Nhiệm vụ của giáo dục so sánh

GIÁO DỤC SO SÁNH

NỘI DUNG

1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ ĐỊNH NGHĨA VỀ GIÁO DỤC SO SÁNH 2.

SỰ PHÁT TRIỂN VÀ CÁC XU HƯỚNG CỦA GIÁO DỤC SO SÁNH

3.

MỤC ĐÍCH CỦA GIÁO DỤC SO SÁNH

4.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU GDSS

5.

CÁC CHỈ SỐ GIÁO DỤC - CÔNG CỤ ĐỂ THỰC HIỆN GIÁO DỤC SO SÁNH

1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ ĐỊNH NGHĨA VỀ GIÁO DỤC SO SÁNH •

Năm 1954, theo giáo sư Isaac Kandel (Khoa SP trường ĐH Tổng hợp Columbia Mỹ): “Giáo dục so sánh phân tích và so sánh các nguồn lực tạo nên sự khác nhau giữa hệ thống

giáo dục quốc của các nước”.

Năm 1960, Goerge Bereday (Nhà NC về GDSS của Khoa SP trường ĐH Tổng hợp Columbia Mỹ): “Giáo dục so sánh nghiên cứu phân tích các hệ thống giáo dục nước ngoài” .

Năm 1969, hai tác giả Harold Noah và Mã Eckstein (trường ĐH Tổng hợp New York): “Giáo dục so sánh nằm ở chỗ giao thoa giữa các môn khoa học xã hội, giáo dục và nghiên cứu xuyên quốc gia”.

Năm 1976, Allan Robert Trethewey (trường ĐH Victoria ở Ôxtrâylia): “Giáo dục so sánh bao giờ cũng hướng sự chú ý vào các tư tưởng, quá trình và thực tiễn trong các xã hội khác”

Năm 1978, M. A. Xôcôlôva (trường DDHSPQG Matxcơva): “Giáo dục so sánh nghiên cứu những nét chung và riêng biệt và xu thế phát triển lý luận cũng như thực tiễn dạy học và giaó dục trong thế giới hiện đại bao gồm các cơ sở kinh tế, chính trị xã hội, triết học, và cả những đặc điểm dân tộc”.

Năm 1981, ông Lê Thành Khôi (GS trường ĐH Paris) “Giáo dục so sánh không chỉ còn liên quan đến việc so sánh các hệ thống giáo dục, mà còn nói đén mối quan hệ của các hệ thống đó với môi trường xung quanh trong phạm vi quốc gia và quốc tế”.

Năm 1982, Philip Altbach (ĐH Tổng hợp bang New York ơ Buffalo): “Giáo dục so sánh tiến hành so sánh hệ thống giáo dục các nước nhằm một mục đích nhiều mặt: hiểu biết quốc tế; cải tiến hoặc cải cách giáo dục ở nước mình hoặc nước ngoài và/hoặc giải thích sự khác nhau giữa các nước”.

Năm 1990 W. D. Halls cùng nhiều tác giả: “Giáo dục so sánh mô tả và phân loại các loại hình giáo dục khác nhau; xác định các mối quan hệ và sự tương tác tồn tại giữa các khía cạnh và nhân tố khác nhau của giáo dục và giữa giáo dục và xã hội; phân biệt các điều kiện cơ bản làm đổi thay giáo dục và tính kế tục của giáo dục”.

Theo tác giả Lê Thành Khôi có 3 loại: •

So sánh siêu quốc gia (comparaison supra-nationale);

So sánh quốc tế hay so sánh giữa các quốc gia (comparaison internationale)

So sánh quốc nội hay trong một quốc gia (comparaison intranationale).

Theo Harold Noah và Max Eckstein thì lại có 4 loại: •

So sánh toàn cầu (global comparison);

So sánh khu vực nhiều quốc gia (regional multinational comparison);

So sánh vùng trong một quốc gia (regional intranational comparison)

So sánh xuyên thời gian (cross-temporal comparison).

