Bee satisfaction hướng dẫn lấy báo cáo

03-2023 BẢN TIN Báo cáo thống kê ngành xơ, sợi Tháng 03-2023 Hiệp hội Bông Sợi Việt Nam Ban Thông tin Truyền thông tổng hợp & biên tập -Lưu hành nội bộ-

  • 2. 03-2023 TIN TRONG NƯỚC TIN QUỐC TẾ ĐIỂM TIN Giá nhập khẩu bông nguyên liệu vẫn trong xu hướng giảm nhẹ Dự báo lượng xơ nguyên liệu nhập khẩu tiếp tục giảm Dự báo giá nhập khẩu sợi nguyên liệu giữ mức ổn định Xuất khẩu xơ, sợi dệt các loại phục hồi chậm Hơn 11 tỷ USD từ Mỹ đã rót vào Việt Nam: Lĩnh vực nào được đầu tư nhiều nhất? Xuất khẩu dần hồi phục, nhóm hàng chủ lực lấy lại đà tăng trưởng Thị trường sợi cotton toàn cầu ước đạt 100 tỷ USD vào năm 2028 Các nhà xuất khẩu sợi cotton ở Gujarat đang nhận thấy nhu cầu mạnh mẽ từ Thổ Nhĩ Kỳ và Châu Âu Sản lượng bông: xu hướng toàn cầu và nội địa “Bến đỗ mới” của bông Australia Indonesia hy vọng Ấn Độ sẽ xem xét lại kế hoạch áp thuế nhập khẩu chống bán phá giá đối với VSF của Indonesia Nhập khẩu VSF của Ấn Độ tăng vì giá bông đạt mức cao kỷ lục trong năm 2022 Nhu cầu từ châu Á sẽ quyết định tương lai kinh tế toàn cầu
  • 3. 03-2023 Thị trường sợi cotton toàn cầu ước đạt 100 tỷ USD vào năm 2028 V iệc tăng giá trị được cho là do các đặc tính độc đáo của sợi ảnh hưởng đến chất lượng của hàng dệt thành phẩm. Trong số các loại sợi, sợi chải thô dự kiến sẽ mở rộng đáng kể trong giai đoạn này, vì chúng thường được sử dụng để sản xuất sợi len. Lĩnh vực may mặc cũng được dự đoán sẽ đạt mức tăng trưởng vừa phải trong giai đoạn ước tính dựa trên nền tảng của sự lan rộng của thương mại điện tử và sự gia tăng thu nhập khả dụng. Việc tăng cường các sáng kiến của chính phủ vì lợi ích của ngành dệt may trong nước được coi là yếu tố chính thúc đẩy sự tăng trưởng của thị trường sợi cotton. Những sáng kiến này tập trung vào phát triển công nghệ, phát triển cơ sở hạ tầng và phát triển ngành dệt may. Tuy nhiên, cạnh tranh về giá có thể cản trở sự mở rộng của ngành so với việc giảm giá của sợi tổng hợp. Thị trường sợi cotton Châu Á-Thái Bình Dương dự kiến sẽ ghi nhận mức tăng trưởng đáng kể trong giai đoạn dự báo, do nhu cầu tăng và chi tiêu của người tiêu dùng tăng do dân số tăng. Tuy nhiên, thị trường châu Âu ước tính sẽ tăng trưởng với tốc độ thuận lợi trong giai đoạn dự báo. Điều này là do nhu cầu về nguyên liệu ngày càng tăng và sự gia tăng của hàng dệt may kỹ thuật trong những năm qua. Nguồn: Apparel Resources Ngọc Trâm biên dịch TIN CHUYÊN NGÀNH Theo báo cáo của Fortune Business Insights, thị trường sợi cotton toàn cầu, trị giá 94,4 tỷ USD vào năm 2022, sẽ tăng từ 82,81 tỷ USD vào năm 2023 lên khoảng 100,68 tỷ USD vào năm 2028, với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm dự kiến là 4%/năm.
  • 4. 03-2023 Các nhà xuất khẩu sợi cotton ở Gujarat đang nhận thấy nhu cầu mạnh mẽ từ Thổ Nhĩ Kỳ và Châu Âu C ác nhà xuất khẩu bông ở Gujarat đã nhận thấy nhu cầu về sợi từ Thổ Nhĩ Kỳ và Châu Âu tăng bất ngờ kể từ tháng Hai. Các chuyên gia thương mại tin rằng điều này là do trận động đất kinh hoàng ở Thổ Nhĩ Kỳ đã gây thiệt hại cho ngành kéo sợi của nước này, dẫn đến nhập khẩu bông của Ấn Độ cao hơn. Tương tự như vậy, châu Âu đang nhập khẩu bông từ Ấn Độ do xuất khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ đã ngừng lại. Tỷ trọng xuất khẩu bông của Ấn Độ tại các khu vực này đã tăng từ 15% lên 30% trong hai tháng qua. Ông Rahul Shah, đồng chủ tịch phụ trách Dệt may, Phòng Thương mại và Công nghiệp Gujarat (GCCI), cho biết: “Năm vừa qua rất khó khăn đối với ngành dệt may Ấn Độ khi giá bông của chúng tôi cao hơn giá quốc tế. Tuy nhiên, hiện tại giá bông của chúng tôi ngang bằng với giá quốc tế, và chúng tôi cũng đã có một vụ thu hoạch bội thu”. Ông nói thêm, “Chúng tôi đã nhận được các đơn đặt hàng sợi tốt từ Trung Quốc vào tháng 12 và tháng 1. Bây giờ, có nhu cầu đáng kể từ Thổ Nhĩ Kỳ và Châu Âu. Trận động đất đã phá hủy nhiều nhà máy kéo sợi ở Thổ Nhĩ Kỳ, vì vậy họ hiện đang mua sợi cotton từ Ấn Độ. Các nước châu Âu cũng đã đặt hàng với chúng tôi. Nhu cầu từ Thổ Nhĩ Kỳ và châu Âu chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu so với 15% trước đó.” Xuất khẩu sợi cotton từ Ấn Độ đã giảm 59% từ tháng 4/2022 đến tháng 1/2023 với xuất khẩu 1.186 triệu kg trong cùng kỳ năm trước xuống còn 485 triệu kg. Xuất khẩu sợi cotton giảm xuống 31 triệu kg trong tháng 10/2022 nhưng tăng lên 68 triệu kg trong tháng 1, cao nhất sau tháng 4/2022. Ông Jayesh Patel, Phó Chủ tịch Hiệp hội các nhà kéo sợi Gujarat (SAG), cho biết: “Các nhà máy kéo sợi trên toàn bang đang hoạt động với 100% công suất do nhu cầu ổn định. Hàng tồn kho trong chuỗi giá trị sẽ hết và và chúng tôi mong đợi nhu cầu tốt trong những ngày tới.” Ông nói thêm, “Giá sợi cotton đã giảm xuống còn 265 Rs/kg từ 275 Rs/kg. Tương tự, giá bông đã giảm xuống còn 60.500 Rs/candy (356 kg). Giá bông ổn định sẽ tạo ra nhu cầu tốt hơn.” Nguồn: Apparel Resources Ngọc Trâm biên dịch “Các nhà máy kéo sợi trên toàn bang đang hoạt động với 100% công suất do nhu cầu ổn định. Hàng tồn kho trong chuỗi giá trị sẽ hết và và chúng tôi mong đợi nhu cầu tốt trong những ngày tới.” Ông Jayesh Patel, Phó Chủ tịch Hiệp hội các nhà kéo sợi Gujarat (SAG)
  • 5. 03-2023 Sản lượng bông: xu hướng toàn cầu và nội địa C ấu trúc của thị trường bông toàn cầu sẽ không thay đổi đáng kể trong thập kỷ tới và vào năm 2031, khu vực Châu Phi cận Sahara sẽ vẫn là khu vực xuất khẩu bông thô lớn thứ ba, sau Hoa Kỳ và Brazil. Thương mại bông toàn cầu dự kiến sẽ tăng nhanh hơn một chút so với mức tiêu thụ chung, do nhu cầu ngày càng tăng ở các quốc gia không có sản lượng bông nội địa lớn, chẳng hạn như Bangladesh và Việt Nam, và việc tiêu thụ trong nước của các nhà máy đình trệ ở Brazil, nơi dự định tăng sản lượng hoàn toàn để xuất khẩu. Một số điều không chắc chắn có thể ảnh hưởng đến triển vọng. Chiến tranh Nga-Ukraine, sự xuất hiện của các biến thể COVID-19 mới và khả năng gián đoạn chuỗi cung ứng sau đó có thể làm thay đổi các dự báo trong vài năm đầu tiên. Ngoài ra, mức độ tăng lãi suất để kiểm soát lạm phát có thể làm thay đổi chi phí đi vay do đó, làm thay đổi các kế hoạch đầu tư trong lĩnh vực này. Nhìn chung, sự cạnh tranh mạnh mẽ từ sợi tổng hợp, đặc biệt là polyester, được dự đoán sẽ tiếp tục ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng nhu cầu bông trong giai đoạn dự báo. Tuy nhiên, với việc áp dụng ngày càng nhiều các tiêu chuẩn bền vững trong chuỗi cung ứng, sự gia tăng sở thích của người tiêu dùng đối với các sản phẩm bền vững hơn dự kiến sẽ bù đắp một phần áp lực giảm chung đối với tăng trưởng nhu cầu bông. Giống như các loại cây trồng khác, sản xuất bông dễ bị ảnh hưởng bởi sâu bệnh, điều kiện thời tiết và biến đổi khí hậu. Những thay đổi trong các chính sách và căng thẳng thương mại cũng là những nguyên nhân gây bất ổn cho thị trường bông. Tiêu thụ bông Tiêu thụ bông đề cập đến việc các nhà máy sử dụng xơ bông để sản xuất sợi. Việc tiêu thụ bông phụ thuộc vào nhu cầu toàn cầu đối với hàng dệt may và sự cạnh tranh từ các sản phẩm thay thế như polyester và các loại sợi tổng hợp khác. Trong vài thập kỷ qua, nhu cầu dệt may toàn cầu đã tăng lên đáng Giá bông tăng mạnh vào năm 2021, duy trì ở mức cao vào năm 2022, được hỗ trợ bởi mức tiêu thụ tăng và giá hàng hóa chung cao hơn. Tuy nhiên, trong giai đoạn đến năm 2031, năng suất tăng và sự cạnh tranh liên tục từ các sản phẩm sợi tổng hợp dự kiến sẽ điều chỉnh giá xuống, quay trở lại xu hướng giảm dài hạn về giá trị thực. Photo: Dr Jack
  • 6. 03-2023 kể khi dân số và thu nhập tăng lên. Tuy nhiên, hầu hết nhu cầu này đã được đáp ứng bằng sợi tổng hợp. Tiêu thụ sợi không phải bông bình quân đầu người đã vượt qua bông vào đầu những năm 1990 và tiếp tục tăng mạnh kể từ đó. Mặt khác, mức tiêu thụ sợi bông bình quân đầu người trên toàn cầu đã tăng nhẹ theo thời gian và đã giảm trong những năm gần đây. Sau khi đạt đỉnh gần 27 triệu tấn vào năm 2007, mức tiêu thụ bông toàn cầu đã giảm xuống còn khoảng 25 triệu tấn mỗi năm trong giai đoạn 2019-2021 do khả năng cạnh tranh so với polyester ngày càng giảm. Triển vọng tiêu thụ bông toàn cầu phụ thuộc vào sự phát triển ở các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi. Nhu cầu từ các khu vực đang phát triển với mức tiêu thụ tuyệt đối thấp hơn nhưng khả năng đáp ứng thu nhập cao hơn dự kiến sẽ gây áp lực lên nhu cầu bông toàn cầu khi thu nhập và dân số tăng ở các quốc gia này. Do đó, triển vọng này dự kiến mức tiêu thụ các sản phẩm bông toàn cầu sẽ tăng nhanh hơn một chút so với dân số thế giới trong thập kỷ tới. Tương ứng, tiêu thụ bông toàn cầu được dự đoán sẽ tăng với tốc độ hàng năm khoảng 1,6% trong thập kỷ tới. Sản xuất bông Bông được trồng ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới khô theo mùa ở cả Bắc và Nam bán cầu, mặc dù phần lớn sản lượng của thế giới nằm ở phía bắc đường xích đạo. Các nước sản xuất chính là Ấn Độ, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Brazil và Pakistan. Cùng với nhau, các quốc gia này chiếm hơn 3/4 sản lượng toàn cầu. Sản lượng bông toàn cầu dự kiến sẽ tăng 1,6% mỗi năm để đạt 30,6 triệu tấn vào năm 2031, cao hơn 17% so với năm 2022. Hầu hết tăng trưởng sản xuất trong thập kỷ tới dự kiến sẽ đến từ các nước sản xuất chính, trong đó Ấn Độ chiếm khoảng 25% tăng trưởng toàn cầu. Ở cấp độ toàn cầu, sản lượng bông tăng chủ yếu là do năng suất tăng, được dự đoán là tăng 14% so với giai đoạn gốc, phản ánh những cải tiến về gen và thực hành canh tác tốt hơn. Trong thập kỷ qua, năng suất toàn cầu vẫn trì trệ, do năng suất không đổi hoặc giảm đối với một số nhà sản xuất lớn (Hoa Kỳ, Pakistan, Ấn Độ), diện tích bông giảm ở Trung Quốc (nơi có năng suất cao hơn mức trung bình) và sự mở rộng của diện tích trồng bông ở Ấn Độ (nơi năng suất thấp hơn nhiều so với mức trung bình). Trong giai đoạn dự báo, diện tích trồng bông dự kiến sẽ tăng 3% so với giai đoạn gốc. Sản xuất ở Ấn Độ, nước sản xuất bông lớn nhất thế giới, dự kiến sẽ tăng khoảng 1,3% một năm trong giai đoạn dự báo, chủ yếu là do năng suất cao hơn thay vì mở rộng