa trên những câu chuyện có thật khiến chúng ta liên lạc với quá khứ theo cách nội tạng. Để thấy các thành phố và thị trấn được tái tạo khi chúng 20, 50 hoặc 100 năm trước, để nhìn vào quần áo mà mọi người mặc, để nghe những mô hình lời nói đã trở nên lỗi thời: tất cả những điều này nhắc nhở chúng ta rằng quá khứ là một nơi thực sự, Người dân với những người quan tâm đến những điều chúng ta làm tương tự, những người phải đối mặt với những thách thức gần như đã phá vỡ họ và những người tìm thấy niềm vui trong cùng một niềm vui mà chính chúng ta trân trọng. Mỗi người chúng ta chỉ có thể sống một cuộc sống, nhưng những bộ phim thu hút lịch sử là những cửa sổ vào bản thân mà chúng ta có thể đã có, nếu chúng ta được sinh ra ở một thời điểm khác hoặc địa điểm hoặc hoàn cảnh.

Sau đây là danh sách 10 bộ phim hàng đầu của chúng tôi dựa trên một câu chuyện có thật, được chọn bởi nhân viên Time và một nhóm các nhà sử học được chọn. Để đủ điều kiện, câu chuyện trung tâm trong một bộ phim ít nhất phải được truyền cảm hứng từ một câu chuyện thực sự xảy ra với những người thực sự không chỉ là một câu chuyện hư cấu được đặt trong bối cảnh thực sự và một nhân vật trung tâm dựa trên một người thực sự phải làm những điều mà Đối tác ngoài đời thực của anh ấy hoặc cô ấy thực sự đã làm. Các anh hùng của báo chí điều tra, cướp ngân hàng và người cung cấp thông tin và súng, những công dân bình thường đã chiến đấu vì công lý: những người này có thể trở nên thật hơn với chúng ta thông qua các bộ phim. Cuộc sống của họ có thể rất khác với của chúng ta, nhưng màn hình phim mở ra một cổng thông tin giữa chúng ta. Và chúng ta càng tìm hiểu về họ, chúng ta càng muốn học. - Stephanie Zacharek

Phương pháp

Chúng tôi bắt đầu bằng cách tạo ra một nhóm gồm 70 ứng cử viên: mỗi bộ phim đáp ứng chính chúng tôi dựa trên một câu chuyện có thật, và xuất hiện tại thời điểm khảo sát trong danh sách 100 phim Top IMDB, danh sách các bộ phim phổ biến của IMDB dựa trên câu chuyện có thật , Top 100 AFI, Top 100 của Rotten Tomatoes hoặc danh sách phim hay nhất mọi thời đại. Mười nhân viên và mười nhà sử học sau đó đã xếp hạng trong số 70 bộ phim theo thang điểm từ một đến năm người dựa trên sở thích, không chính xác. Sau khi loại bỏ các bộ phim đã được xem bởi ít hơn một nửa số người được hỏi, cũng như những bộ phim có phiếu bầu được phân chia áp đảo (tức là tất cả các fives và những người), đây là những bộ phim có điểm trung bình cao nhất. Thiết kế và phân tích khảo sát của Emily Barone.

10. Selma (2014)

Vào ngày 7 tháng 3 năm 1965, khi những người biểu tình quyền bầu cử đã cố gắng băng qua cầu Edmund Pettus ở Selma, Ala., Trong một cuộc tuần hành đến thủ đô của bang ở Montgomery, họ đã gặp cảnh sát vũ trang rất nhiều. Một ngày sẽ được gọi là Chủ nhật đẫm máu của Hồi, sau khi 17 người tuần hành phải nhập viện và 50 người được điều trị cho các thương tích ít hơn, sẽ trở thành một thời điểm quan trọng trong cuộc chiến chống lại sự đàn áp của cử tri phân biệt quốc gia. Nhưng những người biểu tình (dẫn đầu là Martin Luther King Jr., John Lewis, Hosea Williams và các nhà lãnh đạo dân quyền khác) đã không bỏ cuộc.