Hiện nay giáo dục so sánh là: “Giáo dục so sánh là một môn học nghiên cứu việc so sánh các vấn đề giáo dục xảy ra ở một nơi với vấn đề đó ở một (hoăc vài) nơi khác để biết được tình hình phát triển giáo dục, phân tích và giải thích nguyên nhân sự giống nhau và sự khác biệt và tìm ra cách giải quyết vấn đề, sau đó có thể rút ra được kinh nghiệm thực tế cũng như đóng góp về lý luận cho sự phát triển giáo dục”.

\=> Như vậy giáo dục so sánh là một môn khoa học xã hội có lịch sử hình thành riêng. Mục đích của môn học này là nhằm hiểu biết tốt hơn nền giáo dục nước mình, phát triển, cải tiến hoặc cải cách giáo dục trong nước và nước ngoài, phát triển kiến thức, lý thuyết và nguyên tắc về giáo dục nói chung và về mối quan hệ giữa giáo dục và xã hội, đồng thời nhằm hiểu biết và hợp tác quốc tế để giải quyết các vấn đề về giáo dục, cũng như các vấn đề khác có liên quan mang tính quốc tế. Hệ thống các loại hình giáo dục so sánh được biểu diễn trong Sơ đồ 1.

2. SỰ PHÁT TRIỂN VÀ CÁC XU HƯỚNG CỦA GIÁO DỤC SO SÁNH 2.1 Sự phát triển của giáo dục so sánh Theo Sôcôlova sự phát triển của giáo dục so sánh đã được chia làm ba giai đoạn chính, không kể giai đoạn khởi đầu. - Giai đoạn thứ nhất: Từ cách mạng tư sản phương Tây đến Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng 10 ở nước Nga (cuối thế kỷ 18 đến năm 1917): được đánh dấu bằng thời điểm ra đời tác phẩm của Marc Antoine Jullien năm 1817. Nhiệm vụ của giáo dục so sánh là: + Thu thập tình hình, phân tích và so sánh về giáo dục,

+ Xuất bản tạp chí giáo dục bằng nhiều thứ tiếng + Thực hiện trao đổi ý kiến giữa các đại biểu của các trung tâm khoa học và văn hoá quan trọng nhất của châu Âu về các vấn đề giáo dục. + Vào cuối thế kỷ 19, là thu thập, biên soạn và công bố các tài liệu về kinh nghiệm giáo dục nước ngoài, phát hiện các mắt tích cực của các hệ thống giáo dục khác nhau nhằm mục đích rút ra những kinh nghiệm bổ ích để hoàn thiện hệ thống giáo dục nước mình. + Năm 1900, sự ra đời của những cơ quan nghiên cứu quốc gia và quốc tế về giáo dục so sánh nhằm thu thập, biên soạn và phổ biến một cách hệ thống những tài liệu thông tin, số liệu thống kê về giáo dục của nước mình và trên thế giới

-

Giai đoạn thứ hai: Từ Cách mạng tháng 10 đến khi thiết lập hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới (1917-1945): GDSS phản ảnh mâu thuẫn kinh tế-xã hội và chính trị không những giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau, mà cả giữa các nước tư bản chủ nghĩa.

-

Giai đoạn thứ ba: Từ khi thiết lập hệ thống xã hội chủ nghĩa. Từ năm 1945, tổ chức UNESCO đã đề ra các nhiệm vụ phát triển giáo dục ở quy mô thế giới, đặc biệt là tiến hành thu thập tư liệu cần thiết cho việc nghiên cứu trong lĩnh vực GDSS xuất bản niên giám và sổ tay về tình hình giáo dục ở các nước trên thế giới, tổ chức các hội nghị quốc tế về các vấn đề giáo dục và các vấn đề về Giáo dục so sánh.

Các ấn phẩm về Giáo dục so sánh có thể chia làm hai nhóm:

(i) Các ấn phẩm nghiên cứu về các vấn đề lý luận của Giáo dục so sánh (đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu; mô tả và phân tích hệ thống giáo dục và đào tạo trong các nước hoặc phân tích so sánh các vấn đề giáo dục và dạy học riêng biệt. (ii) Các ấn phẩm về nghiên cứu so sánh các hệ thống giáo dục và những vấn đề giáo dục và giảng dạy riêng biệt.