diện tích, do bông đang cạnh tranh với các loại cây trồng khác. Năng suất bông thô ở Ấn Độ vẫn trì trệ trong những năm gần đây và thuộc hàng thấp nhất trên toàn cầu do người trồng bông phải vật lộn với điều kiện thời tiết bất lợi, sâu bệnh. Hơn nữa, hầu hết bông được trồng ở các trang trại nhỏ, điều này hạn chế việc áp dụng các công nghệ nông nghiệp thâm canh. Tuy nhiên, nhu cầu ngày càng tăng từ ngành may mặc Ấn Độ tiếp tục kích thích đầu tư vào ngành và những triển vọng này dựa trên giả định về năng suất tăng phản ánh việc tăng cường sử dụng cơ giới hóa thông minh, phát triển giống và thực hành nhân giống, quản lý dịch hại. Tuy nhiên, biến đổi khí hậu, với hầu hết bông được trồng trong điều kiện trời mưa, có thể làm giảm tiềm năng tăng trưởng năng suất. Các nhà sản xuất bông Trung Quốc hiện đang đạt năng suất cao hơn gấp đôi mức trung bình của thế giới. Tăng trưởng năng suất dự kiến sẽ chậm lại ở mức 0,6% mỗi năm do khó cải thiện hơn nữa. Mặc dù diện tích trồng bông của Trung Quốc đã giảm trong hai thập kỷ qua, phần lớn là do những thay đổi chính sách của chính phủ, nhưng xu hướng này dường như đã chậm lại kể từ năm 2016. Diện tích trồng bông của Trung Quốc dự kiến sẽ giảm 0,3% mỗi năm. Ở Brazil, bông được trồng một phần như vụ thứ hai luân canh với đậu tương hoặc ngô, và sản lượng gần đây đã tăng mạnh ở các vùng trồng chính, chẳng hạn như Mato Grosso. Ở Brazil, năng suất và diện tích bông đã tăng lên trong những năm gần đây do điều kiện trồng trọt thuận lợi và tỷ lệ áp dụng công nghệ hiện đại cao. Do những yếu tố này, sản xuất của Brazil dự kiến sẽ tăng trưởng với tốc độ cao hàng năm là 6%. Thương mại bông Bông chủ yếu được giao dịch ở dạng kiện bông thô. Thương mại bông toàn cầu dự kiến sẽ mở rộng đều đặn trong thập kỷ tới, đạt 12,4 triệu tấn vào năm 2031, cao hơn 27% so với giai đoạn gốc. Sự gia tăng này phản ánh sự gia tăng đáng kể trong việc tiêu thụ bông ở các nước châu Á, đặc biệt là Việt Nam và Bangladesh, những nước dựa vào nhập khẩu hầu như toàn bộ bông.
  • 7. 03-2023 Đến năm 2031, nhập khẩu vào Trung Quốc dự kiến sẽ cao hơn 8% so với hiện nay, và ở Bangladesh và Việt Nam sẽ tăng 60%, phù hợp với mức tăng tiêu thụ của nhà máy. Ba quốc gia này sẽ chiếm hơn một nửa lượng bông nhập khẩu toàn cầu, trong đó Bangladesh là nhà nhập khẩu bông thô hàng đầu thế giới. Hoa Kỳ sẽ vẫn là nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới trong suốt giai đoạn triển vọng. Xuất khẩu của nước này đã ổn định trong những năm gần đây, phục hồi từ mức thấp của năm 2016 và dự kiến chiếm 31% thương mại toàn cầu vào năm 2031, so với 34% trong giai đoạn gốc. Căng thẳng thương mại gần đây giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc đã gây áp lực lên các lô hàng bông giữa hai nước. Với giả định về quan hệ thương mại tốt hơn trong tương lai, Hoa Kỳ sẽ lấy lại thị phần nhập khẩu bông của Trung Quốc. Xuất khẩu của Brazil dự kiến sẽ tăng trưởng mạnh trong thập kỷ tới, củng cố vị trí là nước xuất khẩu lớn thứ hai vào năm 2031. Ấn Độ sẽ theo sau ở vị trí thứ ba với các lô hàng dự kiến đạt 1,3 triệu tấn vào năm 2031. Bông là cây trồng xuất khẩu quan trọng của vùng cận Saharan châu Phi, hiện chiếm 16% xuất khẩu toàn cầu. Sản xuất bông trong khu vực đã tăng lên trong vài năm qua, do diện tích tăng và năng suất được cải thiện. Tuy nhiên, tiêu thụ tại các nhà máy kéo sợi vẫn còn hạn chế do nhiều quốc gia xuất khẩu phần lớn sản lượng của họ. Xuất khẩu của Châu Phi cận Sahara được dự đoán sẽ tiếp tục tăng với tốc độ hàng năm khoảng 1,7% trong thập kỷ tới, với Nam và Đông Nam Á là điểm đến xuất khẩu chính. Tuy nhiên, ngành dệt may cũng đang phát triển ở một số quốc gia khác, đặc biệt là ở Ethiopia. Nguồn: Farmer’s Weekly Ngọc Trâm biên dịch S ự chuyển hướng tiêu dùng sang viscose là do giá bông đạt mức kỷ lục vào tháng 4 năm 2022. Trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 11 năm 2022, nhập khẩu viscose của Ấn Độ đạt 221,348 triệu USD, tăng hơn 50% cả về giá trị và khối lượng so với cùng kỳ năm 2021. Năm 2021, nhập khẩu viscose của Ấn Độ đạt mức cao mới là 135,116 triệu USD, tăng từ 86,252 triệu USD năm 2020, cho thấy sự phục hồi sau sự sụt giảm của đại dịch. Nhập khẩu xơ viscose từ Indonesia chiếm tỷ trọng cao nhất 29,57%, tiếp theo là Áo 17,17%, Hồng Kông 15,62%, Trung Quốc 10,68% và Singapore 10,02%. Xu hướng này là một dấu hiệu rõ ràng rằng ngành dệt may Ấn Độ đang chuyển hướng sang các loại sợi thay thế để đáp ứng với giá bông tăng. Sẽ rất thú vị để xem xu hướng này tiếp tục như thế nào trong những năm tới và tác động của nó đối với ngành dệt may ở Ấn Độ. Nguồn: Fashionating World Ngọc Trâm biên dịch Nhập khẩu VSF của Ấn Độ tăng vì giá bông đạt mức cao kỷ lục trong năm 2022 Nhập khẩu VSF của Ấn Độ đã tăng lên trong những năm gần đây, với mức tăng đáng kể được ghi nhận trong 11 tháng đầu năm 2022.
  • 8. 03-2023 T heo trang mạng abc.net. au, vụ thu hoạch bông của Australia đã bắt đầu, giữa bối cảnh ngành này đang nỗ lực tìm kiếm các thị trường xuất khẩu thay thế sau hai năm rưỡi kể từ lệnh cấm thương mại của Trung Quốc. Hiện tại, bông trồng ở Australia được xuất khẩu đến 15 quốc gia khác nhau để chế biến, trong đó có Việt Nam, Indonesia, Thái Lan và Ấn Độ. Trước đây, Trung Quốc là thị trường tiêu thụ lớn nhất của bông Australia. Tuy nhiên, sau những tranh cãi giữa Australia và Trung Quốc hồi năm 2020 - khi các nhà xuất khẩu Australia bị áp thuế - ngành công nghiệp này của Australia bắt đầu nỗ lực xây dựng mối quan hệ bền chặt hơn với các quốc gia khác. Giờ đây, các thương nhân trong ngành sản xuất bông đang tìm đến ngành dệt may Việt Nam để đảm bảo thương mại trong tương lai. Hiệp hội các chủ hàng bông Australia (ACSA), đại diện cho các thương nhân bông, gần đây đã cử một phái đoàn đến Việt Nam và Thái Lan. Chủ tịch ACSA Matthew Bradd cho biết: “Mục đích của việc tới hai quốc gia này là để quảng bá bông Australia, các thuộc tính của chúng tôi, khả năng vận chuyển nhanh chóng của chúng tôi”. Vị trí gần các thị trường châu Á mang lại cho Australia lợi thế cạnh tranh so với các nhà xuất khẩu bông hàng đầu khác như Mỹ và Brazil. Ông Bradd nói: “Bạn có thể chuyển hàng đến Việt Nam trong khoảng 21 ngày, trong khi đến Mỹ và Brazil lâu hơn nhiều”. ACSA đang xem xét các lựa chọn để quảng bá bông Australia theo nhiều cách khác nhau, trong đó có việc trưng bày quần áo làm từ bông Australia tại Tuần lễ Thời trang Quốc tế Việt Nam. Ông Bradd cho biết ACSA đang làm việc với các nhà kéo sợi Việt Nam để tận dụng tối đa việc kéo sợi và nhuộm sợi bông của Australia. Ông cũng cho hay bông của Australia chủ yếu được tưới tiêu, nên có chất xơ phù hợp để chế biến hơn. Ông Bradd nói: “Các nhà máy kéo sợi nhận thấy bông Australia hiệu quả hơn khi đưa vào quy trình kéo sợi. Họ sẽ thu được nhiều sản lượng hơn từ việc sử dụng bông Australia”. Năm nay, miền Trung “Bến đỗ mới” của bông Australia Vụ thu hoạch bông của Australia đã bắt đầu, giữa bối cảnh ngành này đang nỗ lực tìm kiếm các thị trường xuất khẩu thay thế sau hai năm rưỡi kể từ lệnh cấm thương mại của Trung Quốc. Ảnh: AFP
  • 9. 03-2023 Queensland là nơi thu hoạch đầu tiên, với những người hái bông bắt đầu tại các cánh đồng được tưới tiêu trên khắp khu vực. Kim Stevens, cán bộ khuyến nông của Cotton Info, cho biết mưa đầu năm nay đã gây ra vấn đề rụng trái nên người trồng đang đợi bông ra nhiều hơn để thu hoạch. Bà Kim Stevens nói: “Thông thường, việc chọn hàng diễn ra khá suôn sẻ, nhưng chúng tôi chỉ thấy một số lượng nhỏ những người chọn hàng bắt đầu hoạt động trong vài tuần qua. Có lẽ việc thu hoạch sẽ không thực sự bận rộn cho đến tháng Năm hoặc tháng Sáu”. Ngay cả khi thời tiết ẩm ướt gây ra các vấn đề, một vụ mùa bội thu khác vẫn được cho là có khả năng diễn ra. Adam Kay - Giám đốc điều hành Cotton Australia - cho biết có khoảng 5,2 triệu kiện hàng dự kiến sẽ được sản xuất trong mùa này. Năm ngoái, những người trồng bông ở Australia đã sản xuất mức kỷ lục là 5,5 triệu kiện. Theo một hiệp định thương mại tự do gần đây, Australia có thể gửi bông miễn thuế đến Ấn Độ. Mặc dù Ấn Độ là nhà sản xuất bông lớn thứ hai thế giới, song quốc gia Nam Á này lại là điểm đến xuất khẩu lớn thứ ba của Australia, với hạn ngạch hiện tại là 300.000 kiện. Ông Bradd nói: “Chúng tôi đã coi họ là một thị trường cơ hội. Họ đã có vụ mùa của riêng mình ở đó. Họ là một trong những nước trồng bông lớn nhất thế giới [nhưng] đôi khi họ sẽ cần nhập khẩu. Hiệp định thương mại tự do là tốt, giúp chúng tôi vượt lên trên các thị trường khác”. Ông Kay cho biết việc mất đi thị trường Trung Quốc đã buộc ngành này phải suy nghĩ lại về chiến lược của mình: “Trung Quốc chiếm 70% thị trường của chúng tôi. Lệnh cấm thương mại cho chúng tôi thấy thị trường của mình chưa đủ đa dạng. Ngay cả khi Trung Quốc quay trở lại thị trường, hy vọng chúng tôi vẫn có thể duy trì tất cả các thị trường hiện có. Điều quan trọng là phải có những lựa chọn đó. Tuy nhiên, mất thị trường Trung Quốc đồng nghĩa với việc mất giá cao”. Ông Bradd nói: “Hiện tại, chúng tôi đang chứng kiến sự quay trở lại của loại bông này khi các nhà máy và thị trường khác biết đến bông Australia và sẵn sàng trả nhiều tiền hơn để mua”. Ngành công nghiệp bông đang hoạt động theo cách người nông dân bán nó cho các thương nhân, sau đó những thương nhân này bán nó cho các nhà máy kéo sợi, những nhà máy này sẽ tìm kiếm mức giá cao nhất. Cấu trúc hoạt động này có thể dẫn đến việc Trung Quốc tiếp tục trở thành thị trường xuất khẩu lớn của bông Australia nếu lệnh cấm được dỡ bỏ. Tuy nhiên, ông Bradd cho biết, vẫn có cơ hội để duy trì sự đa dạng thị trường bông. Ông nói: “Có thể đã có sự thay đổi trong một số chuỗi cung ứng khi mà các thương hiệu và nhà bán lẻ đang tìm cách đa dạng hóa chuỗi cung ứng của họ... Chúng tôi cũng có rất nhiều nhà máy đang tìm mua 100% bông Australia”./. Nguồn: BNEWS
