Nguyên nhân của thể kwashiorkor
Thông tin - giáo dục dinh dưỡng
Dịch vụ
Giới thiệu Khoa Khám tư vấn dinh dưỡng trẻ em - Viện Dinh dưỡng Quốc gia Dinh dưỡng cho trẻ đề kháng kém-nguồn VTV2 Thông tin cảnh báo về việc mạo danh Viện Dinh dưỡng Quốc gia Phổ biến kiến thức chuyên mônSuy dinh dưỡng-Protein năng lượng Cập nhật: 11/27/2014 - Lượt xem: 37462 1. NỘI DUNG Trẻ bị suy dinh dưỡng có biểu hiện chậm phát triển thể lực và trí tuệ: trẻ quá thấp, quá gầy so với tuổi, thể lực yếu, học kém. Hậu quả của suy dinh dưỡng thường không thể khắc phục được, với trẻ nhỏ sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và tăng trưởng, khi lớn lên sẽ ảnh hưởng đến khả năng học tập và lao động. Suy dinh dưỡng có thể xảy ra ở bất cứ tuổi nào, tuy nhiên, suy dinh dưỡng có thể phòng tránh được. 2. NGUYÊN NHÂN CHÍNH GÂY RA SUY DINH DƯỠNG TRẺ EM 2.1. Nguyên nhân suy dinh dưỡng protein- năng lượng: Nguyên nhân trực tiếp: Phải kể đến là thiếu ăn về số lượng hoặc chất lượng và mắc các bệnh nhiễm khuẩn. Trẻ em trước tuổi học đường là đối tượng bị suy dinh dưỡng cao nhất bởi vì cơ thể ở giai đoạn phát triển nhanh, nhu cầu dinh dưỡng cao và do không được ăn đầy đủ các chất dinh dưỡng. Nuôi con bằng sữa mẹ không đúng và cho ăn bổ sung không hợp lý đóng vai trò quan trọng đối với suy dinh dưỡng. Không cho trẻ bú sớm sau sinh, không cho trẻ bú sữa non, không cho trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, cai sữa sớm, không tận dụng nguồn sữa mẹ, cho trẻ bú bình, cho trẻ ăn bổ sung quá sớm hoặc quá muộn, thức ăn bổ sung không đủ các chất dinh dưỡng, số lượng thức ăn bổ sung không đủ theo độ tuổi là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến suy dinh dưỡng. Nhiễm khuẩn dễ đưa đến suy dinh dưỡng do rối loạn tiêu hoá, và ngược lại suy dinh dưỡng dễ dẫn tới nhiễm khuẩn do đề kháng giảm. Do đó, tỷ lệ suy dinh dưỡng có thể dao động theo mùa và thường cao trong các mùa các bệnh nhiễm khuẩn lưu hành ở mức cao (tiêu chảy, viêm hô hấp, sốt rét...). Nguyên nhân gốc rễ: là tình trạng đói nghèo, lạc hậu về các mặt phát triển nói chung bao gồm sự mất bình đẳng về kinh tế. 2.2. Các bệnh thường đi kèm: Thông thường suy dinh dưỡng thường đi kèm với tình trạng thiếu các vi chất dinh dưỡng khác, dù có hay không có biểu hiện lâm sàng như thiếu vitamin A, acid folic, sắt... với các mức độ thay đổi theo từng vùng địa phương khác nhau. Một số các vi chất dinh dưỡng trong số đó cũng đang được xem xét gây ra quá trình chậm lớn, chậm phát triển của cơ thể như iod, sắt và kẽm. Như vậy, suy dinh dưỡng protein-năng lượng thực chất là tình trạng bệnh lý do thiếu nhiều chất dinh dưỡng hơn là thiếu protein và năng lượng đơn thuần. Giai đoạn từ khi sinh đến 2 tuổi là giai đoạn cửa sổ quan trọng để trẻ có thể phát triển và tăng trưởng tối ưu về cả thể chất và hành vi. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng đây là thời điểm xuất hiện sự suy giảm về tăng trưởng, thiếu các vi chất quan trọng và tăng các bệnh nhiễm khuẩn thông thường như tiêu chảy, viêm đường hô hấp. Sau khi trẻ qua tuổi thứ 2 thì rất khó có thể biến chuyển được tình trạng thấp còi đã xảy ra trước đó. Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung còn kém, cùng với các bệnh nhiễm khuẩn là những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến suy dinh dưỡng trẻ em trong 2 năm đầu đời. Do đó, nuôi dưỡng trẻ nhỏ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sức khỏe và sự sống còn của trẻ. WHO và UNICEF khuyến nghị rằng trẻ em cần được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu và sau đó được ăn bổ sung đầy đủ hợp lý cùng với bú mẹ kéo dài cho tới 2 tuổi và hơn thế. 3. PHÂN LOẠI 3.1. Phân loại theo lâm sàng Đây là cách phân loại khá kinh điển, gồm các thể thiếu dinh dưỡng nặng sau: Suy dinh dưỡng thể teo đét (Marasmus): Hay gặp trên lâm sàng. Hình 1: Trẻ suy dinh dưỡng nặng thể Marasmus Đó là thể thiếu dinh dưỡng rất nặng, do chế độ ăn thiếu cả năng lượng lẫn protein. Suy dinh dưỡng thể teo đét (Marasmus) có thể xảy ra ngay trong năm đầu tiên, điều này khác với suy dinh dưỡng nặng thể phù (Kwashiorkor)-chủ yếu xảy ra ở nhóm 1-3 tuổi. Cai sữa quá sớm hoặc thức ăn bổ sung không hợp lý là nguyên nhân phố biến dẫn tới thể suy dinh dưỡng này. Khi đó, đứa trẻ rơi vào tình trạng kém ăn, các bệnh nhiễm khuẩn thường gắn liền với vòng luẩn quẩn đó là tiêu chảy và viêm đường hô hấp. Suy dinh dưỡng thể phù (Kwashiorkor): Ít gặp hơn so với thể Marasmus. Bệnh thường gặp ở trẻ trên 1 tuổi, nhiều nhất là giai đoạn từ 1-3 tuổi. Hiếm gặp ở người lớn, nhưng vẫn có thể gặp khi xảy ra nạn đói nặng nề, nhất là đối với phụ nữ. Thường do chế độ ăn quá nghèo về protein và glucid tạm đủ hoặc thiếu nhẹ (nhất là đối với chế độ ăn sam chủ yếu dựa vào khoai sắn). Suy dinh dưỡng thể Kwashiorkor thường kèm theo tình trạng nhiễm khuẩn từ vừa đến nặng. Tình trạng thiếu các vi chất dinh dưỡng như thiếu vitamin A, thiếu máu do thiếu sắt nặng thường biểu hiện khá rõ rệt ở những đứa trẻ bị Kwashiorkor. 3.2. Phân loại suy dinh dưỡng trên cộng đồng Để xác định tình trạng suy dinh dưỡng, chủ yếu người ta dựa vào các chỉ tiêu nhân trắc (cân nặng theo tuổi, chiều cao theo tuổi và cân nặng theo chiều cao). Từ năm 2006 Chuẩn tham khảo của WHO (WHO 2006) được khuyến cáo sử dụng và cho tới nay, đây là thang phân loại được chấp nhận rộng rãi trên thế giới. SDD THỂ NHẸ CÂN: Cân nặng thấp hơn so với mức tiêu chuẩn của trẻ cùng tuổi và giới (sử dụng điểm ngưỡng cân nặng theo tuổi dưới -2SD) 4. HẬU QUẢ CỦA SUY DINH DƯỠNG Trẻ bị suy dinh dưỡng có biểu hiện chậm phát triển thể lực và trí tuệ: trẻ quá thấp, quá gầy so với tuổi, thể lực yếu, học kém. Hậu quả của suy dinh dưỡng thường không thể khắc phục được, với trẻ nhỏ sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và tăng trưởng, khi lớn lên sẽ ảnh hưởng đến khả năng học tập và lao động thể lực, trí lực cũng như một số bệnh mạn tính ở tuổi trưởng thành. Trẻ em là thế hệ tương lai của đất nước, vì vậy sẽ có ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển kinh tế xã hội. Suy