2.2 Các xu hướng chủ yếu của Giáo dục so sánh: (i) Phát triển khởi đầu từ so sánh giáo dục giữa hai nước, đến về sau nhiều nước hơn; (ii) Phát triển khởi đầu với mục đích thực dụng trong thực tiễn, đến về sau mang nhiều mục đích nâng cao hơn trình độ lý luận; (iii)Phát triển khởi đầu từ việc lấy phạm vi so sánh là cả hệ thống giáo dục một nước so với nước khác, về sau đến từng vấn đề nhỏ, từng tỷ lệ và chỉ số thuộc về giáo dục hoặc liên quan đến giáo dục, nói cách khác, khởi đầu từ phạm vi vĩ mô về sau đến phạm vi vi mô; (iv)Phát triển khởi đầu từ việc lấy đơn vị so sánh từ vấn đề giáo dục giữa các nước (international=quốc tế), về sau một mặt theo chiều hướng mở rộng đến vấn đề giáo dục giữa các giữa các khu vực hoặc các châu lục trên toàn thế giới (supernational=siêu quốc gia), mặt khác theo chiều hướng thu hẹp đến vấn đề giáo dục giữa các địa phương hoặc cơ sở đào tạo khác nhau trong một nước (intranational=quốc nội); (v) Phát triển khởi đầu từ nghiên cứu so sánh thiên về định tính, về sau đến nghiên cứu so sánh thiên về định lượng bằng các chỉ số và tỷ lệ với sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật hiện đại.

3. MỤC ĐÍCH CỦA GIÁO DỤC SO SÁNH

Giáo dục so sánh có 4 mục đích sau đây: -

Mục đích thứ nhất của Giáo dục so sánh là Hiểu biết tốt hơn về giáo dục của địa phương mình:

 Mục đích trên được thể hiện trong quan điểm của nhiều tác giả như Michael Sadler đã từng phát biểu: “Nghiên cứu giáo dục nơi khác sẽ nâng cao hiểu biết về giáo dục ở địa phương mình” .[1] Isaac Kandel lại viết “Nghiên cứu hệ thống nước ngoài nghĩa là một sự tiếp cận có phê phán và một thách thức đối với triết lý giáo dục của bản thân nước mình, và vì thế đó chính là sự phân tích rõ hơn bối cảnh và cơ sở của hệ thống quốc gia mình”[2]. Khi đó, người ta coi phạm vi so sánh là cả hệ thống giáo dục của quốc gia.  Khi chuyển sang thời kỳ mà phạm vi so sánh từ vĩ mô sang vi mô, từ quốc tế sang quốc nội, đối tượng so sánh có thể là một vấn đề nhỏ của hệ thống giáo dục xảy ra ở một nơi, một địa phương, một cơ sở đào tạo. Giáo dục so sánh có một mục đích phổ biến hơn, đó là nghiên cứu giáo dục ở nơi khác để nâng cao sự hiểu biết nơi mình, không kể các nơi đó nằm ở nhiều nước hay trong một nước, có phạm vi to hay nhỏ [1] Michael Sadler: Guildford lecture. London, 1900. [2] Isaac Kandel: Comparative Education. Houghton Mifflin, Boston, 1933, p.20.

-

Mục đích thứ hai của Giáo dục so sánh là phát triển, cải tiến hoặc cải cách giáo dục ở nơi mình và nơi khác, ở trong và ngoài nước: Nicolas Hans đã viết: “Lĩnh vực Giáo dục so sánh có đặc tính năng