  • 10. 03-2023 Indonesia hy vọng Ấn Độ sẽ xem xét lại kế hoạch áp thuế nhập khẩu chống bán phá giá đối với VSF của Indonesia I ndonesia sẵn sàng đàm phán một hiệp định thương mại tập trung vào lợi ích của Indonesia và của Ấn Độ. Bộ trưởng Thương mại Indonesia Zulkifli Hasan và Bộ trưởng Thương mại và Công nghiệp Ấn Độ Piyush Goyal đã có cuộc gặp tại New Delhi. Ông Zulkifli Hasan bày tỏ kỳ vọng rằng Indonesia và Ấn Độ có thể ngay lập tức bắt đầu đàm phán Hiệp định Thương mại Ưu đãi song phương (PTA) đang được xem xét từ năm 2020. Ông tin rằng PTA có thể tối ưu hóa tiềm năng kinh tế của hai nước. Indonesia sẵn sàng đàm phán một hiệp định thương mại tập trung vào lợi ích của cả hai nước. Trong cuộc gặp, ông cũng bày tỏ hy vọng chính phủ Ấn Độ xem xét lại kế hoạch áp thuế nhập khẩu chống bán phá giá đối với sản phẩm xơ VSF của Indonesia, vốn là nguyên liệu phụ trợ cho ngành dệt may Ấn Độ. Ông cũng lưu ý thêm rằng, một trong những nhà sản xuất VSF lớn nhất của Indonesia quan tâm đến việc đầu tư vào Ấn Độ để phát triển các sản phẩm sợi lyocell thân thiện với môi trường với chất lượng tốt hơn. Khoản đầu tư này dự kiến sẽ giúp Indonesia đóng góp vào việc sản xuất hàng dệt may chất lượng cao ở Ấn Độ. Hai bộ trưởng cũng thảo luận về việc tăng cường hợp tác song phương trong nhiều lĩnh vực, trong đó có dệt may. Họ cũng thảo luận về một số vấn đề cản trở nỗ lực tăng cường thương mại song phương, bao gồm xuất khẩu các sản phẩm xơ sợi và lốp xe của Indonesia sang Ấn Độ. Nguồn: CCFGroup Ngọc Trâm biên dịch Một trong những nhà sản xuất VSF lớn nhất của Indonesia quan tâm đến việc đầu tư vào Ấn Độ để phát triển các sản phẩm sợi lyocell thân thiện với môi trường với chất lượng tốt hơn.
  • 11. Ltd được thành lập tại Liverpool, Vương Quốc Anh từ năm 1993. Cho đến nay, có hơn 20 công ty con đã được thành lập toàn cầu và việc mở rộng mạng lưới vẫn đang được tiếp diễn. Hiện tại WIS đang hoạt động tại hơn 60 quốc gia và trở thành công ty dẫn đầu về ngành giám định bông thô trên toàn thế giới. Qua hơn 20 năm cung cấp dịch vụ giám định tại thị trường Việt Nam, chúng tôi sung sướng thông báo rằng WIS có thể cung cấp dịch vụ kiểm nghiệm bông thô tại phòng thí nghiệm HVI vừa được thành lập tại TP. Hồ Chì Minh. Tại sao chọn WIS?  Wakefield Inspection Services là công ty giám định dẫn đầu và được quốc tế công nhận.  Có truyền thông lưu giữ nhân viên, giúp việc liên lạc với khách hàng của mình luôn thông suốt.  Có đội ngũ nhân viên dày dạn kinh nghiệm.  Duy trì việc đào tạo không ngừng.  Cung cấp dịch vụ đúng nhu cầu của khách hàng, theo từng yêu cầu cụ thể.  Có mạng lưới toàn cầu thông qua đội ngũ nhân viên địa phương.  Có mạng lưới hỗ trợ toàn cầu. Để biết thêm thông tin về các dịch vụ WIS hiện đang cung cấp, vui lòng liên lạc với chúng tôi qua email: [email protected] / [email protected] Wakefield Inspection Services Ltd was established in Liverpool, England in 1993. Since WIS’ formation - over twenty Group Companies have been established worldwide and this expansion continues today, WIS currently operates in over 60 countries becoming the leading company in the inspection of raw cotton fibre. Now having worked in Vietnam for the last 20 years WIS is pleased that they can offer the HVI testing of cotton in our testing laboratory in Ho Chi Minh Why Wakefield?  Wakefield Inspection is an internationally recognised, and industry leading inspection company  Staff retention, enabling a continuity of communication with our clients  Providing staff with significant hands on experience  Ongoing Training  Customised services, tailored to your needs  Global coverage via local, on the ground, staff  A Group wide support network For more information on what WIS can do for you, please contact: [email protected] / [email protected]
  • 12. – Outstanding Efficiency with up to 26 000 RPM Rieter Trade Press Article: Jayajothi – COMPACTdrum, February 2023 About Rieter Rieter is the world’s leading supplier of systems for manufacturing yarn from staple fibers in spinning mills. Based in Winterthur (Switzerland), the company develops and manufactures machinery, systems and components used to convert natural and man-made fibers and their blends into yarns in the most cost-efficient manner. Cutting-edge spinning technology from Rieter contributes to sustainability in the textile value chain by minimizing the use of resources. Rieter has been in business for more than 225 years, has 18 production locations in ten countries and employs a global workforce of around 5 630, about 16.4% of whom are based in Switzerland. Rieter is listed on the SIX Swiss Exchange under ticker symbol RIEN. www.rieter.com Rieter Management AG Klosterstrasse 32 P.O. Box CH-8406 Winterthur T +41 52 208 71 71 F +41 52 208 70 60 www.rieter.com For further information, please contact: Rieter Management AG Media Relations Relindis Wieser Head Group Communication T +41 52 208 70 45 F +41 52 208 70 60 [email protected] www.rieter.com Sri Jayajothi and Company Private Ltd., a quality yarn spinner from South India, produces cotton and synthetic yarns with a daily production capacity of 55 tons. Jayajothi invests in the latest technology to be able to produce at highest speed without compromising on quality. To help meet the growing market demand, the company opted for the Rieter ring spinning machine G 37 with the semi- electronic drafting system together with the compacting device COMPACTdrum. The Rieter ring spinning machine G 37 with the compacting device COMPACTdrum runs with excellent spinning stability and ensures highest productivity (Fig. 1). Jayajothi operates the machines at a maximum spindle speed of 26 000 rpm producing a very fine yarn (Ne 60) from 100% cotton with 100 grams per spindle (GPS). This is far above the industry benchmark. The energy efficient components such as the 75 kW IE4 main motor, the LENA spindles and the optimized suction systems reduce the energy consumption by up to 7% compared to the previous model. Best performance in downstream processes with COMPACTdrum The compacting device COMPACTdrum reduces long protruding fibers of the yarn to an absolute minimum which increases the acceptance in downstream processing. This enables Jayajothi to supply highly demanding customers in the global market. The yarn produced with this Rieter solution achieves the best performance in downstream processes: virtually no other system can spin a yarn that reaches a value below 0.20 warping breaks per million meters. The durable technology components of COMPACTdrum ensure that the yarn quality remains consistently high over the long term. In addition, the unique SERVOgrip system eliminates the need to underwind the yarn for doffing preparation. This reduces fiber fly and ensures high yarn quality. K Gokul, Managing Director at Sri Jayajothi, summarizes: “We are very satisfied with the performance of the ring spinning machine G 37 with the compacting device COMPACTdrum. The machine runs at an exceptionally high spindle speed of 26 000 rpm and produces consistently high yarn quality.” (Fig. 2) Highest flexibility for constantly changing trends The G 37 with COMPACTdrum is hard to beat in terms of flexibility. Parameters such as yarn twist or twist direction can quickly be adjusted on the machine display. The compacting device COMPACTdrum can easily be plugged in or out so customers can switch between ring and compact yarn. The machine processes almost any type of fiber and can be easily and quickly adjusted to almost any raw material. With Rieter machinery, Jayajothi can respond to various market requirements: flexibility for constantly changing trends, better running behavior in downstream processes, better fabric appearance and a diversified, high quality product portfolio. Fig. 1: COMPACTdrum reduces the long fibers protruding from the yarn to an absolute minimum. PP-ID: 97817 Fig. 2: M Gokul, Managing Director at Sri Jayajothi, is very satisfied with the performance of the G 37 with COMPACTdrum. PP-ID: 97821
  • 13. 03-2023
  • 14. 03-2023 TÌNH HÌNH SẢN XUẤT -
  • 15. 03-2023 CƠ CHẾ - CHÍNH SÁCH
  • 16. 03-2023
  • 17. 03-2023 Dự thảo mới Luật BHXH: Tất cả người lao động sắp có cơ hội nhận lương hưu cao hơn? M ới đây, Bộ Lao động Thương binh Xã hội mới công bố dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội. Hiện Dự thảo đang được lấy ý kiến, dự kiến được thông qua vào giữa năm 2024. Đáng chú ý, trong nội dung dự thảo, Bộ này đã đưa ra 2 phương án về mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) đối với người lao động đang làm việc theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định. Cụ thể, ở phương án 1, đối với người lao động đóng BHXH theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định, tiền lương làm căn cứ đóng BHXH là tiền lương tháng bao gồm mức lương và phụ cấp lương, các khoản bổ sung khác xác định được mức tiền cụ thể cùng với mức lương thoả thuận trong hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật lao động. Nghĩa là: Tiền lương làm căn cứ đóng BHXH = Mức lương + Phụ cấp lương + các khoản bổ sung khác (xác định được mức tiền cụ thể cùng với mức lương thỏa thuận trong hợp đồng lao động). Cũng với đối tượng người lao động đóng BHXH theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định, ở phương án 2, tiền lương làm căn cứ đóng BHXH là tiền lương tháng bao gồm mức lương và phụ cấp lương, các khoản bổ sung khác theo quy định của pháp luật lao động. Nghĩa là: Tiền lương làm căn cứ đóng BHXH = Mức lương + Phụ cấp lương + các khoản bổ sung khác theo quy định của pháp luật lao động. Cùng với đó, dự thảo quy định tiền lương làm căn cứ đóng BHXH không bao gồm tiền thưởng, các khoản hỗ trợ và trợ cấp khác mà không liên quan đến thực hiện công việc hoặc chức danh trong hợp đồng lao động. Hai phương án đề xuất có gì khác so với quy định hiện hành? Trong khi đó, theo quy định hiện hành tại Nghị định 115/2015/NĐ-CP, hướng dẫn khoản 2 Điều 89 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, từ ngày 1/1/20218 trở đi, tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội là mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác theo quy định của pháp luật về lao động ghi trong hợp đồng lao động. Có thể thấy, phương án 1 cho thấy đề xuất về mức lương đóng BHXH vẫn được giữ nguyên như hiện nay (các khoản được xác định trong hợp đồng lao động). Tuy nhiên, phương án 2 đã có sự khác biệt khi nêu đây là các khoản theo quy định của pháp luật lao động. Tức là, theo phương án 2, tiền được tính đóng bao gồm cả khoản xác định được trước (nêu trong hợp đồng lao động) lẫn biến động trong quá trình làm việc của người lao động. Như vậy, nếu phương án này được lựa chọn và áp dụng, mức lương đóng BHXH của người lao động sẽ tăng lên so với hiện nay. Dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội cũng quy định, tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc thấp nhất bằng 2.000.000 đồng và cao nhất 36.000.000 đồng (mức này có thể sẽ được điều chỉnh theo chỉ số giá tiêu dùng và tăng trưởng kinh tế). Mức lương hưu tăng do mức lương đóng BHXH tăng Dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội vẫn giữ nguyên cách thức tính lương hưu như Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành. Cụ thể, mức lương hưu được tính dựa vào mức lương bình quân tháng đóng bảo hiểm xã hội và thời gian tham gia bảo hiểm xã hội. Như vậy, nếu như phương án 2 được lựa chọn và thông qua, đồng nghĩa với việc mức lương đóng BHXH của người lao động tại các doanh nghiệp sẽ tăng cao hơn so với hiện nay, khiến cho mức lương hưu thực tế của người lao động sau này cũng sẽ tăng lên. Mặtkhác,thờigianthamgiabảohiểmxãhội–tiêuchí còn lại để tính lương hưu của người lao động cũng được điều chỉnh theo dự thảo Luật này. Theo đó, luật đã rút ngắn thời gian tham gia BHXH để hưởng lương hưu từ 20 năm xuống còn 15 năm. Nguồn: Tổ quốc
  • 18. 03-2023 T rong bối cảnh kinh tế thế giới đang đối mặt với nguy cơ suy thoái, sự thay đổi về hình dạng của kinh tế châu Á được cho là sẽ mang lại triển vọng tăng trưởng dài hạn, nhờ cơ cấu người tiêu dùng mới và các cơ hội trong lĩnh vực dịch vụ. Mặc dù các ước tính khác khác nhau về số lượng, nhưng tất cả đều thống nhất rằng châu Á đang là “cái nôi” của tăng trưởng. Sự lạc quan trên diện rộng này chủ yếu đến từ hai xu hướng đã tồn tại trong dài hạn. Đầu tiên là thói quen quản lý tài khóa thận trọng kể từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á hồi cuối những năm 1990 đã giúp hầu hết các nền kinh tế châu lục thoát khỏi đại dịch COVID-19 với rất ít “vết sẹo”. Thứ hai, nền kinh tế nội khối của châu Á đang trải qua một sự thay đổi lịch sử, trong đó phụ thuộc rất ít vào “sức khỏe” của các nền kinh tế phương Tây. Các nỗ lực quản lý kinh tế tốt hơn chủ yếu nhắm vào việc giải quyết các điểm yếu tiềm ẩn, bao gồm tăng cường dự trữ ngoại hối, kiểm soát lạm phát và đảm bảo rằng các nền kinh tế khu vực không “vấp ngã” trước một môi trường lãi suất và tỷ giá hối đoái tiêu cực. Ít được chú ý hơn nhưng không kém phần quan trọng là nỗ lực của các tổ chức như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và tác động tích cực của các hiệp định như Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) và Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Những hiệp định này đã giúp tối ưu hóa tiềm năng tăng trưởng lâu dài của khu vực bằng cách gỡ bỏ các rào cản thương mại, khiến khu vực trở nên hấp dẫn hơn khi thu hút vốn đầu tư. Bên cạnh đó, các hiệp định cũng làm khuếch đại và củng cố một sự thay đổi cơ cấu sâu sắc trong nền kinh tế khu vực. Trong nhiều năm, phần lớn các nước đang phát triển ở phía Đông và Đông Nam Á đã tận dụng chi phí lao động thấp để khai thác tăng trưởng dựa vào xuất khẩu, đặc biệt là Trung Quốc và các nền kinh tế được gọi là “con hổ”. Điều này tạo ra sự chuyển đổi kinh tế nhanh nhất và sâu sắc nhất trong lịch sử. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người ở khu vực Đông Á và Thái Bình Dương đã tăng từ Nhu cầu từ châu Á sẽ quyết định tương lai kinh tế toàn cầu Trong dự báo mới nhất của mình, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã nâng ước tính tăng trưởng của các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi ở châu Á từ mức 4,9% lên 5,3% trong năm 2023, cao hơn gấp ba lần tốc độ tăng trưởng dự kiến của Mỹ và gấp 7 lần tốc độ tăng trưởng của Khu vực sử dụng đồng euro (Eurozone). Cảng hàng hóa ở tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Ảnh: AFP/TTXVN
  • 19. 03-2023 3.250 USD/người hồi năm 1990 lên 20.300 USD/người vào năm 2021, trong khi dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng từ 34 tỷ USD lên 741 tỷ USD. Hàng trăm triệu người đã có cơ hội làm việc để thoát nghèo. Trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, người lao động đã có được thu nhập khả dụng và tham gia vào tầng lớp tiêu dùng. Viện nghiên cứu chính sách Brookings (Mỹ) ước tính số lượng người tiêu dùng ở châu Á sẽ tăng từ mức 560 triệu người của năm 2000 lên khoảng 3 tỷ người, tương đương 70% dân số khu vực, đến năm 2030, trong khi công ty tư vấn McKinsey Co. dự đoán châu Á sẽ đóng góp hơn một nửa lượng tiêu thụ toàn cầu đến lúc đó. Tầng lớp tiêu dùng mới này đang tiêu thụ hàng hóa do châu Á sản xuất, được thể hiện qua các số liệu cho thấy thương mại nội khối đã tăng 50% trong giai đoạn 2019-2022, theo tập đoàn vận tải biển Maersk. Đây là điều khiến nhiều nhà đầu tư quốc tế chú ý. Vì thế, thay vì đổ tiền vào sản xuất ở châu Á để xuất khẩu, đầu tư quốc tế đang ngày càng chú trọng vào việc sản xuất tại châu Á cho châu Á. Ở châu Á, có nhiều cơ hội cho các công ty phương Tây. Một loạt ngành công nghiệp bao gồm các nhà sản xuất ô tô, nhà sản xuất máy công cụ và các nhà bán lẻ xa xỉ đang dựa vào châu Á để thực hiện phần lớn hoạt động kinh doanh mới của họ. Những lĩnh vực này được cho là sẽ tiếp tục phát triển, miễn là lợi thế cạnh tranh vẫn tồn tại. Triển vọng tăng trưởng thú vị nhất nằm trong các ngành dịch vụ chuyên nghiệp, đặc biệt là những ngành liên quan đến kỹ thuật số toàn cầu có thể tận dụng sự tăng trưởng bùng nổ trong cộng đồng tiêu dùng trực tuyến của châu Á. Các ước tính mới nhất của Liên hợp quốc (LHQ) cho thấy nhập khẩu dịch vụ thương mại của châu Á đã tăng 9,2% trong năm 2022 và được dự đoán sẽ tăng thêm 5% trong năm 2023. Với việc tầng lớp trung lưu toàn cầu luôn hướng đến các dịch vụ như giáo dục, giải trí, du lịch hay dịch vụ chuyên nghiệp như kế toán, luật và kiến trúc, lĩnh vực dịch vụ được cho là sẽ còn nhiều tiềm năng tăng trưởng. Trong đó, có những cơ hội đặc biệt cho ngành dịch vụ tài chính, ví dụ như dịch vụ quản lý tài sản của tầng lớp người tiêu dùng mới ở châu Á. Một báo cáo của tập đoàn tư vấn Boston được thực hiện vào năm ngoái ước tính châu Á sẽ tạo ra lượng tài sản mới lên đến 22.000 tỷ USD trong giai đoạn 2020-2025 nếu có sự cải thiện trong cách quản lý tài chính. Đồng thời, tăng trưởng của khu vực châu Á cùng các đối tác thương mại có thể được nâng cao bằng cách tạo thuận lợi cho thương mại và mở rộng khả năng tiếp cận những sản phẩm tài chính hỗ trợ việc mở rộng và quản lý rủi ro. Sự gia tăng của tầng lớp tiêu dùng châu Á chắc chắn đang làm nghiêng cán cân ảnh hưởng kinh tế về phía Đông. Khu vực này không chỉ trở nên ít bị tổn thương hơn trước các cú sốc kinh tế bên ngoài, mà còn đang tiến gần tới điểm cân bằng giữa vai trò của kinh tế toàn cầu đối với châu Á và ngược lại. Do vậy, sẽ là phù hợp khi nói rằng thành công của châu Á chủ yếu dựa trên việc cung cấp cho thế giới, trong khi tương lai của thế giới lại phụ thuộc vào sức mạnh nhu cầu ở châu Á./. Nguồn: BNEWS
  • 20. 03-2023 Hơn 11 tỷ USD từ Mỹ đã rót vào Việt Nam: Lĩnh vực nào được đầu tư nhiều nhất? Mới đây, phái đoàn gồm 52 doanh nghiệp Mỹ sang Việt Nam để thảo luận về các cơ hội đầu tư và kinh doanh. Tính đến nay, các nhà đầu tư Mỹ đã đầu tư hơn 11 tỷ USD vào Việt Nam. T rong số các doanh nghiệp Mỹ tham gia chuyến thăm lần này tới Việt Nam, có nhiều tên tuổi quen thuộc, đang hoạt động kinh doanh hoặc sản xuất tại Việt Nam và có kế hoạch mở rộng như Apple, Coca-Cola và PepsiCo, Netflix... Ngoài ra, SpaceX cũng cho biết đang tìm kiếm thị trường dịch vụ Internet vệ tinh tại Việt Nam và các nước trong khu vực. Tham gia chương trình của Hội đồng Kinh doanh Mỹ - ASEAN còn có các công ty sản xuất chất bán dẫn, các hãng dược phẩm Pfizer và Johnson Johnson, nhà sản xuất thiết bị y tế Abbott, Công ty Tài chính Visa, Ngân hàng Citibank, các hãng công nghệ điện toán đám mây Meta và Amazon Web Services. Hai lĩnh vực mà phái đoàn sẽ tập trung thảo luận với các đối tác Việt Nam. Thứ nhất là chuyển đổi năng lượng, để Việt nam đạt mục tiêu phát thải bằng 0 vào năm 2050. Thứ hai là chuyển đổi số, đây là điều đang diễn ra và sẽ đưa Việt Nam ở vào một vị thế mới trong cuộc cạnh tranh số. Trong nhiều năm qua, Mỹ liên tục rót tiền đầu tư vào Việt Nam. Trong năm 2022, Mỹ đầu tư vào Việt Nam khoảng 748,17 triệu USD với 91 dự án cấp mới, xếp thứ 8 trong tổng số các quốc gia đầu tư vào Việt Nam. Tính đến 20/2/2023, lũy kế tổng vốn đầu tư từ Mỹ vào Việt Nam đạt 11,42 tỷ USD với tổng 1.223 dự án. Với số vốn này, Mỹ hiện xếp thứ 11 trong danh sách các quốc gia đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam. Tính theo ngành, lĩnh vực, các nhà đầu tư Mỹ đầu tư tập trung chủ yếu vào lĩnh vực: Dịch vụ lưu trú và ăn uống chiếm 43,1% tổng vốn đầu tư và lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 32% tổng vốn đầu tư; tiếp theo là cấp nước và xử lý chất thải, vận tải kho bãi chiếm lần lượt 5,1% và 3,9% tổng vốn đầu tư. Như vậy, ngành dịch vụ lưu trú, ăn uống là lĩnh vực hiện được Mỹ đầu tư nhiều nhất tại Việt Nam, khoảng 3,65 tỷ USD. Mặc dù, trong giai đoạn đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, tuy nhiên nhiều tập đoàn, doanh nghiệp lớn của Mỹ vẫn duy trì hoạt động và tìm kiếm cơ hội đầu tư mới tại Việt Nam. Trong năm 2022, nhiều tập đoàn lớn của Mỹ đã tăng đầu tư vào Việt Nam. Điển hình như Tập đoàn Quantum (Mỹ) và Công ty cổ phần BB Group (Tập đoàn BBG, Việt Nam) đã ký thỏa thuận với tỉnh Quảng Trị về việc nghiên cứu, hợp tác đầu tư hai dự án quy mô lớn tại Khu kinh tế Đông Nam Quảng Trị.
