Bài 21: việt nam trong những năm 1939 - 1945 - Tình hình Việt Nam trong Chiến tranh thế giới thứ hai có điểm đáng gì chú ý ?
Năm Ất Dậu tháng ba còn nhớ mãi Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương! Những thây ma thất thểu ngoài đường Rồi ngã gục không đứng lên vì đói! Đói tự Bắc Giang, đói về Hà Nội Đói ở Thái Bình, đói tới Gia Lâm Khắp đường xa những xác đói rên nằm Trong nắng lửa trong bụi lầm co quắp Giữa đống trẻ chỉ còn đôi hố mắt Đọng chút hồn sắp tắt của thây ma; Những cánh tay gầy quờ quạng khua khua Như muốn bắt những gì vô ảnh, Dưới mái tóc rối bù và kết bánh Một làn da đen sạm bọc xương đầu Răng nhe ra như những chiếc đầu lâu Má hóp lại, răng hằn sâu gớm ghiếc Già, trẻ, gái, trai không còn phân biệt Họ giống nhau như là những thây ma Như những bộ xương còn dính chút da Chưa chết đã bốc xa mùi tử khí! Mùi nhạt nhẽo nặng nề kỳ dị Một mùi tanh, lộn mửa thoảng mà kinh (Mùi tanh hôi ám ảnh mãi bên mình Khiến cả tháng ăn không còn ngon bữa!) Những thây đó cứ xỉu dần tắt thở, Nằm cong queo mắt mở trừng trừng Trong con ngươi còn đọng lệ rưng rưng Miệng méo xệch nhưng khóc còn dang dở Có thây chết ba hôm còn nằm đó Ruồi tám phương bâu lại khóc vo vo Rồi ven đường đôi nhát cuốc hững hờ Đắp đệm với những nấm mồ nông dối Đói tự Bắc Giang, đói về Hà Nội Đói ở Thái Bình, đói tới Gia Lâm Rải ven đường những nấm mộ âm thầm Được đánh dấu bằng ruồi xanh, cỏ tốt Có nấm mộ quá nông, trơ hài cốt Mùi tanh hôi nồng nặc khắp không gian Sau vài trận mưa nước xối chan chan Ôi! thịt rửa xương tàn phơi rải rác! Tại Hà Nội cũng như bao tỉnh khác Những thây ma ngày lếch đến càng đông Đem ruồi theo cùng hơi hớm tanh nồng Rồi ngã gục khắp đầu đường cuối ngõ Thường sớm sớm cửa mỗi nhà hé mở Rụt rè xem có xác chết nào chăng! Từng chiếc xe bò bánh rít khô khan Mỗi sáng dạo khắp nẻo đường nhặt xác, Đó đây thò khô đét một bàn chân Hay cánh tay gầy tím ngắt teo răn Giơ chới với như níu làn không khí Như cầu cứu, như vẫy người chú ý Có hơi thở tàn thoi thóp chưa thôi, Có tiếng của mình, tiếng nấc những tròng ngươi Nhìn đẫm lệ người chôn người chưa chết! Bốn ngoại ô mở ra từng dãy huyệt Được lấp đầy bằng xác chết thường xuyên Ruồi như mây bay rợp cả một miền Chết! Chết! Chết! Hai triệu người đã chết! Họ là những người quê non nước Việt Sống cần lao bên ruộng lúa đồng khoai Lúa xanh rờn nhờ họ đổ mồ hôi Năm ấy, thuở Nhật Tây cùng đô hộ Chúng thi nhau cướp của dân ta Hết lúa rồi, hết sạch cả khoai ngô Hết củ chuối, hết nhẵn khô cả sắn! Ngày giáp hạt không còn chi gặm nhấm Đói cháy lòng đành nhá cả mo cau, Nhai cả bèo và nuốt cỏ khô dầu! Đói! Đói! Đói! Người nhao lên vì đói! Đói tự Bắc Giang, đói về Hà Nội Đói ở Thái Bình, đói tới Gia Lâm Tạm biệt quê hương lê gót âm thầm Trên rải rác mỗi nẻo đường đất nước Từng gia đình dắt díu nhau lê bước Đi lang thang mong sống tạm qua ngày Đợi lúa lên hương, bông trĩu đầu cây Hơn tháng nữa, sẽ hồi sinh, sẽ sống Nhưng đau đớn hỡi ơi là ảo mộng! Họ ra đi hi vọng có ngày về Nhưng chẳng bao giờ về nữa hỡi người quê Dần ngã gục khắp đầu đường xó chợ Cùng lúc ấy trên đường rộn rã Từng đoàn xe rộn rã thóc vàng tươi Thóc của dân đen thóc của những người Họ đang chết đói vì thực dân cướp thóc Thóc chúng cướp phần vung xài huy hoắc, Phần chúng đem đổ nát trong kho Ô đau thương chưa