Những sự kiện này là bối cảnh cho bộ phim do Ava Duvernay định hướng Selma, với việc tái tạo các tháng dẫn đến các cuộc tuần hành, minh họa cho sự phức tạp của các phong trào công bằng xã hội và các nhà lãnh đạo của họ. Đối với Joseph P. Reidy, Giáo sư Lịch sử danh dự tại Đại học Howard, sức mạnh của bộ phim nằm ở cả hai mô tả các cuộc tranh luận giữa các nhà lãnh đạo như King và John Lewis, và những câu chuyện về các anh hùng địa phương vô danh là bất tử trong các bản tin đương đại, đã thúc đẩy sự phẫn nộ của công chúng và Buộc Tổng thống Lyndon B. Johnson lên án bạo lực gây ra cho những người tuần hành. Được tạo ra một cách đẹp đẽ và hành động hoàn hảo, ông Re Reidy nói, ông Sel Selma cung cấp một cống phẩm đáng nhớ cho những người bình thường mà sự can đảm phi thường đã giúp củng cố một quyền cơ bản của nền dân chủ Mỹ: bỏ phiếu. - Suyin Haynes

9. Kết nối Pháp (1971)

Kế hoạch buôn bán ma túy phức tạp được gọi là kết nối của Pháp đã được Corsican Gangsters nấu chín vào những năm 1930: hạt anh túc được chuyển từ Thổ Nhĩ Kỳ và Lebanon đến Marseille, một cảng biển lớn của Pháp, nơi chúng được xử lý thành heroin, trước khi được chuyển đến Hoa Kỳ bởi Hoa Kỳ bởi Hoa Kỳ bởi Hoa Kỳ Những năm 1960, có tới 44 tấn đã được chuyển đến Hoa Kỳ hàng năm, khiến Tổng thống lúc đó Kết nối Pháp. Hai năm sau, đạo diễn William Friedkin, bộ phim giành giải Oscar cùng tên đã ra mắt, với một bước ngoặt hơi hư cấu trong các vụ bắt giữ ma túy ngoài đời thực ly kỳ.

Trong khi Friedkin có một số quyền tự do với bộ phim, bao gồm cả cuộc rượt đuổi xe hơi mang tính biểu tượng của nó, anh đã cam kết giữ câu chuyện khá thực tế. Để hỗ trợ điều này, anh ấy đã mang đến cho Eddie Egan và Sonny Grosso, các thám tử NYPD, người đã cung cấp nguồn cảm hứng cho các nhân vật chính của bộ phim, Thám tử Popeye Hồi Doyle (do Gene Hackman thủ vai) và đối tác của anh ấy là Buddy, Cloudy Cloudy Russo ). Egan và Grosso từng là cố vấn kỹ thuật trên trường quay toàn bộ sản xuất, cũng như cả hai diễn xuất trong các khách mời nhỏ trong phim. Sự kết nối của Pháp truyền tải sự hạt giống của New York vào cuối thập niên 60 và đầu những năm 1970, ông nói, nhà sử học Amity Shlaes nói. Đối với những người trong chúng ta yêu N.Y., bộ phim, cho đến năm nay, một điểm đánh dấu cho thấy thành phố đã đi được bao xa sau những năm 1970. Bây giờ bộ phim Profers Hope: Thành phố đã trở lại từ sự suy giảm trước đó. Cảnh sát lừa đảo thô được thủ vai Gene Hackman nhắc nhở chúng ta về một điều khác: Chính sách nghi vấn không có gì mới. - Cady Lang

Nhận bản sửa lỗi lịch sử của bạn ở một nơi: Đăng ký nhận bản tin lịch sử hàng tuần

8. Danh sách Schindler (1993)

Nhà làm phim Steven Spielberg muốn dàn diễn viên chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết lịch sử của Thomas Keneally, năm 1982 để ghi nhớ một điều gì đó: Hồi Chúng tôi không làm một bộ phim, chúng tôi đã làm một tài liệu, khi ông nói. Cho đến thời điểm đó, đã có những bộ phim tài liệu và các bộ phim châu Âu về Holocaust, nhưng không phải là một bộ phim bom tấn hiện đại của Hollywood.