  • 21. 03-2023 Cùng với đó, 2 doanh nghiệp lớn khác của Mỹ là Exxon Mobil và Milennium cũng đề xuất các kế hoạch đầu tư hàng tỷ USD vào các dự án điện khí tại Việt Nam... Ngoài ra, các doanh nghiệp Mỹ đang ưu tiên đầu tư tập trung vào một số lĩnh vực nhất định tại Việt Nam. Tại Hội nghị Thượng đỉnh Việt – Mỹ diễn ra vào tháng 3/2022, bà Marisa Lago - Thứ trưởng Thương mại phụ trách thương mại quốc tế Mỹ chia sẻ rằng, y tế, thương mại số, năng lượng và biến đổi khí hậu sẽ là 3 lĩnh vực được phía doanh nghiệp Mỹ ưu tiên hợp tác với Việt Nam trong năm 2022. Trên thực tế, FDI của Mỹ chủ yếu tập trung tại các tỉnh, thành phố lớn, có điều kiện cơ sở hạ tầng tương đối thuận lợi. Theo Bộ kế hoạch và Đầu tư, các tỉnh, thành nhận vốn đầu tư từ Mỹ nhiều nhất gồm: Bà Rịa – Vũng Tàu (45,8%), thành phố Hồ Chí Minh (12,4%), Bình Dương (9%)… Theo ông John Rockhold - Chủ tịch Hiệp hội Thương mại Mỹ (AmCham Hà Nội), hiện doanh nghiệp Mỹ rất quan tâm đến môi trường đầu tư tại Việt Nam, nhất là trong các lĩnh vực tăng trưởng xanh. Điều này được thể hiện khi nhìn vào cấu trúc của doanh nghiệp, có thể thấy doanh nghiệp rất quan tâm đến phát thải ròng bằng 0 theo cam kết Việt Nam đưa ra tại COP 26. Ông John Rockhold cho biết thêm, đang có hàng nghìn tỷ USD từ các nhà đầu tư Mỹ đang ngóng để “chảy” vào các lĩnh vực năng lượng xanh, logistics, cơ sở hạ tầng cảng biển, đường sắt của Việt Nam. Nguồn: Tổ quốc
  • 22. 03-2023 Xuất khẩu dần hồi phục, nhóm hàng chủ lực lấy lại đà tăng trưởng Trong kỳ 1 tháng 3/2023, xuất khẩu tăng 6,9% so với kỳ 2 tháng 2/2023. Trị giá xuất khẩu của một số nhóm hàng lớn lũy kế từ 1/1/2023 đến 15/3/2023 và cùng kỳ năm 2022. Nguồn: Tổng cục Hải quan. Theo số liệu thống kê sơ bộ mới nhất vừa được Tổng cục Hải quan công bố, trong kỳ 1 tháng 3/2023 (từ ngày 01/3 đến ngày 15/3/2023) tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt 27,2 tỷ USD, tăng 17,3% (tương ứng tăng 4 tỷ USD) so với kết quả thực hiện trong nửa cuối tháng 02/2023. K ết quả đạt được trong nửa đầu tháng 3/2023 đã đưa tổng trị giá xuất nhập khẩu của cả nước đến hết ngày 15/3/2023 đạt 122,95 tỷ USD, giảm 13%, tương ứng giảm 18,39 tỷ USD về số tuyệt đối so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, tổng trị giá xuất nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 86,66 tỷ USD, giảm 12,1% (tương ứng giảm 11,9 tỷ USD). Cụ thể, về xuất khẩu, trong kỳ 1 tháng 3/2023 đạt 13,34 tỷ USD, tăng 6,9% (tương ứng tăng 865 triệu USD về số tuyệt đối) so với kỳ 2 tháng 2/2023. Một số nhóm hàng có trị giá xuất khẩu kỳ 1 tháng 3/2023 tăng so với kỳ 2 tháng 2/2023, gồm: máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 342 triệu USD (tương ứng tăng 18,2%); hàng dệt may tăng 149 triệu USD (tương ứng tăng 13,7%); thủy tinh và các sản phẩm từ thủy tinh tăng 107 triệu USD (tương ứng tăng 297%); phương tiện vận tải và phụ tùng khác tăng 100 triệu USD (tương ứng tăng 21,6%)... Tính chung từ đầu năm đến hết ngày 15/3/2023, tổng trị giá xuất khẩu của Việt Nam đạt 62,94 tỷ USD, giảm 10,8% (tương ứng giảm 7,64 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, một số nhóm hàng giảm như: hàng dệt may giảm 1,27 tỷ USD (tương ứng giảm 18%); gỗ và sản phẩm gỗ giảm 963 triệu USD (tương ứng giảm 30,6%); máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện giảm 906 triệu USD (tương ứng giảm 8,9%); điện thoại các loại và linh kiện giảm 577 triệu USD (tương ứng giảm 5%) so với cùng kỳ năm 2022.
  • 23. 03-2023 Trị giá nhập khẩu của một số nhóm hàng lớn lũy kế từ 1/1/2023 đến 15/3/2023 và cùng kỳ năm 2022. Nguồn: Tổng cục Hải quan. Số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cũng cho thấy, trị giá xuất khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp FDI trong kỳ 1 tháng 3/2023 đạt 9,75 tỷ USD, tăng 5,7% (tương ứng tăng 525 triệu USD) so với kỳ 2 tháng 2/2023. Tính từ đầu năm đến hết ngày 15/3/2023, tổng trị giá xuất khẩu hàng hóa của nhóm các doanh nghiệp FDI đạt 47,08 tỷ USD, giảm 8,7%, tương ứng giảm 4,49 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước, chiếm 74,8% tổng trị giá xuất khẩu của cả nước. Từ chiều ngược lại, trị giá hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam trong kỳ 1 tháng 3/2023 đạt 13,83 tỷ USD, tăng 29,4% (tương ứng tăng 3,14 tỷ USD về số tuyệt đối) so với kết quả thực hiện trong nửa cuối tháng 2/2023. Trị giá nhập khẩu hàng hóa trong kỳ 1 tháng 3/2023 tăng so với kỳ 2 tháng 2/2023 chủ yếu ở một số nhóm hàng sau: máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 620 triệu USD (tương ứng tăng 23,7%); máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác tăng 383 triệu USD (tương ứng tăng 28,7%); nguyên vật liệu ngành dệt, may, da giày (bông, vải, xơ sợi, nguyên phụ liệu dệt, may, da giày) tăng 277 triệu USD, (tương ứng tăng 34%)... Như vậy, tính từ đầu năm đến hết 15/3/2023, tổng trị giá nhập khẩu của cả nước đạt 60 tỷ USD, giảm 15,2% (tương ứng giảm 10,75 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó một số nhóm hàng giảm mạnh như: điện thoại các loại và linh kiện giảm 2,92 tỷ USD (tương ứng giảm 64,5%); máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện giảm 1,95 tỷ USD (tương ứng giảm 11%); máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác giảm 1,44 tỷ USD (tương ứng giảm 16,5%) so với cùng kỳ năm 2022. Trị giá nhập khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp FDI trong kỳ này đạt 8,71 tỷ USD, tăng 24,1% (tương ứng tăng 1,69 tỷ USD) so với kỳ 2 tháng 2/2023. Tính từ đầu năm đến hết ngày 15/3/2023, tổng trị giá nhập khẩu của nhóm các doanh nghiệp FDI đạt 39,6 tỷ USD, giảm 15,8% (tương ứng giảm 7,42 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2022, chiếm 66% tổng trị giá nhập khẩu của cả nước. Với kết quả trên, trong kỳ 1 tháng 3/2023, cán cân thương mại hàng hóa thâm hụt 490 triệu USD. Tính từ đầu năm đến hết ngày 15/3/2023, cán cân thương mại hàng hóa thặng dư 2,94 tỷ USD. Mặc dù, hoạt động xuất khẩu trong kỳ đầu tiên của tháng 3 đã cho thấy tín hiệu khởi sắc, song mục tiêu tăng trưởng 6% cho cả năm 2023 vẫn đang đứng trước không ít thách thức. Đó là, thương mại toàn cầu sẽ tiếp tục chịu nhiều sức ép do căng thẳng địa chính trị và xung đột giữa các nước lớn ngày càng gay gắt. Lạm phát tăng cao, thị trường xuất nhập khẩu thu hẹp cùng với chính sách thắt chặt tiền tệ và phòng, chống dịch Covid-19 ở một số nước cũng sẽ tác động mạnh mẽ đến thị trường hàng hóa trong nước và xuất khẩu, theo hướng bất lợi khi nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn. Bên cạnh đó, yêu cầu bảo vệ môi trường, tiêu chuẩn xanh hóa các sản phẩm từ các nước nhập khẩu ngày càng khắt khe. Những tiêu chuẩn mới từ các thị trường xuất khẩu sẽ tác động đến toàn bộ chuỗi cung ứng, buộc các doanh nghiệp xuất khẩu phải thay đổi để đáp ứng. Chẳng hạn, liên minh châu Âu sẽ thực hiện Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), theo đó sẽ đánh thuế carbon đối với tất cả hàng hóa xuất khẩu sang thị trường này dựa trên cường độ phát thải khí nhà kính trong quy trình sản xuất ở nước sở tại. Đây là yếu tố mới, tác động lớn vào tính cạnh tranh của sản phẩm. Để giữ được mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu trong năm 2023, Bộ Công Thương đang tập trung thực hiện đồng bộ và triển khai hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do đã có hiệu lực để mở rộng, đa dạng hóa thị trường, chuỗi cung ứng và mặt hàng xuất nhập khẩu; chuyển mạnh sang xuất khẩu chính ngạch gắn với xây dựng thương hiệu, thúc đẩy xuất khẩu bền vững. Nguồn: Vneconomy
  • 24. 03-2023 Triển lãm quốc tế vải cao cấp Xuân Hè: Texfuture Việt Nam 2023 Dệt May Việt Nam: Mạnh hơn - Thông minh hơn - Xanh hơn Xanh hoá thị trường dệt may bằng cách đánh mạnh các sản phẩm vải bền vững có nguồn gốc từ thiên nhiên như sợi cà phê, sợi gai xanh, sợi dứa, sợi sen, sợi tơ tằm; các phương pháp nhuộm vải ứng dụng từ màu thực vật; các mô hình về kinh tế tuần hoàn cho các doanh nghiệp, khu công nghiệp; Giới thiệu các mô hình số hoá nguồn cung ứng vải, ứng dụng thiết kế 3D, mô hình thư viện vải số hoá đầu tiên tại Việt Nam, biến ngành công nghiệp dệt may trở nên thông minh hơn; Trở thành một không gian kết nối đáng tin cậy, nối dài mắt xích của chuỗi giá trị ngành, tạo dựng một mạng lưới phát triển bền vững - Cùng nhau chúng ta sẽ phát triển ngành dệt may một cách mạnh hơn. Texfuture Việt Nam Xuân Hè 2023 sẽ là hoạt động thường niên kết nối giao thương hiệu quả của ngành dệt may Việt Nam, hướng đến mục tiêu xây dựng ngành dệt may xanh hơn, mạnh hơn, thông minh hơn. Triển lãm hứa hẹn góp phần tạo nên sợi dây liên lạc chặt chẽ giữa cộng đồng doanh nghiệp dệt may trong nước và quốc tế, các chuyên gia, nhà khoa học, cơ quan quản lý Nhà nước, đặc biệt là vùng nguyên liệu của ngành để hình thành hệ sinh thái liên kết có trách nhiệm, phát triển dệt may Việt Nam theo hướng kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh và chuyển đổi số. Texfuture Việt Nam mùa Thu Đông 2023 sẽ được tiếp tục tổ chức vào tháng 9 với quy mô lớn hơn cùng nhiều nội dung chuyên sâu, sáng tạo, mang chủ đề “Cùng nhau tái chế - Cùng nhau tuần hoàn” – “Going Recycling – Going Circular”. Thông tin thêm xem tại: www.texfuture.vn +5.500 khách tham dự với hơn 10.000 lượt khách tham quan trong 3 ngày; +200 đơn vị trong ngành là các doanh nghiệp, nhà máy, nhãn hàng thời trang, nhà thiết kế, nhà khởi nghiệp trong và ngoài nước; +100 đơn vị báo đài và các KOLs đến ghi hình và đưa tin trực tiếp về triển lãm; 2/3 trong tổng số các doanh nghiệp cho biết đã kết nối được nhiều đối tác, thương thảo các hợp đồng đơn hàng, thậm chí một số đơn vị còn chốt và xuất luôn đơn hàng ngay thềm triển lãm; +38.600 kết quả tìm kiếm cho từ khoá Texfuture Vietnam 2023 trên Google; ~1.000 bài viết gắn hashtag

    Texfuture2023 cùng vô số bài viết liên quan đến sự kiện trên các trang mạng xã hội. Những con số cực kỳ ấn tượng Texfuture Việt Nam Xuân Hè 2023 tin rằng chúng tôi đã tạo ra được những điều tuyệt vời Trong 3 ngày, triển lãm cũng liên tục diễn ra các phiên tọa đàm của hơn 30 nhà sáng lập, diễn giả và chuyên gia chia sẻ về 3 thông điệp nổi bật: Các xu hướng xuân hè 2024 (Trending On 2024SS), Kỷ nguyên mới trong thiết kế thời trang (New Age of Design), Tương lai là hôm nay (The Future is Now). Tại Texfuture Việt Nam Xuân Hè 2023, Thư viện vải vóc số hoá đầu tiên tại Việt Nam đã được giới thiệu, cùng với nền tảng flatform thông tin dệt may toàn quốc đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc xây dựng, hệ thống cơ sở dữ liệu nguồn nguyên liệu xanh, quy trình sản xuất và thông tin thị trường của dệt may Việt Nam. Đại diện đơn vị nghiên cứu, triển khai dự án – Công ty Cp Giải pháp Dệt may Bền vững (Sustainable Textile Solutions - STS Group) cho biết: “Doanh nghiệp cần được cung cấp về các công nghệ đã hình thành thị trường để dễ dàng tiếp cận thông tin và đổi mới công nghệ; thông tin về quy định của những quốc gia Việt Nam ký kết hiệp định thương mại tự do đối với nguyên liệu, phụ phẩm, bán thành phẩm, sản phẩm nhựa và sản phẩm trong ngành dệt may. Đồng thời, ngành dệt may cần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đảm bảo yêu cầu về xây dựng, chia sẻ và cập nhật cơ sở dữ liệu thông tin về thị trường”. Texfuture Việt Nam Xuân Hè được tổ chức hướng đến mục tiêu phát triển ngành dệt may gắn với Kinh tế tuần hoàn, Kinh tế xanh và Chuyển đổi số. Triển lãm Texfuture Việt Nam Xuân Hè 2023 được Công ty Cổ phần Giải pháp Dệt may Bền vững (STS) phối hợp cùng Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam chi nhánh tại TP.HCM (VCCI TP.HCM) và Tengda Exhibition tổ chức từ ngày 22/03 đến 24/03 tại Gem Center. Triển lãm quốc tế vải cao cấp - Texfuture Việt Nam Xuân Hè 2023 truyền tải thông điệp: “Dệt may Việt Nam: Mạnh hơn - Thông minh hơn - Xanh hơn”, thu hút đông đảo doanh nghiệp sản xuất và vùng nguyên liệu xanh, hướng đến kinh tế tuần hoàn dệt may trong nước cũng như quốc tế tham dự. Có thể kể đến như: sợi cây gai xanh của Tập đoàn gai Thiên Phước Ramie, sợi dứa của ECOSOI, tơ sen của Lụa Sen Đồng Tháp, lụa tơ tằm Hanhsilk, Faslink với các sản phẩm vải từ bã cà phê, vỏ hàu, lá bạc hà,… hay vải tái chế từ nhựa PET; Shanghai Sinotex Eco với các loại vải chuyên nghiệp trong các lĩnh vực đổi mới và bảo vệ môi trường, tái sử dụng và tái chế, thương hiệu Naturoot mở ra phương pháp nhuộm thực vật, tiên phong trong quá trình thúc đẩy và phát triển bền vững trong tất cả giai đoạn của chuỗi cung ứng. Thông tin công nghệ - yếu tố quan trọng trong chuỗi giá trị ngành dệt may

  • 25. more or become a member, TrustUSCotton.org Launched in 2020, the U.S. Cotton Trust Protocol was designed to set a new standard in more sustainably grown cotton, ensuring that it contributes to the protection and preservation of the planet, using the most sustainable and responsible techniques. It is the only system that provides quantifiable, verifiable goals and measurement in six key sustainability metrics and article- level supply chain transparency. The Trust Protocol provides brands and retailers the critical assurances they need to show the cotton fiber element of their supply chain is more sustainably grown with lower environmental and social risk. SETTING A NEW STANDARD IN MORE SUSTAINABLE COTTON PRODUCTION Trust in a smarter cotton future.