từng thấy bao giờ Trong lịch sử chưa bao giờ từng có Hai triệu người vì thực dân lìa bỏ Nước thân yêu, oan uổng chết đau thương Trong lúc đầy đồng bát ngát ở quê hương Lúa mơn mởn đang ra đồng trổ trái Lúa trĩu hạt vàng tươi say gấp bội Ngạt ngào hương thơm báo hiệu ấm no vui Nhưng người đi không về nữa than ôi! Lúa chín gục, chẳng còn ai gặt hái! Ta nhớ mãi cái thời kỳ đen tối Quên làm sao tội lỗi kẻ xâm lăng! Những con người không còn khóc được Quên làm sao mối thù hận không cùng! Quên sao được hai triệu người chết đói! Năm Ất Dậu tháng ba còn nhớ mãi Giống lạc hồng cực trãi lắm đau thương! Những thây ma thất thểu ngoài đường Rồi ngã gục không đứng lên vì đói! Đói tự Bắc Giang, đói về Hà Nội Đói ở Thái Bình, đói tới Gia Lâm. (Bàng Bá Lân 5/1957) Tình hình Việt Nam trong Chiến tranh thế giới thứ hai có điểm đáng gì chú ý ? Trả lời: -Tháng 9-1940, sau khi Nhật nhảy vào Đông Dương, thực dân Pháp đầu hàng : thừa nhận cho Nhật có quyền sử dụng tất cả các sân bay và cửa biển ở Đông Dương vào mục đích quân sự ; cam kết hợp tác với chúng về mọi mặt... cùng nhau đàn áp, bóc lột nhân dân Đông Dương... Vì sao thực dân Pháp và phát xít Nhật thỏa hiệp với nhau để cùng thống trị Đông Dương ? Trả lời: - Thực dân Pháp lúc này đang yếu thế ở cả nước Pháp và Đông Dương (nước Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng). Hai cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kì và binh biến Đô Lương đã diễn ra như thế nào ? Trả lời: 1. Khởi nghĩa Bắc Sơn (27 - 9 - 1940) 2. Khởi nghĩa Nam Kì (23 - 11 -1940) Theo kế hoạch đã định, cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra vào đêm 22 rạng sáng 23 -11-1940 ở hầu khắp các tỉnh Nam Kì. Nghĩa quân triệt hạ một số đồn bốt giặc, phá nhiều đường giao thông , thành lập chính quyền nhân dân và tòa án cách mạng ở nhiều vùng thuộc các tỉnh Mĩ Tho. Gia Định... Lá cờ đỏ sao vàng đã xuất hiện lần đầu tiên trong cuộc khởi nghĩa này. Do thực dân Pháp đàn áp khốc liệt, cơ sở Đảng bị tổn thất nặng, nhưng một số nghĩa quân đã rút vào hoạt động bí mật chờ cơ hội hoạt động trở lại. Ngày 13 -1 - 1941, dưới sự chỉ huy của Đội Cung (Nguyễn Văn Cung), binh lính đồn chợ Rạng đã nổi dậy. Tối hôm đó, họ đánh chiếm đồn Đô Lương, rồi lên ô tô kéo Vinh định phối hợp với số binh lính ở đây chiếm thành. Nhưng kế hoạch không thực hiện được, Đội Cung bị Pháp bắt. Mặc dù bị giặc tra tấn rất dã man, trước sau ông vẫn nhất định không khai và nhận hết trách nhiệm về mình. Quân Pháp đã xử tử Đội Cung cùng 10 đồng đội của ông, kết án khổ sai và đưa đi đày nhiều người khác. Các cuộc khởi nghĩa và binh biến nói trên, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đã để lại cho Đảng Cộng sản Đông Dương những bài học bổ ích về khởi nghĩa vũ trang, về xây dựng lực lượng vũ trang và chiến tranh du kích, trực tiếp chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945. Hãy nêu nguyên nhân bùng nổ và ý nghĩa của hai cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kì và binh biến Đô Lương. Trả lời: Khởi nghĩa Bắc Sơn (27/9/1940) Ý nghĩa và bài học của ba sự kiện trên : Sưu tầm một số thơ ca tố cáo tội ác của thực dân Pháp và quân phiệt Nhật đối với nhân dân ta thời kì này. Trả lời: ĐÓI Năm Ất Dậu tháng ba còn nhớ mãi Ngoài ra còn truyện ngắn "Vợ Nhặt" của nhà văn Kim Lân
|