Liam Neeson đóng vai trò là doanh nhân thực sự Oskar Schindler, được cho là đã tiết kiệm hơn 1.000 người Do Thái bằng cách đưa họ làm việc trong nhà máy sản xuất đạn dược của mình ở Brünnlitz, trong những gì mà bây giờ là Cộng hòa Séc. Trong thực tế, có nhiều hơn một danh sách, được viết bởi Schindler, mà bởi một trại Plaszów có tên có tên là Marcel Goldberg, có tên của những người bị xóa để được chuyển đến nhà máy của Schindler, nhưng việc rời khỏi thực tế không phải là tác động của bộ phim . Bộ phim được ca ngợi không chỉ bởi các nhà phê bình, nó đã giành giải Oscar cho bức ảnh hay nhất mà còn bởi những người sống sót sau Holocaust, người đã tìm thấy sự miêu tả về những gì họ đã trải qua và sự tàn bạo của chế độ Đức Quốc xã thực tế đến nỗi nó đã truyền cảm hứng cho nhiều người để chia sẻ Ký ức, do đó cho phép các nhà sử học bảo tồn câu chuyện của họ cho các thế hệ tương lai. Mặc dù Thế chiến II đã kết thúc 75 năm trước, nhưng bài học của bộ phim là một phần vượt thời gian. Đó là về hành động của một người từ chối đi cùng với kẻ ác, nhà sử học Julian Zelizer nói. Đây là một thông điệp cơ bản, nhưng một thông điệp cộng hưởng lớn trong thời đại của chúng ta. - Olivia B. Waxman

7. Âm thanh của âm nhạc (1965)

Julie Andrew chạy qua những ngọn đồi Áo khi Maria trong bộ phim năm 1965 Âm thanh âm nhạc có lẽ là một trong những cảnh mở đầu nổi tiếng nhất trong lịch sử điện ảnh. Dựa trên cuốn hồi ký của Real Maria, bộ phim kể câu chuyện về một nữ tu có tinh thần tự do được gửi để trở thành một người đàn ông cho bảy đứa trẻ âm nhạc, ngay trước khi Thế chiến II bắt đầu. Như trong phim, Maria kết hôn với Georg von Trapp (người đã 25 tuổi trong thực tế) và gia đình đã lưu diễn ở châu Âu vào năm 1937 với tư cách là Dàn hợp xướng gia đình von Trapp. Năm sau, họ trốn khỏi Áo, nơi đã bị Đức quốc xã sáp nhập, và tìm đường đến New York, nơi họ tổ chức buổi hòa nhạc Mỹ đầu tiên vào tháng 12 năm 1938.

The Sound of Music ra mắt trên sân khấu Broadway vào năm 1959 và bộ phim đình đám được phát hành sáu năm sau đó, phần lớn vẫn trung thành với câu chuyện có thật, mặc dù Georg thực sự được cho là không lạnh lùng như bộ phim của anh ấy, và Maria được cho là Đôi khi có một chút tính khí, trái với miêu tả luôn luôn của Julie Andrew. Ngoài việc cung cấp một chương trình giới thiệu cho tài năng thiên thạch của một Julie Andrew trẻ tuổi, âm thanh của âm nhạc còn đưa ra một ví dụ tuyệt vời về sự chậm chạp của chủ nghĩa độc đoán và sự cố chấp, Người dẫn chương trình của loạt phim PBS Digital Studios Nguồn gốc của mọi thứ. Sự tích hợp quỷ quyệt nhưng ổn định của biểu tượng và ý thức hệ của Đức Quốc xã trong suốt bộ phim, xen kẽ với những con số âm nhạc lạc quan về Rainstorms và Young Love, tiết lộ chế độ độc tài cho những gì họ thực sự là. - Suyin Haynes