  • 26. CROCOdoff Contributes to Efficient Spinning Rieter Trade Press Article: Novibra CROCOdoff, April 2021 About Rieter Rieter is the world’s leading supplier of systems for short-staple fiber spinning. Based in Winterthur (Switzerland), the company develops and manufactures machinery, systems and components used to convert natural and manmade fibers and their blends into yarns. Rieter is the only supplier worldwide to cover spinning preparation processes and all four end-spinning processes currently established on the market. Rieter is also a market leader in precision winding machines. With 15 manufacturing locations in 10 countries, the company employs a global workforce of some 4 420 employees, about 21% of whom are based in Switzerland. Rieter is listed on the SIX Swiss Exchange under the ticker symbol RIEN. www.rieter.com About Novibra Novibra, the world’s leading supplier of high-speed spindles, is a subsidiary of the Rieter Group. The company, based in Boskovice (Czech Republic), creates customer value through system expertise, innovative solutions, after sales excellence and global presence. The leading position of Novibra spindles is based on patented design of spindle insert and the highest quality of the production. Almost all renowned manufacturers of ring spinning machines specify Novibra spindles for high performance. www.novibra.com Rieter Management AG Klosterstrasse 32 Postfach 8406 Winterthur Schweiz T +41 52 208 71 71 F +41 52 208 70 60 www.rieter.com For further information, please contact: Rieter Management AG Media Relations Relindis Wieser Head Group Communication T +41 52 208 70 45 F +41 52 208 70 60 [email protected] www.rieter.com Fig. 1: CROCOdoff contributes to efficient spinning by reducing cleaning and maintenance time. ID 40195, CROCOdoff detail Fig. 2: Less ends down with CROCOdoff due to underwinding-free doffing. ID 55559, CROCOdoff on machine Every spinning mill around the world faces the twin challenges of high energy consumption and a shortage of skilled labor. The only way to stay competitive is automation. This is where Novibra’s clamping and cutting crown CROCOdoff comes in, that enables underwinding-free doffing. It reduces cleaning and maintenance time and contributes to reduction of energy consumption and number of after-doff ends down. It is no surprise that six million spindles equipped with CROCOdoffs are in use globally, in different machines, for different yarns and raw materials. Spindles with traditional underwinding system demand a lot of time to clean the yarn catching area and fix the high ends down rate after doffing. But rising wages and labor shortages are increasingly putting spinning mills under pressure as fewer people are available for cleaning and maintenance of spinning machines. The shortage in labor can mean that the yarn catching area is not cleaned for hours and yarn production cannot resume, resulting in significant production loss and lower yarn quality. That is why spinning mills opt for more automation, upgrading their machines with auto-doffers and spindles with underwinding free crowns that require fewer operators and less maintenance. CROCOdoff for Efficient Clamping and Cutting of the Yarn Novibra’s latest generation of clamping and cutting crowns, CROCOdoff, offers improved functionalities and an optimized design that meets the requirements of modern spinning mills (Fig. 1). CROCOdoff noticeably optimizes spinning automation as it not only helps reduce the required maintenance time and costs; it also allows running the ring spinning machines more efficiently and economically and thus contributes to reduction of energy consumption. CROCOdoff enables doffing without underwound yarn left on the running spindle (Fig. 2). The machine no longer needs to be stopped to clean the yarn catching area of the spindle so yarn production can continue seamlessly. When the doffing is finished, the yarn end flies out of the system and there are no open yarn tails that consume expensive energy. The secret lies in the efficient clamping of the yarn. The catching area of the crown has a meander (resembling crocodile teeth and giving the crown its name) for catching and cutting of the yarn. It can be clamped tightly and prevents it from slipping out. Extensive tests conducted on different raw materials proved the reliability of the system that has been confirmed in practice in the reduction of the after doff ends down rate. Customer’s Benefits Over the course of several months, measurements were taken on four different machine types – one with CROCOdoff equipped spindles – under the same conditions. With the three traditional underwinding systems the average ends down rate was between 45 to 70 depending on the respective machine brand. The average ends down rate on the machine running with CROCOdoff was only 11 ends down per doff, making it roughly four to six times lower. Moreover, CROCOdoff makes cleaning easy. According to a customer located in Shandong, China, before installing CROCOdoff, they had to stop each machine once a day for 20 minutes to clean the underwinding section and fix the high number of ends down after doffing. CROCOdoff reduced the ends down rate and there is no need to stop and clean each machine daily. Another customer in China with a different raw material and yarn count reported that with CROCOdoff the ends down rate during doffing consistently stands at around 2% and production efficiency is significantly higher. Maintenance is optimized, because the cleaning can be integrated in the general machine cleaning routine that takes place every two months in contrast to traditional yarn cutters that require cleaning every two days. The lower workload that is enabled by CROCOdoff provides more flexibility to assign operators to other tasks. Modern Spinning Mills Count on CROCOdoff In the face of labor scarcity for cleaning and maintenance, a highly reliable, self- cleaning system with a low ends down rate is a great opportunity for the modern spinning mill to enhance automation of its ring spinning machines. This is why spinning mills from different brands around the world turn to Novibra’s CROCOdoff technology, with now six million spindles in use globally and counting.
  • 27. energy-saving spindle worldwide Make the Difference Visit us at ITMA Milan June 8 – 14, 2023 Hall 1, booth C206 www.novibra.com
  • 28. 03-2023 TIN TỨC - HOẠT ĐỘN HOẠT ĐỘNG VCOSA 📌 Ngày 01/3/2023, VCOSA họp online cùng đại diện FE Credit về các hợp tác, chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm về quản trị nguồn nhân sự cho các DN hội viên. 📌 Cùng ngày, tại Hà Nội, lãnh đạo VCOSA tham gia họp giao ban Liên đoàn Doanh nghiệp để cập nhật tình hình doanh nghiệp trao đổi các biện pháp quản trị doanh nghiệp trong bối cảnh nhiều thách thức, do PSD Committee, Vietnam Economic Forum phối hợp tổ chức. 📌 Ngày 03/3/2023, VCOSA tham gia họp giao ban cùng Ban IV về chủ đề: Chương trình chia sẻ với lãnh đạo các Hiệp hội ngành nghề tại Hà Nội. 📌 Chiều ngày 09/3/2023, tại văn phòng Asian Cotton Traders, VCOSA có buổi làm việc cùng lãnh đạo công ty, ông Jean-Paul Haessig, đồng thời cũng là đại diện ICA Bremen, để bàn về các dự án có thể hợp tác cùng VCOSA để tổ chức cho ngành xơ sợi, dệt tại Việt Nam. 📌 Ngày 17/3/2023, VCOSA tham gia phỏng vấn online cùng tổ chức KPMG để tìm hiểu nhu cầu và đánh giá của các doanh nghiệp kéo sợi tại Việt Nam trong việc sử dụng nguồn bông Úc. 📌 VCOSA chính thức dời trụ sở về địa chỉ mới: Lầu 17, L17-11, Tòa nhà Vincom Center, 72 Lê Thánh Tôn, phường Bến Nghé, quận 1, Tp. Hồ Chí Minh, vào ngày 20/3/2023. Thông báo đã được gửi đến các Cơ quan, doanh nghiệp hội viên và đối tác. 📌 Sáng ngày 21/3/2023, tại trụ sở mới, VCOSA đã đón tiếp đại diện công ty ABS Vina để trao đổi, ghi nhận khó khăn của hội viên, từ đó tìm giải pháp hỗ trợ bằng cách kết nối với các đối tác theo nhu cầu của DN. 📌 Chiều cùng ngày, tại trụ sở VCOSA, chủ tịch Nguyễn An Toàn chủ trì cuộc họp bàn và lấy ý kiến khởi xướng điều tra CBPG cho sản phẩm sợi 100% polyester spun mã HS 5509.22.00. Tham gia cuộc họp có sự góp mặt của đại diện các DN: Rio Quảng Nam, Dệt May Nha Trang, Thiên Nam, Sợi Thế Kỷ, Dệt Đông Quang, Hưng Phú, Sợi An Phú Thịnh. 📌 Ngày 22-24/3/2023, chủ tịch VCOSA, ông Nguyễn An Toàn tham gia khai mạc Triển lãm vải quốc tế TexFuture 2023 tại Gem Center với tư cách đồng tổ chức. Đặc biệt, tại ngày triển lãm thứ 2, nguyên Chủ tịch VCOSA nhiệm kỳ II, ông Nguyễn Văn Tuấn đã có buổi phát biểu tại hội thảo chuyên đề để chia sẻ về bức tranh hiện trạng ngành Dệt May và giới thiệu về KCN Rạng Đông tại tỉnh Nam Định. 📌 Sáng ngày 30/3/2023, VCOSA tham dự Hội thảo phát triển đầu tư thương mại dịch vụ tạo liên kết vùng cho DN, do Bộ Công Thương chủ trì tổ chức tại tỉnh Thái Bình. 📌 Cùng ngày, đại diện VCOSA tham dự Họp Đại hội cổ đông công ty Sợi Thế Kỷ, hội viên ưu tú VCOSA tại KS Windsor Plaza, Tp. HCM. Một số hình ảnh tại triển lãm TexFuture 2023
  • 29. 03-2023 NG - SỰ KIỆN VCOSA HOẠT ĐỘNG PHÁT TRIỂN, HỖ TRỢ HỘI VIÊN Nhiệt liệt chào mừng hội viên mới gia nhập trong tháng 12/2022: CÔNG TY CP DỆT MAY ĐÔNG KHÁNH CÔNG TY TNHH SỢI CHỈ RIO QUẢNG NAM Công ty Cổ phần Dệt May Đông Khánh đã được gỡ khỏi “Danh sách các phán quyết chưa thực thi – Phần 2” (List of Unfulfilled Awards 2 - LOUA2). - Sự công bằng trong quy tắc mua bán bông và bước tiến của ngành kéo sợi Việt Nam. N gày 20/03/2023, Công ty Cổ phần Dệt May Đông Khánh do Ông Trịnh Tấn Hoàng làm chủ sở hữu kiêm Tổng Giám đốc, tọa lạc tại Khu công nghiệp Tân Đô, Đức Hòa, Long An - một trong những doanh nghiệp sản xuất sợi dệt may lớn của miền Nam, hội viên tích cực của Hiệp hội Bông Sợi Việt Nam (VCOSA) - đã chính thức ra khỏi Danh sách phán quyết chưa thực thi phần 2 (LOUA 2) của Hiệp hội Bông Quốc tế (ICA). Đây là danh sách các công ty được chứng minh là có liên quan tới LOUA 1. LOUA 1 là một danh sách công khai, liệt kê các công ty đã không tuân thủ một hoặc nhiều phán quyết trọng tài theo Quy định và Quy tắc của ICA. Công ty Đông Khánh có quy mô hơn 100,000 cọc sợi, 5,000 rotor OE, có thể cung cấp 22,000 tấn sợi mỗi năm từ cotton cho đến sợi pha (CVC, TC) cho thị trường trong và ngoài nước. Kể từ tháng 12/2022 đến tháng 3/2023, Đông Khánh phối hợp cùng với VCOSA đã cung cấp đầy đủ thông tin, chứng từ pháp lý để chứng minh công ty cần thiết được gỡ bỏ khỏi LOUA 2. ICA đã hỗ trợ tích cực trong tiến trình điều tra, và hợp tác chặt chẽ với các bên để hoàn thành mục tiêu và rút ngắn thời gian xử lý. Điều này cho thấy tầm nhìn chiến lược và sự quan tâm sâu sắc đến việc nâng cao uy tín và năng lực cạnh tranh của ban lãnh đạo công ty Đông Khánh. Việc được gỡ khỏi LOUA 2 của ICA không chỉ đánh dấu một cột mốc quan trọng trong lịch sử của công ty, mà còn chứng minh cho sự nỗ lực không ngừng của Đông Khánh trong việc nâng cao uy tín và mở rộng, xây dựng các mối quan hệ của mình tại thị trường nội địa và quốc tế. Có thể nói rằng, đây là một bước tiến đối với ngành kéo sợi Việt Nam, khẳng định sự công bằng và minh bạch của ICA. Thật vậy, những năm gần đây, ICA đã có những đóng góp quan trọng trong việc giúp ngành kéo sợi Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh và công nhận sự uy tín của ngành. Mối quan hệ của VCOSA và ICA ngày càng gắn kết thông qua các hoạt động nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của hội viên thuộc cả hai tổ chức. ICA luôn tích cực lắng nghe và cải tiến bộ Quy định và Quy tắc để tối ưu hóa sự an toàn – công bằng – minh bạch trong giao dịch mua bán bông toàn cầu, đồng thời VCOSA cũng thường xuyên trưng cầu ý kiến đóng góp của hội viên, qua đó tổ chức các chương trình nhằm hỗ trợ doanh nghiệp sợi Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh và tự bảo vệ quyền và lợi ích khi thực hiện các giao dịch mua bán bông. Chúc mừng Đông Khánh đã được gỡ khỏi LOUA 2 của ICA, và hy vọng rằng điều này sẽ truyền cảm hứng và động lực cho các đối tác khác trong ngành kéo sợi Việt Nam để tiếp tục phát triển và cải thiện nâng cao uy tín của mình.
  • 30. 03-2023
  • 31. 03-2023
  • 32. 03-2023 1. Số liệu nhập khẩu Tháng 2/2023 Việt Nam nhập khẩu 76,7 nghìn tấn bông, trị giá 182,5 triệu USD tăng 9,7% về lượng và 4,2% về trị giá so với tháng trước, giảm 35,4% về lượng và giảm 39,5% về trị giá so với cùng kỳ năm trước. Lượng xơ sợi nhập về Việt Nam là 79,2 nghìn tấn, trị giá 159,2 triệu USD, tăng 30,7% về lượng và 17,1% về trị giá so với tháng trước, giảm 1,7% về lượng và giảm 20,3% về trị giá so với cùng kỳ năm trước. SỐ LIỆU THỐNG KÊ Theo số liệu sơ bộ trong tháng 2/2023, Việt Nam nhập khẩu 76,7 nghìn tấn bông, tăng 9,7% so với tháng trước. Lượng xơ, sợi dệt các loại nhập khẩu là 79,2 nghìn tấn, tăng 30,7% so với tháng trước. Theo số liệu xuất nhập khẩu mới nhất từ tổng cục Hải Quan, trong tháng 2/2023, Việt Nam đã nhập khẩu bông trị giá 182,5 triệu USD, tăng 4,2% so với tháng trước; nhập khẩu xơ-sợi trị giá 159,2 triệu USD, tăng 17,1%; nhập khẩu vải các loại trị giá 776,1 triệu USD, giảm 17,1%; nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may da giày tăng 11,7% so với tháng trước, trị giá 421,4 triệu USD.
  • 33. 03-2023 Trong 2 tháng đầu năm 2023, Việt Nam nhập khẩu bông trị giá 357,5 triệu USD, giảm 42,3% so với cùng kỳ năm trước; nhập khẩu xơ sợi dệt các loại trị giá 295,2 triệu USD giảm 31,8%; nhập khẩu vải các loại 1,71 tỷ USD, giảm 27%; nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may da giày giảm 20,6% so với cùng kỳ năm trước, trị giá 798,9 triệu USD. Theo số liệu sơ bộ trong tháng 2/2023, lượng xơ, sợi dệt các loại nhập khẩu khoảng 79,2 nghìn tấn, tăng 30,7% so với tháng trước, giảm 1,7% so với cùng kỳ năm trước. Theo số liệu sơ bộ trong tháng 2/2023, Việt Nam nhập khẩu 76,7 nghìn tấn bông, tăng 9,7% so với tháng trước, giảm 35,3% so với cùng kỳ năm trước.
  • 34. 03-2023 1.1. Giá nhập khẩu bông nguyên liệu vẫn trong xu hướng giảm nhẹ Tháng 01/2023, có 9 thị trường cung cấp bông nguyên liệu cho Việt Nam, giảm 01 thị trường so với cùng kỳ tháng 01/2022. Lượng nhập khẩu bông nguyên liệu của Việt Nam từ một số thị trường chính giảm so với tháng 01/2022 như Brazil, Mỹ, Ấn Độ... Cụ thể: Nhập khẩu bông từ thị trường Australia lớn nhất trong tháng 01/2023, đạt 29 nghìn tấn, trị giá 75 triệu USD, giảm 29,8% về lượng và giảm 34,9% về trị giá so với tháng 12/2022, nhưng tăng 8,9% về lượng và tăng 9,9% về trị giá so với tháng 01/2022, chiếm 41,9% tổng lượng bông nhập khẩu của Việt Nam. Nhập khẩu bông từ thị trường Brazil đứng ở vị trí thứ 2, với lượng nhập khẩu đạt 23 nghìn tấn, trị giá 60 triệu USD, giảm 44,3% về lượng và giảm 42,2% về trị giá so với tháng 12/2022. Ngoài ra, nhập khẩu bông từ một số thị trường khác giảm mạnh về lượng trong tháng 01/2023 so với tháng 12/2022 như: nhập khẩu từ thị trường Ấn Độ giảm 39%; từ Argentina giảm 38,2%; từ Pakistan giảm 71,7%. Theo thống kê từ Tổng cục Hải quan, nhập khẩu bông về Việt Nam trong tháng 01/2023, đạt 69,91 nghìn tấn, trị giá 175,14 triệu USD, giảm 30,5 % về lượng và giảm 32,4% về trị giá so với tháng 12/2022, giảm 45,5% về lượng và giảm 44,9% về trị giá so với tháng 01/2022. Nguồn: VITIC Nguồn: VITIC Nhập khẩu bông của Việt Nam Về giá: Giá trung bình bông nhập khẩu vào Việt Nam tháng 01/2023 ở mức 2.505 USD/tấn, giảm 2,8% so với tháng 12/2022, nhưng tăng 1,4% so với tháng 01/2022. Giá bông nhập khẩu trung bình từ các thị trường chính trong tháng 01/2023 đa phần giảm so với tháng 12/2022. Trong đó, giá bông nhập khẩu từ thị trường Australia giảm 34,9% xuống 2.589 USD/tấn, giá bông nhập khẩu từ thị trường Brazil giảm 42,2% xuống 2.620 USD/tấn, giá bông nhập khẩu từ thị trường Mỹ giảm 3% xuống 2.385 USD/tấn.