dinh dưỡng trẻ em thường để lại những hậu quả nặng nề. Gần đây, nhiều bằng chứng cho thấy suy dinh dưỡng ở giai đoạn sớm, nhất là trong thời kỳ bào thai có mối liên hệ với mọi thời kỳ của đời người. Hậu quả của thiếu dinh dưỡng có thể kéo dài qua nhiều thế hệ. Phụ nữ đã từng bị suy dinh dưỡng trong thời kỳ còn là trẻ em nhỏ hoặc trong độ tuổi vị thành niên đến khi lớn lên trở thành bà mẹ bị suy dinh dưỡng. Bà mẹ bị suy dinh dưỡng thường dễ đẻ con nhỏ yếu, cân nặng sơ sinh (CNSS) thấp. Hầu hết những trẻ có CNSS thấp bị suy dinh dưỡng (nhẹ cân hoặc thấp còi) ngay trong năm đầu sau sinh. Những trẻ này có nguy cơ tử vong cao hơn so với trẻ bình thường và khó có khả năng phát triển bình thường. Chính vì thế, phòng chống suy dinh dưỡng bào thai hoặc trong những năm đầu tiên sau khi ra đời có một ý nghĩa rất quan trọng trong dinh dưỡng theo chu kỳ vòng đời. 5. BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG SUY DINH DƯỠNG Cuối thế kỷ 20, Tổ chức Y tế Thế giới đã coi 4 vấn đề thiếu dinh dưỡng quan trọng nhất ở các nước đang phát triển là thiếu dinh dưỡng protein năng lượng, thiếu vitamin A, thiếu máu thiếu sắt, thiếu iod, trong đó thiếu dinh dưỡng protein năng lượng là quan trọng nhất. 5.1. Chăm sóc dinh dưỡng và sức khoẻ cho bà mẹ có thai và cho con bú Tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe của bà mẹ trước và trong suốt thời kỳ mang thai có ảnh hưởng trực tiếp đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ lúc mới sinh và những tháng đầu tiên của cuộc đời trẻ. Cụ thể bà mẹ nên làm được những điều sau:
5.2. Nuôi con bằng sữa mẹ Trong những năm gần đây, ít có vấn đề được quan tâm nhiều trong dinh dưỡng trẻ em bằng vấn đề sữa mẹ. Sở dĩ như vậy vì: Trước hết sữa mẹ là thức ăn hoàn chỉnh nhất, thích hợp nhất đối với trẻ. Các chất dinh dưỡng có trong sữa mẹ đều dễ hấp thu và tiêu hoá. Nuôi con bằng sữa mẹ là điều kiện để đứa con có nhiều thời gian gần gũi với mẹ, mẹ gần gũi với con. Chính sự gần gũi tự nhiên đó là yếu tố tâm lý quan trọng giúp cho sự phát triển hài hoà của đứa trẻ. Mặt khác, chỉ có người mẹ qua sự quan sát tinh tế của mình những khi cho con bú sẽ phát hiện được sớm nhất, đúng nhất những thay đổi của con bình thường hay bệnh lý. Nuôi con bằng sữa mẹ cần chú ý các đặc điểm sau: 5.3. Thực hiện ăn bổ sung hợp lý Trong 6 tháng đầu, sữa mẹ là thức ăn hoàn chỉnh nhất đối với đứa trẻ. Nhưng từ 6 tháng trở đi, số lượng sữa mẹ không đáp ứng đủ nhu cầu của đứa trẻ đang lớn nhanh. Do đó các bà mẹ cho con ăn sam (ăn bổ sung, ăn dặm), thông thường ở nước ta là các loại bột, nhất là bột gạo. Thức ăn bổ sung cần có đậm độ năng lượng thích hợp: Trong sữa mẹ, 50% năng lượng là do chất béo, trong bột gạo chỉ có 1-3% năng lượng chất béo. Chế độ ăn có đậm độ năng lượng thấp thì phải ăn nhiều hơn mới đáp ứng được nhu cầu, điều đó không dễ thực hiện vì dạ dày của trẻ còn bé, cho nên trẻ đã có cảm giác no ngừng ăn khi chưa đạt yêu cầu. Ở các nước phát triển đậm độ năng lượng của thức ăn bổ sung thường là 2 kcal/1g