6. 12 Years a Slave (2013)

Black British director Steve McQueen’s triple Academy Award-winning 12 Years a Slave, starring Chiwetel Ejiofor and Lupita Nyong’o, is “a raw, horrifying and essential document,” declared TIME’s film critic. Ejiofor stars as Solomon Northup, a free African-American man who was living in Saratoga Springs, N.Y., when he was lured away and kidnapped in 1841 and sold into slavery in Louisiana. The film was based on Northup’s own 1853 memoir Twelve Years a Slave, which documented his treatment on the plantation and his eventual freedom and reunion with his family, as well as on input from historians and researchers.

“12 Years a Slave meets the high bar for historical accuracy as well as artistic excellence,” says Manisha Sinha, Draper Chair in American History at the University of Connecticut, who recommends the film to her students as a source for their work. “It is for the most part extremely faithful to the original narrative of Solomon Northup, which I had taught in my class for years before the movie came out. I think he would approve.” — Suyin Haynes

Read more: 13 True Stories That Would Make Oscar-Worthy Movies

5. GoodFellas (1990)

“As far back as I can remember, I always wanted to be a gangster,” declares Ray Liotta’s Henry Hill, protagonist of Martin Scorsese’s Goodfellas, the 1990 classic crime film charting the rise and fall of a mafioso and his network in Italian-American Brooklyn. Viewers of the film, however, are left with plenty of reasons why a life in the mob might not be quite so desirable.

Billed as “the fastest, sharpest 2 1/2-hr. ride in recent film history,” by TIME’s film critic on its release, Goodfellas was based on the 1985 Wiseguy: Life in a Mafia Family by crime reporter Nicholas Pileggi, who also co-wrote the screenplay for the film. Pileggi’s book detailed the life of the real Henry Hill and his associates Thomas DeSimone and James “Jimmy” Burke. Their characters inspired those played by Joe Pesci and Robert deNiro in the movie, which featured the real 1978 Lufthansa heist at JFK Airport, thought to have been planned by Burke. “Goodfellas demythologizes organized crime, giving an audience primed by Coppola, Brando and Pacino a look at a world that was messy, bitter and unromantic,” says Jason Herbert, creator of Historians at the Movies and a PhD candidate at the University of Minnesota. “Plus, that garlic shot.”— Suyin Haynes

4. Spotlight (2015)

Starring Mark Ruffalo, Rachel McAdams and Michael Keaton as members of a real team of investigative journalists at the Boston Globe,Spotlight shows the efforts of reporters to uncover the history of systematic sexual abuse within the Archdiocese of Boston. The film is largely faithful to true events and based on real people; in January 2002, the Boston Globe Spotlight investigations team published their first story in a series of articles exposing the cover up of the abuse by Roman Catholic priests. Marty Baron, the current editor of the Washington Post, was the editor of the Globe at the time the film takes place, and is portrayed by Liev Schreiber in the film. “What is especially striking about the film is how well the director and writers effectively conveyed the real-life story of this group of courageous journalists—while carefully and delicately unveiling the personal lives of the victims of abuse,” says Keisha N. Blain, associate professor of history at the University of Pittsburgh. “By centering these difficult stories, in a moving, respectful and honest way, I think Spotlight is one of the best movies ever produced.” — Suyin Haynes

3. Butch Cassidy and the Sundance Kid (1969)

Paul Newman and Robert Redford stole hearts and set a new standard for the buddy film when they portrayed notorious real-life outlaws Robert “Butch Cassidy” LeRoy Parker and Harry “The Sundance Kid” Longabaugh in 1969’s Butch Cassidy and the Sundance Kid. While the film begins with the disclaimer that “most of which follows is true,” in reality, the film takes plenty of creative liberties in the service of creating a rollicking, if not quite historically accurate, Western. Even the central relationship was really more of a casual working partnership than the best friendship portrayed in the film, according to Cassidy’s sister Lula Parker Betenson, and the film’s famous ending is still the subject of historical debate: did the two men die in Bolivia or, as Cassidy’s sister and great-nephew contend, did Cassidy escape?

