Củ tam thất tiếng anh là gì
Tên tiếng trung: Sơn tất (山漆), Kim bất hóan (金不换), Huyết sâm (血参), Sâm tam thất (参三七), Điền tam thất (田三七), Điền tất (田漆), Điền thất (田七). Show
Tên dược: Radix Notoginsing. Tên khoa học: Panax notoginseng (Burk) F.H. Chen. + Cây tam thất có 3 cành, mỗi cành có 7 lá nên có tên gọi như vậy. + Cây tam thất từ khi gieo đến lúc có hoa là 3 năm, từ 3 năm đến 7 năm tuổi cây mới có được dược tính tốt. + Cũng có giải thích rằng: tên gọi Tam Thất ( 三七 ) mà ta vẫn sử dụng ngày nay bắt nguồn từ tên gọi gốc của nó là ( 山漆 ). Trong tiếng Hán “三七” và “山漆” đồng âm khác nghĩa. “山漆” - “Sơn Tất”: được bắt nguồn từ những người đi rừng săn bắt, hái lượm xưa kia, khi họ lên non xuống suối, không may bị ngã bị thương, rách da, chảy máu,… họ chỉ cần đắp cây thuốc Tam Thất lên là đỡ sưng đau, ngừng chảy máu, nó làm lành vết thương thần kỳ tựa như keo như sơn – “漆” vậy. Cây Tam thất(Mô tả, hình ảnh cây Tam thất, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý ....) Mô tả:Tam thất có hình búp măng tròn hoặc hình thoi, đầu trên hơi to, đầu dưới nhỏ dần. Bề mặt bên ngoài màu nâu hoặc be vàng, quen gọi là “đồng bì” (da đồng). Có vân dọc nhỏ đứt nối nhau, chỗ nào vân ít thì hơi có ánh quang. Các mắt vỏ nằm ngang, dài, hơi nhô lên, có vết đứt của rễ nhánh và ngân rễ chùm. Đỉnh ngọn phình to ra, có gốc cây còn sót lại, xung quanh đó có những cái tật nổi gồ lên rất rõ, quen gọi đó là “đầu sư tử”. Chất rắn chắc, không dễ gì bẻ gẫy, mặt cắt màu be đen hoặc màu vàng xám. Mùi nhẹ, vị đắng sau ngọt. Thông thường dùng tam thất dạng bột, có màu vàng xám. Loại nào thân to, thể nặng, rắn chắc, bề mặt nhẵn bóng, mặt cắt màu lục xám hoặc màu lục vàng là loại tốt. Bộ phận dùng và phương pháp chế biến:Cuối hạ, đầu thu trước khi hoa nở hoặc mùa đông sau khi hạt đã chín thu họach. Chọn cây mọc trên 3 ~ 7 năm, đào móc lấy bộ rễ, bỏ sạch đất, cắt bỏ rễ nhỏ và gốc thân, phơi đến khô nửa, xát vò nhiều lần, sau đó phơi khô. Loại bỏ trong đồ đựng, thêm vào cục sáp (paraphin), rung động nhiều lần, làm cho mặt ngòai sáng láng có sắc hơi nâu đen. Củ Tâm thất lấy vào mùa hạ, thu chắc đầy, phẩm chất khá tốt, gọi là Xuân thất; còn lấy vào mùa đông, hình nhỏ teo nhăn, chất lượng kém, gọi là Đông thất. Rễ nhánh thô cắt ra của nó gọi là Cân điều; nhỏ hơn là Tiễn khẩu tam thất; nhỏ nhất là Nhung căn. Tam thất trồng nhân tạo, trồng nhiều ở đồng ruộng, gọi là Điền thất. Tác dụng dược lýBổn phẩm có thể rút ngắn thời gian xuất huyết và đông máu, có tác dụng chống ngưng tập tiểu cần và làm tan huyết khối; có thể xúc tiến sinh sản nhiều công năng tạo tế bào thân máu (hemopoietic stem cell), có tác dụng tạo máu; có thể giáng thấp huyết áp, làm giảm chậm nhịp tim, đối với các lọai thuốc gây ra rối lọan nhịp tim đều có tác dụng bảo hộ; có thể giáng thấp lượng ô xy hao hụt và tỉ suất sử dụng ô xy của cơ tim, giãn mạch máu não, tăng cường lưu lượng mạch máu não; có thể đề cao công năng miễn dịch cơ thể, có tác dụng giảm đau chống viêm, chống suy lão v.v…; Có