trong khi ở các nước đang phát triển chỉ có 1kcal/1g, đó là lý do gây nên tình trạng thiếu năng lượng kéo dài. Tăng độ hoà tan của các loại thức ăn bổ sung: Các bột khoai có độ keo đặc thấp hơn bột gạo. Các loại hạt nẩy mầm đem phơi hoặc sấy khô có đậm độ nhiệt lượng cao hơn và độ keo đặc thấp hơn bình thường: nhiều nơi nghiên cứu thành công dùng loại bột các hạt nảy mầm (bột mộng) cho vào thức ăn của trẻ em để tăng độ hoà tan. Hơn thế nữa quá trình mọc mộng còn tăng thêm hàm lượng riboflavin, niacin và sắt. Nhiều nơi ở nước ta đã nghiên cứu và áp dụng thành công phương pháp này. Thức ăn bổ sung cần có đủ và cân đối về các chất dinh dưỡng: Nếu chỉ ăn bột gạo với một tỷ lệ mắm muối, mì chính là không đủ, phải tô màu cho bát bột của trẻ với đầy đủ 8 nhóm thực phẩm theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế Giới. Các thực phẩm nhóm 1 cung cấp phần lớn năng lượng cho cơ thể, các thực phẩm từ nhóm 2 đến nhóm 5 là nguồn cung cấp protein cho cơ thể, các thực phẩm trong nhóm 6 và nhóm 7 là nguồn cung vitamin, chất khoáng và chất xơ, các thực phẩm trong nhóm 8 là nguồn cung cấp dung môi hòa tan các vitamin tan trong chất béo và cũng là nguồn cung cấp năng lượng cho cơ thể .
Ngoài ra, ở Việt Nam cần lưu ý thêm nhóm chất béo (dầu, mỡ). Về số bữa ăn tối thiểu trẻ cần được ăn trong ngày theo độ tuổi: Cũng theo WHO/UNICEF (2010), ở trẻ 6-8 tháng tuổi đang bú mẹ cần được ăn 2 bữa; trẻ 9 – 23 tháng đang bú mẹ cần được ăn 3 bữa. Với trẻ không bú mẹ, tất cả độ tuổi 6-23 tháng đều cần được ăn 4 bữa. Đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng của trẻ em lớn lên theo tháng tuổi: Trẻ em là một cơ thể đang lớn nhanh, một đứa trẻ bình thường sau 5 tháng tuổi cân nặng sẽ tăng gấp đôi, sau 12 tháng cân nặng sẽ tăng gấp 3 so với khi mới ra đời. Vì vậy nhu cầu dinh dưỡng của trẻ tính theo đơn vị cân nặng cao hơn người lớn trong khi sức ăn của trẻ lại có hạn, chức năng miễn dịch của trẻ em chưa được đầy đủ vì vậy, các thiếu sót về vệ sinh trong thời kỳ ăn sam và cai sữa đều có thể gây ra tiêu chảy. Thức ăn bổ sung có đậm độ năng lượng thích hợp vào khoảng 1,5-2 kcal/g. Nếu không đạt được cần phải cho ăn với lượng nhỏ nhiều lần. Đậm độ protein nghĩa là tỷ lệ % năng lượng do protein cung cấp trong chế độ ăn nên đạt được từ 10%-15%. Protein cần đảm bảo chất lượng có đủ acid amin cần thiết. Trong sữa mẹ 50% năng lượng do chất béo cung cấp. Chế độ ăn bổ sung hoặc thay thế sữa mẹ ở ta thường có đậm độ năng lượng thấp là do nghèo chất béo. Do đó, đưa chất béo dưới dạng các loại dầu mỡ vào chế độ ăn của trẻ em là phương hướng hiện nay rất đáng quan tâm. Ngoài ra, chế độ ăn của trẻ cần có đủ các vitamin và khoáng chất: Hàm lượng các vitamin cần thiết trong sữa mẹ thay đổi tuỳ theo chế độ ăn của người mẹ, do đó chế độ ăn của người mẹ khi có thai và cho con bú cần được đảm bảo. Các loại bột gạo xát trắng thường mất hết vitamin này trong khi bột đậu xanh, thịt lợn nạc lại có nhiều. Nhiều trường hợp bệnh xảy ra do chế độ ăn của bà mẹ sau đẻ quá kiêng khem làm cho sữa nghèo vitamin B1. Bệnh khô mắt do thiếu vitamin A là một bệnh thiếu dinh dưỡng nguy hiểm, rất hay gặp ở trẻ em suy dinh dưỡng và có thể gây ra mù loà suốt đời. Lòng đỏ trứng, rau xanh và các loại củ, quả có màu là nguồn của vitamin A và caroten quan trọng. Rau xanh và các loại củ, quả còn cung cấp cho cơ thể trẻ vitamin C. Phòng bệnh còi xương do thiếu vitamin D phải kết hợp giữa chế độ ăn và tắm nắng hợp lý. Dưới tác dụng của các tia tử ngoại chất dehydrocholesterol ở dưới da sẽ chuyển thành vitamin D. Các chất khoáng: Trong sữa mẹ có các chất khoáng quan trọng đối với trẻ như calci và sắt có hàm lượng thích hợp và dễ hấp thu. Chất sắt trong thức ăn được hấp thu nhiều hay ít tuỳ thuộc loại thức ăn, chất sắt trong thức ăn động vật được hấp thu nhiều nhất tiếp theo là đậu đỗ còn trong ngũ cốc được hấp thu ít. Vitamin C có nhiều trong rau quả làm tăng hấp thu chất sắt. 5.4. Đảm bảo bổ sung đầy đủ vitamin A cho trẻ em và bà mẹ sau đẻ Trẻ em 6-36 tháng tuổi cần được bổ sung vitamin A liều cao 2 lần/năm. Các bà mẹ sau đẻ cần được uống 1 liều vitamin A 200.000 IU trong vòng một tháng sau đẻ (xem bài phòng chống thiếu vitamin A). 5.5. Thực hiện nuôi dưỡng tốt khi trẻ bị bệnh. Như trên đã nêu, các bệnh nhiễm khuẩn nhất là tiêu chảy và viêm đường hô hấp khá phổ biến và là nguyên nhân quan trọng dẫn đến suy dinh dưỡng. Vì vậy, cần kết hợp với các hoạt động lồng ghép chăm sóc trẻ ốm cả về y tế và nuôi dưỡng. Cần thay đổi những quan niệm không phù hợp như kiêng mỡ, kiêng rau xanh khi trẻ bị tiêu chảy.Cụ thể cần làm những việc sau: - Tiếp tục và tăng cường cho trẻ bú trong thời gian trẻ bị bệnh. - Với trẻ trên 6 tháng tuổi, hãy tiếp tục cho trẻ ăn bổ sung (ăn dặm) và động viên trẻ ăn. - Trong thời gian hồi phục bệnh, ngay khi trẻ có thể và muốn ăn, hãy cho trẻ ăn nhiều hơn (sữa mẹ và thức ăn bổ sung) và tiếp tục cho ăn nhiều càng lâu càng tốt. - Đưa trẻ đến Trạm y tế để:
5.6. Chăm sóc vệ sinh, phòng chống nhiễm giun Đây là một điểm quan trọng. Trẻ cần được giữ sạch sẽ, rửa tay chân, tắm rửa thường xuyên. Cần đảm bảo vệ sinh trong chế biến thức ăn và cho trẻ ăn. Định kỳ tẩy giun cho trẻ theo chỉ định của y tế. 5.7. Tổ chức giáo dục, tư vấn dinh dưỡng tại cộng đồng và tại các gia đình, theo dõi biểu đồ tăng trưởng Công tác giáo dục và tư vấn dinh dưỡng đóng một vai trò rất quan trọng trong việc thay đổi hành vi nuôi dưỡng của các bà mẹ. Công tác này đòi hỏi sự kiên trì và có phương pháp đúng (xem bài giáo dục dinh dưỡng). Các can thiệp chỉ có hiệu quả bền vững nếu có kết hợp với giáo dục và tư vấn dinh dưỡng. 5.8. Thực hành lý tưởng về nuôi dưỡng trẻ nhỏ 15 thực hành lý tưởng về nuôi dưỡng trẻ nhỏ gồm:
Nguồn: Viện Dinh dưỡng Tin liên quanDinh dưỡng cho trẻ em dưới 5 tuổi Hoạt động giáo dục truyền thông Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và theo dõi tăng trưởng Thiếu Kẽm ở bà mẹ và trẻ em Ăn bổ sung hợp lý Nuôi con bằng sữa mẹ Chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ bệnh Giun và tẩy giun |