Those questions, however, don’t detract from the movie’s impact—or that of the character of Etta Place, played by Katharine Ross, says Stephanie Coontz, emeritus faculty of history and family studies at The Evergreen State College. “I loved that the guys were so charmingly incompetent and self-deprecating in some areas, without being feckless buffoons. It was the first time I’d seen men willing to admit a woman into their adventures and allow her to be a real friend to one of them without any rivalry between them,” Coontz recalls of seeing the movie when it came out. “I reacted to the movie less as a history student, which I was at the time, than as a product of my own time—a young woman who was fed up with the gender stereotypes I’ve been brought up with.” — Cady Lang

2. Tất cả những người đàn ông của Tổng thống (1976)

Một thế hệ trẻ có thể biết Bob Woodward vì những biên niên sử toàn diện của mình về chính quyền Trump trong các cuốn sách sợ hãi: Trump trong Nhà Trắng và Rage. Nhưng gần nửa thế kỷ trước đó, ông đã khám phá ra những bí mật của một tổng thống khác: Richard Nixon. Năm 1972, ông và đồng nghiệp Washington Post Carl Bernstein bắt đầu điều tra một vụ đột nhập tại Hội nghị Quốc gia Dân chủ. Sau khi nghiên cứu toàn diện, họ phát hiện ra rằng đột nhập là một phần của chiến dịch gián điệp chính trị và phá hoại chính trị thay mặt Nixon và chống lại các đối thủ của anh ta; Vụ bê bối Watergate đã sớm mang lại sự sụp đổ của nhiệm kỳ tổng thống Nixon. Các nhà báo và biên tập viên Ben Bradlee, Barbara A. Perry, giáo sư Gerald L. Baliles và Giám đốc nghiên cứu tổng thống tại Trung tâm Đại học Virginia Miller Miller, là những anh hùng người Mỹ chính hãng.

Chỉ bốn năm sau khi đột nhập, bộ phim Alan J. Pakula, được phát hành, với Robert Redford và Dustin Hoffman lần lượt chơi Woodward và Bernstein, trong cuộc săn lùng sự thật của họ. Pakula và nhà biên kịch William Goldman đã theo đuổi báo chí của họ vào một câu chuyện thám tử thần kinh với các tầng hầm nhà để xe bóng tối. Không giống như cuốn sách cùng tên của Woodward và Bernstein, bộ phim ít tập trung vào các chi tiết thực tế của Watergate, thay vào đó là những tính cách và thủ tục đằng sau một trong những cuộc điều tra lớn nhất của thế kỷ 20, và các nhân vật hỗ trợ ngoài đời thực quan trọng như Washington Post 'Spublisher Katharine Graham bị bỏ rơi. Hình ảnh của nó về tác động của cuộc điều tra, tuy nhiên, là rất thực tế. Bộ phim đã giành được tám đề cử Oscar; 20 năm sau, nhà văn bài viết lâu năm Ken Ringle đã gọi nó là bộ phim hay nhất từng được thực hiện về nghề báo chí. - Andrew R. Chow và Cady Lang