thể điều trị bệnh biến teo niêm mạc bao tử chuột lớn rõ rệt, và có thể nghịch truyền tăng sinh không điển hình và hóa sinh thượng bì ruột của tuyến thượng bì, có tác dụng chống u bướu (Trung dược học). Bổn phẩm có thể rút ngắn thời gian đông máu, và tăng gia tiểu cầu mà có tác dụng cầm máu, hàm chứa saponin(e) A có tác dụng cường tim (Trung y phương dược học). Dịch chiết Tam thất tiêm tĩnh mạch chó gây mê có thể gây ra giáng áp nhanh và kéo dài lâu [Tam thất nghiên cứu thực nghiệm sơ bộ đối với ảnh hưởng tuần hòan máu mạch vành (Viện y học Võ Hán, 1972)]. Trong những năm gần đây, tam thất còn được dùng để điều trị bệnh cơ tim, bệnh lượng mỡ cao trong máu, xuất huyết ở tiền phòng mắt, các bệnh tổng hợp về rối loạn chức năng ở khớp cổ bên dưới mang tai, các chứng bệnh do vận động quá mức sinh ra v.v… Vị thuốc Tam thất(Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng ....) Tính vị:Vị ngọt, đắng và tính ấm. Qui kinh:Can và vị. Công năng:Cầm máu và giải ứ trệ. Hoạt huyết và giảm đau. Chỉ định và phối hợp:- Xuất huyết nội tạng hoặc xuất huyết ngoài: Dùng riêng bột tam thất hoặc phối hợp với hoa nhuỵ thạch và huyết dư tán dưới dạng hoa huyết tán. - Xuất huyết và sưng do chấn thương ngoài. Dùng tam thất dạng bột dùng ngoài. Liều dùng: 3-10g, 1-1,5g (dạng bột). Kiêng kỵ– Trung dược đại từ điển: Phụ nữ có thai kỵ uống. – Bản thảo tòng tân: Có thể tổn tân huyết, người không ứ trệ chớ dùng. – Đắc phối bản thảo: Người huyết hư ói máu, chảy máu cam, huyết nhiệt vọng hành cấm dùng. Những cấm ky khi dùng thuốc. Thuốc này, người nào huyết hư nhưng không tụ huyết thì kiêng dùng, phụ nữ có thai kiêng dùng, người nào huyết hư, thổ huyết, đổ máu cam, huyết nhiệt an hành kiêng không dùng. Ứng dụng lâm sàng của Tam thấtTrị ói máu :Trứng gà 1 quả, đánh vỡ, hòa Tam thất bột 1 chỉ, nước ngó sen 1 ly nhỏ, rượu cũ nửa ly nhỏ, nấu cách thủy chín ăn vậy.(Đồng thọ lục) Trị ho máu, kiêm trị ói máu, chảy máu cam, trị ứ huyết và nhị tiện ra máu:Hoa nhụy thạch 3 chỉ (nung tồn tính), Tam thất 2 chỉ, Huyết dư 1 chỉ (nung tồn tính). Tất cả nghiền bột mịn. Phân 2 lần, nước sôi uống. (Y học trung Trung tham Tây lục – Hóa huyết đơn) Trị huyết lỵ:Tam thất 3 chỉ, nghiền nhỏ, nước vo gạo điều uống. (Tần Hồ tập giản phương) Trị đại trường ra máu:Tam thất nghiền nhỏ, cùng rượu trắng nhạt điều uống 1, 2chỉ. Gia 5 phân vào thang Tứ vật cũng được. (Tần Hồ tập giản phương) Sau sanh huyết nhiều:Tam thất nghiền nhỏ, nước cơm uống 1 chỉ. (Tần Hồ tập giản phương) Trị mắt đỏ, vô cùng nặng:Tam thất căn mài nước thoa xung quanh. (Tần Hồ tập giản phương) Trị vết thương do dao, thu miệng:Long cốt tốt, Da voi, huyết kiệt, Nhân sâm tam thất, Nhũ hương, Mộc dược, Giáng hương bột các vị lượng bằng nhau. Làm bột, uống với rượu ấm hoặc thấm lên. (Cương mục thập di – Thất bảo tán) Cầm máu:Nhân sâm tam thất, Sáp trắng, Nhũ hương, Giáng hương, Huyết kiệt, Ngũ bội, mẫu lệ các vị lượng bằng nhau. Không qua lửa, làm bột. Đắp vậy. (Hồi xuân tập – Quân môn chỉ huyết phương) |