  • 35. 03-2023 Có thể thấy, giá bông nhập khẩu của Việt Nam đang có xu hướng giảm theo giá bông thế giới. Tại Mỹ, theo dữ liệu từ nguồn https://www.macrotrends.net/, giá bông của Mỹ cũng đã điều chỉnh giảm trong những tháng gần đây, từ mức 0,83 USD/ pound tại thời điểm đầu tháng 01/2023 đã giảm xuống mức 0,82 USD/pound ở thời điểm cuối tháng 01/2023 và tiếp tục giảm trong nửa đầu tháng 02/2023, với giá bông tính đến thời điểm ngày 15/02/2023 ở mức 0,81 USD/pound. Nguồn: VITIC Nguồn: VITIC Nguồn: macrotrends.net Giá nhập khẩu bông
  • 36. 03-2023 Mặc dù giá bông đang trong xu hướng giảm, tuy vậy, theo nhận định, giá bông thế giới sẽ không giảm sâu và có khả năng sẽ tăng lên trong thời gian tới khi có nhiều thông tin sẽ hỗ trợ cho giá bông tăng như: Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) mới đây đã cắt giảm ước tính sản lượng bông hàng năm của Pakistan trong 4 tháng liên tiếp. Theo đó, USDA dự báo sản lượng bông của Pakistan trong niên vụ 2022/23 (kéo dài từ tháng 8/2022 đến tháng 7/2023) sẽ giảm 38% xuống còn 3,7 triệu kiện. Đây là mức thấp nhất trong 40 năm. Tại Ấn Độ, quốc gia đứng thứ hai thế giới về sản lượng bông với 21% thị phần, chính sách thương mại là mối quan tâm chính. Nước này đã áp đặt các hạn chế vào năm ngoái đối với xuất khẩu lúa mì, đường và các sản phẩm nông nghiệp khác để đảm bảo nguồn cung trong nước và giữ giá ổn định. Mặc dù bông không được đưa vào các biện pháp cấm xuất khẩu, nhưng một số nhà quan sát thị trường cho rằng điều này có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Tại Mỹ, quốc gia chiếm 15% sản lượng bông toàn cầu, thời tiết cũng là một vấn đề, Texas, bang trồng bông lớn tại Mỹ, đã phải đối phó với hạn hán từ mùa Xuân năm 2022. USDA ước tính sản lượng bông của Mỹ sẽ giảm 16% xuống còn 14,68 triệu kiện trong niên vụ này. Ngoài ra, triển vọng nhu cầu hàng may mặc có thể phục hồi cũng là yếu tố khiến giá bông tăng. Với dữ liệu cho thấy lạm phát đang hạ nhiệt ở châu Âu và Mỹ, các thị trường kỳ vọng nền kinh tế toàn cầu sẽ tránh được suy thoái nghiêm trọng, có khả năng thúc đẩy hoạt động mua hàng may mặc. Đặc biệt, thị trường quần áo lớn nhất thế giới là Trung Quốc bãi bỏ chính sách “Zero Covid” nghiêm ngặt càng làm tăng thêm những kỳ vọng này. Dự báo giá nhập khẩu bông nguyên liệu vào Việt Nam sẽ điều chỉnh tăng trong thời gian tới. T heo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, lượng xơ nguyên liệu nhập khẩu của Việt Nam trong tháng 01/2023 đạt 27,28 nghìn tấn, trị giá 30,84 triệu USD, giảm 18,7% về lượng và giảm 26,7% về trị giá so với tháng 12/2022; giảm 18,3% về lượng và giảm 33% về trị giá so với tháng 01/2022. Ngay sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán Quý Mão năm 2023, các doanh nghiệp dệt may đã bắt đầu sản xuất, đảm bảo ổn định công ăn việc làm cho người lao động, nhưng đơn hàng sụt giảm, thậm chí đơn hàng có xu hướng nhỏ lẻ, phức tạp hơn, giá gia công giảm và cạnh tranh cao. Mặc dù các chuyên gia dự báo các đơn hàng ngành may sẽ phục hồi vào quý 2/2023, tuy nhiên sẽ phải cạnh tranh gay gắt về giá từ các đối thủ như Bangladesh, Ấn Độ và Trung Quốc. Thị trường xơ thế giới vẫn ảm đạm, chưa có dấu hiệu phục hồi, giá bán xơ trên thị trường vẫn ở mức thấp, trong khi giá bông đưa vào sản xuất tại các đơn vị vẫn cao hơn nhiều so với giá thị trường hiện nay. Với các yếu tố trên, dự báo lượng nhập khẩu và giá xơ nhập khẩu vào Việt Nam sẽ tiếp tục điều chỉnh giảm trong thời gian tới. 1.2. Dự báo lượng xơ nguyên liệu nhập khẩu tiếp tục giảm Nhập khẩu xơ nguyên liệu của Việt Nam (Đvt: nghìn tấn) Nguồn: VITIC
  • 37. 03-2023 Tháng 01/2023, Việt Nam nhập khẩu xơ nguyên liệu từ 17 thị trường, trong đó, Trung Quốc là thị trường cung cấp xơ nguyên liệu lớn nhất với lượng nhập khẩu đạt 11,04 nghìn tấn, trị giá 13,07 triệu USD, giảm 30,6% về lượng và giảm 31,1% về trị giá so với tháng 12/2022; giảm 25,7% về lượng và giảm 33,6% về trị giá so với tháng 01/2022. Tiếp đến là thị trường Thái Lan, với lượng xơ nguyên liệu nhập khẩu từ thị trường này trong tháng 01/2023 đạt 7,08 nghìn tấn, trị giá 3,89 triệu USD, tăng 47,5% về lượng nhưng giảm 28,9% về trị giá so với tháng 12/2022; tăng 63,9% về lượng nhưng giảm 33,2% về trị giá so với tháng 01/2022. Nhìn chung trong tháng 01/2023, nhập khẩu xơ nguyên liệu từ các thị trường chính vào Việt Nam đều giảm, riêng nhập khẩu từ thị trường Thái Lan tăng 47,5% về lượng. Đáng chú ý, lượng nhập khẩu xơ nguyên liệu từ một số thị trường tăng rất mạnh trong tháng 01/2023 như Italy. Nguồn: VITIC Nguồn: VITIC Nhập khẩu xơ của Việt Nam Về giá: Tháng 01/2023, giá xơ nguyên liệu nhập khẩu về Việt Nam đạt trung bình 1.131 USD/tấn, giảm 9,8% so với tháng 12/2022 và giảm 17,9% so với tháng 01/2022. Trong đó, giá xơ nguyên liệu nhập khẩu từ thị trường Thái Lan đạt mức thấp nhất là 549 USD/tấn; tiếp đến là Đài Loan đạt 1.096 USD/tấn và giá nhập khẩu từ thị trường cao nhất là Hàn Quốc với mức giá là 1.944 USD/tấn. Giá nhập khẩu trung bình xơ nguyên liệu qua các tháng (Đvt: USD/tấn)
  • 38. 03-2023 Tháng 01/2023, Trung Quốc là thị trường cung cấp sợi nguyên liệu lớn nhất cho thị trường Việt Nam, với lượng nhập khẩu đạt 26,12 nghìn tấn, trị giá 69,87 triệu USD, giảm 18,4% về lượng và giảm 9,6% về trị giá so với tháng 12/2022; giảm 34,3% về lượng và giảm 35,8% về trị giá so với tháng 01/2022. Nhập khẩu sợi nguyên liệu từ thị trường Đài Loan đạt 3,78 nghìn tấn, trị giá 11,1 triệu USD, giảm 29,7% về lượng và giảm 25,6% về trị giá so với tháng 12/2022; giảm 52,6% về lượng và giảm 52,5% về trị giá so với tháng 01/2022. Nhìn chung trong tháng 01/2023, nhập khẩu sợi nguyên liệu từ các thị trường chủ lực vào Việt Nam đều giảm so với tháng 01/2022, trừ thị trường Nhật Bản tăng nhẹ 4,9% về lượng và tăng 34,4% về trị giá. 1.3. Dự báo giá nhập khẩu sợi nguyên liệu giữ mức ổn định Giá nhập khẩu xơ Nguồn: VITIC Nguồn: VITIC Theo số liệu thống kê của TổngcụcHảiquan,nhập khẩu sợi nguyên liệu trong tháng 01/2023 đạt 35,88 nghìn tấn, trị giá 105,41 triệu USD, giảm 19,8% về lượng và giảm 14,7% về trị giá so với tháng 12/2022, giảm 43,4% về lượng và giảm 44,4% về trị giá so với tháng 01/2022. Lượng nhập khẩu sợi nguyên liệu của Việt Nam (Đvt: nghìn tấn)
  • 39. 03-2023 Nguồn: VITIC Nguồn: VITIC Nhập khẩu sợi của Việt Nam Giá nhập khẩu sợi nguyên liệu qua các tháng từ năm 2022 – 2023 (Đvt: USD/tấn) Về giá: Giá nhập khẩu sợi nguyên liệu trong tháng 01/2023 ở mức 2.938 USD/ tấn, tăng 6,4% so với tháng 12/2022 nhưng giảm 1,7% so với tháng 01/2022.
  • 40. 03-2023 Trong đó, giá sợi nguyên liệu nhập khẩu từ Indonesia thấp nhất đạt 2.459 USD/tấn; tiếp đến là từ Trung Quốc đạt 2.674 USD/tấn và giá nhập khẩu từ thị trường cao nhất là Nhật Bản với mức giá 11.452 USD/tấn. Theo các chuyên gia, giá sợi thế giới vẫn giữ ổn định do nhu cầu giảm và sức mua thấp. Thị trường sợi dự kiến sẽ duy trì trong những tháng đầu năm 2023 do các nhà máy kéo sợi sẽ điều chỉnh lại giá trong tháng tới. Giá nhập khẩu sợi của Việt Nam cũng ghi nhận sự ổn định về giá, lượng nhập khẩu thấp do nhu cầu yếu. Dự báo giá nhập khẩu sợi vào Việt Nam những tháng tới sẽ giữ ổn định, cùng với đó lượng nhập khẩu sợi cũng vẫn ở mức thấp. Giá nhập khẩu sợi Nguồn: VITIC — Những thông tin và số liệu thống kê sử dụng trong bản tin được thu thập từ nhiều nguồn gồm Tổng Cục Hải quan, Tổng Cục Thống kê, VITIC, Trung tâm Thương mại Quốc tế... — Thông tin trong bản tin chỉ mang tính tham khảo. Các ước tính, dự báo có giá trị đến ngày ra báo cáo và có thể thay đổi bởi những biến động thị trường. — Báo cáo này cung cấp thông tin chung. VCOSA không chịu trách nhiệm về việc thông tin được cung cấp là đầy đủ hoặc chính xác. Do các chu kỳ cập nhật khác nhau, số liệu thống kê có thể hiển thị nhiều dữ liệu cập nhật hơn so với tham chiếu trong báo cáo. — Rất mong nhận được sự phản hồi, trao đổi thông tin và đóng góp ý kiến của độc giả để Bản tin Hiệp Hội Bông Sợi Việt Nam ngày càng chất lượng hơn. Ban Thông tin Truyền thông
  • 41. 03-2023 2. Số liệu xuất khẩu Tháng 2/2023, Việt Nam xuất khẩu 108,5 nghìn tấn xơ, sợi dệt các loại, trị giá 339 triệu USD, tăng 23,1% về lượng và 50,3% về trị giá so với tháng trước; giảm 17,8% về lượng và giảm 23,3% về trị giá so với cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu xơ, sợi trong tháng 2/2023 đạt 339 triệu USD, tăng 50,3% so với tháng trước; xuất khẩu vải đạt 207,3 triệu USD, tăng 35,7%; xuất khẩu nguyên phụ liệu dệt may da giày đạt 164 triệu USD, tăng 35,4%; xuất khẩu vải kỹ thuật giảm 1% so với tháng trước, trị giá 57,2 triệu USD. Việt Nam xuất khẩu xơ, sợi trong tháng 2/2023 đạt 108,5 nghìn tấn, trị giá 339 triệu USD, tăng 23,1% về lượng và 50,3% về trị giá so với tháng trước.
  • 42. 03-2023 Xuất khẩu hàng dệt may trong tháng 2/2023 đạt 2,29 tỷ USD, tăng 1,9% so với tháng trước. Theo số liệu sơ bộ trong tháng 2/2023, xuất khẩu hàng dệt may đạt 2,29 tỷ USD tăng 11,9% so với cùng kỳ năm trước. 2 tháng đầu năm 2023, Việt Nam xuất khẩu xơ, sợi đạt trị giá 564,6 triệu USD, giảm 38,4% so với cùng kỳ năm trước; xuất khẩu vải đạt trị giá 360,7 triệu USD, giảm 16,1%; xuất khẩu nguyên phụ liệu dệt may da giày đạt 285,1 triệu USD, giảm 16,6%; xuất khẩu vải kỹ thuật giảm 21,3%, trị giá 114,9 triệu USD.
  • 43. 03-2023 Việt Nam xuất khẩu xơ, sợi dệt chủ yếu sang thị trường Trung Quốc và Hàn Quốc trong 2 tháng đầu năm 2023, chiếm 52% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này. Xuất khẩu xơ, sợi dệt các loại sang hầu hết các thị trường giảm trong 2 tháng đầu năm 2023 so với cùng kỳ năm 2022, tuy vậy, xuất khẩu sang một số thị trường vẫn tăng như Ấn Độ, Philippines. Theo các thông tin ngành dệt may tại trang website https://info.texnet.com.cn/, ngành dệt may Trung Quốc vẫn chưa có sự bứt phá trong những tháng đầu năm 2023 do các đơn hàng xuất khẩu vẫn ở mức thấp. Do đó, xuất khẩu xơ, sợi dệt của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc dự báo sẽ chưa thể tăng mạnh trong 1, 2 tháng tới. Xuất khẩu xơ, sợi dệt các loại phục hồi chậm Theo thống kê từ Tổng cục Hải quan, xuất khẩu xơ, sợi dệt của Việt Nam trong tháng 02/2023 đạt 108,46 nghìn tấn, kim ngạch 339 triệu USD, tăng 23,1% về lượng và tăng 50,3% về kim ngạch so với tháng 01/2023; so với tháng 02/2022 lại giảm 17,8% về lượng và giảm 23,3% về kim ngạch. Tính chung 2 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu xơ, sợi dệt các loại của Việt Nam đạt 196,59 nghìn tấn, kim ngạch 564,5 triệu USD, giảm 28,8% về lượng và giảm 38,4% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2022. Giống như nhiều nhóm hàng khác, nhóm hàng xơ, sợi dệt xuất khẩu của Việt Nam đã chịu ảnh hưởng bởi sự suy thoái kinh tế toàn cầu. Xơ, sợi là nhóm hàng đầu vào cho sản xuất vải (khâu thượng nguồn), do đó, đây cũng là nhóm hàng bị ảnh hưởng sớm hơn so với ngành may mặc (ngành hạ nguồn), do các khách hàng lớn giảm hàng tồn kho trong bối cảnh nhu cầu của người tiêu dùng suy yếu. Việc Trung Quốc mở cửa trở lại nền kinh tế ngay từ đầu năm 2023 sẽ khiến xuất khẩu xơ, sợi dệt của Việt Nam sang thị trường này phục hồi trở lại, tuy vậy, mức phục hồi vẫn chậm do đơn hàng xuất khẩu khẩu dệt may của Trung Quốc vẫn thấp. Nguồn: VITIC
  • 44. 03-2023 Thị trường xuất khẩu xơ, sợi Về giá: Giá xuất khẩu trung bình mặt hàng xơ, sợi dệt của Việt Nam trong tháng 02/2023 đạt 3.125 USD/tấn, tăng 22,1% so với tháng 01/2023 nhưng giảm 6,7% so với tháng 02/2022. Tính chung 2 tháng đầu năm 2023, giá xuất khẩu trung bình mặt hàng xơ, sợi dệt của Việt Nam đạt 2.872 USD/tấn, giảm 13,4% so với cùng kỳ năm 2022. So với tháng đầu năm 2023, giá xuất khẩu trung bình mặt hàng xơ, sợi dệt của Việt Nam trong tháng 02/2023 tăng ở hầu hết các thị trường, trong đó, giá xuất khẩu sang một số thị trường tăng trưởng đáng kể như Trung Quốc, Hàn Quốc, Bangladesh, Mỹ, Indonesia, Campuchia… Trái lại, giá xuất khẩu sang một số thị trường giảm như Thổ Nhĩ Kỳ, Brazil. Nguồn: VITIC