1. Chiều ngày chó (1975)

Al Pacino đã chơi nhiều kẻ chủ mưu tội phạm trong suốt sự nghiệp của mình, nhưng John Wojtowicz không phải là một trong số đó. Vào một ngày hè năm 1972, cựu chiến binh Chiến tranh Việt Nam đã thực hiện một nỗ lực vụng về để cướp một ngân hàng Brooklyn, chỉ để được chấp nhận với con tin trong một cuộc đình công trong 14 giờ. Sidney Lumet, vào buổi chiều ngày chó mô tả thời gian đau đớn trong ngân hàng, trong đó Wojtowicz đã đau đớn vì hành động của anh ta và bất ngờ gắn kết với một số tù nhân của anh ta. Trong số 10 nhà sử học và 10 nhân viên thời gian của chúng tôi, tất cả những người đã xem bộ phim được xếp hạng nó hoặc là một người tuyệt vời hay, hay, chỉ ra nhà sử học Annette Gordon-Reed, buổi biểu diễn bùng nổ của Pacino cũng tạo ra một chút lịch sử, Trong hình thức của câu khẩu hiệu thập niên 1970, Att Attica! Attica! ”

Sau khi phát hành bộ phim, Wojtowicz đã phàn nàn trong một lá thư được viết từ nhà tù rằng bộ phim chỉ là 30% đúng, mặc dù anh ta cũng gọi Pacino, mô tả về bản thân anh ta. Tuy nhiên, một số phóng viên đã hoài nghi về phiên bản sự kiện của Wojtowicz, nói rằng động cơ đã nêu của anh ấy để trả tiền cho một cuộc phẫu thuật ghi lại giới tính cho người yêu Liz Eden của anh ấy là một trang bìa cho một âm mưu mafia. Cho dù bộ phim có chính xác hay không, Wojtowicz có đúng về một điều: Pacino là tuyệt vời không thể phủ nhận, làm nổi bật nhân vật với các mầm bệnh và năng lượng điên cuồng bị dồn nén. Bộ phim sẽ biến Wojtowicz thành một anh hùng dân gian cho nhiều người và thực sự đã giúp tài trợ cho cuộc phẫu thuật thực tế của Eden. - Andrew R. Chow

Sửa chữa, ngày 20 tháng 11.

Phiên bản gốc của câu chuyện này đã sai lầm của Solomon Northup, trong ba trường hợp. Đó là Northup, không phải Northrup.

Liên hệ với chúng tôi tại . at .

Bộ phim hay nhất dựa trên một câu chuyện có thật là gì?

Những bộ phim hay nhất dựa trên những câu chuyện có thật..
Tất cả các bộ phim của Tổng thống (1976).Kịch.....
Trong bộ phim Cold Blood (1967).....
Hustlers (2019) Phim.....
Phim Argo (2012).....
Bộ phim Mạng xã hội (2010).....
Phim vào buổi chiều ngày chó (1975).....
Phim Dallas Mua Câu lạc bộ (2014).....
Bạn có thể tha thứ cho tôi không?(2018) Phim ..

Câu chuyện có thật hay nhất trên Netflix là gì?

Phổ biến trên NetflixExplore nhiều hơn..
Elisa & Marcela ..
Loving..
Trò chơi của Molly ..
Câu chuyện trắng Ryan ..
Não trên lửa ..
Worth..
Silenced..
Một cuộc gọi để gián điệp ..

Bộ phim buồn nhất dựa trên một câu chuyện có thật là gì?

Dựa trên một cuốn hồi ký được viết bởi một người sống sót sau Holocaust thực sự, nghệ sĩ piano thậm chí có thể là bộ phim buồn nhất mọi thời đại.The Pianist may even be the saddest movie of all time.

Là bộ phim có thật dựa trên một câu chuyện có thật?

Năm sau, Franco miêu tả kẻ giết người bị kết án Christian Longo trong câu chuyện có thật.Bộ phim dựa trên một cuốn hồi ký của cựu phóng viên của New York Times Michael Finkel (Jonah Hill), người đã hình thành một mối quan hệ kỳ lạ với Longo sau khi kẻ giết người đảm nhận danh tính của anh ta trong khi cố gắng trốn tránh bị bắt giữ.The film was based on a memoir by former New York Times reporter Michael Finkel (Jonah Hill), who formed a strange bond with Longo after the killer assumed his identity while attempting to evade arrest.