động với mục đích tận dụng, nhìn vào tương lai với một dự định kiên quyết cải cách”[1]; George Bereday đã viết: “Giáo dục so sánh liệt kê các phương pháp xây dưng nền giáo dục vượt qua biên giới các nước và trong sự liệt kê này mỗi nước xuất hiện như một phương án trong kho tàng chung các kinh nghiệm giáo dục của nhân loại. Nếu có cách sắp xếp tốt bảng liệt kê đó, ta có thể thấy các màu sắc tương phản và giống nhau của viễn cảnh thế giới, và sẽ làm cho mỗi nước có nhiều khả năng tiếp thu được các bài học về phát triển giáo dục”[2]. Theo Brian Holmes “Giáo dục so sánh là một môn của khoa học giáo dục cho ta sức mạnh chỉ đạo để phát triển, ta có thể dụng nó với một sự chính xác và chặt chẽ hơn trong công cuộc cải cách và phát triển giáo dục một cách có kế hoạch”[3]. [1] Nicolas Hans: English Pioneers of Comparative Education. British Journal of Comparative Educational Studies, London, 1952, pp 56-59. [2] George Bereday: Comparative Method in Education. Holt, Rinehart and Winston, New York, 1964, p.5. [3] Brian Holmes: Problems in Education, A Comparative Approach. Routledge and Kegan Paul, London, 1965, p.3.

Arnold Anderson đã viết: “ Chẳng có gì tự nhiên hơn là tin rằng những sai sót của nhà trường chúng ta đã từng được tránh ở một nước nào đó”[1]. Edmund King viết: “Gắn với mọi nghiên cứu so sánh giáo dục là cải cách. Điều quan trọng nhất là cần biết rằng sự đề xuất cuối cùng của nghiên cứu so sánh là ý đồ cải cách. Cải cách không phải là đặc biệt chỉ ở ý nghĩa đổi mới một cái gì khác trước, mà đặc biệt hơn ở ý nghĩa thách thức đối với tư duy cố hữu của bản thân chúng ta, đối với những gì chúng ta coi như là dĩ nhiên về mặt xã hội và nghề nghiệp”[2].

- Mục đích thứ ba của Giáo dục so sánh phát triển kiến thức, lý luận, nguyên tắc và quy luật về giáo dục nói chung và về mối quan hệ giữa giáo dục và xã hội: từ kết quả so sánh có thể đề xuất những điều khái quát hoá để trở thành những kiến thức phổ biến, những lý luận, những nguyên tắc và những quy luật trong giáo dục. Để thực hiện được mục đích thứ ba này Giáo dục so sánh phải xây dựng thành một khoa học thực sự, phải nghiên cứu có hệ thống, có điều khiển, có thực nghiệm, và nơi nào có thể sẽ nghiên nghiên cứu định lượng để chứng minh rõ ràng các giả thuyết đã lập ra.[3 [1]

Arnold Anderson: The Methodology of Comparative Education. International Review of Education vii, Hamburg, 1961-1962, p.1. [2] Edmund King: Other Schools and Ours. Holt and Rinehart and Winston, New York, 1973, p.42. [3] Harold Noah, Max Eckstein: Toward a Science of Comparative Education. Macmillan, Toronto, 1969, p.189.

-

Mục đích thứ tư của Giáo dục so sánh là hiểu biết và hợp tác quốc tế, giải quyết các vấn đề giáo dục cũng như các vấn đề khác có liên quan thuộc phạm vi quốc tế: Giáo dục so sánh đóng góp vào sự phát triển một tinh thần quốc tế không dựa trên xúc cảm hoặc tình cảm, mà nảy sinh từ sự hiểu biết trân trọng các nước khác cũng như bản thân nước mình, với ý nghĩa là mọi quốc gia thông qua hệ thống giáo dục của mình đang đóng góp, mỗi nước bằng con đường riêng của mình, vào công việc chung và sự tiến bộ của thế giới, và với ý nghĩa thực hiện những tham vọng và lý tưởng

mà mỗi quốc gia nỗ lực đạt được thông qua nhà trường của mình. Như vậy, về phương diện mục đích giáo dục so sánh đã trải qua ba giai đoạn chính: - Giai đoạn I là tìm hiểu các nền giáo dục quốc tế trên cơ sở mô tả các hệ thống giáo dục, cách tổ chức trường học, chương trình học với mục đích "vay mượn" những cái người ta cho là hay nhất của nước ngoài để áp dụng tại nước mình. - Giai đoạn II là giai đoạn tiếp theo giai đoạn "vay mượn", người ta trải quá trình chuẩn bị để tìm hiểu những yếu tố xã hội, văn hoá ảnh hưởng ảnh hưởng đến hệ thống giáo dục của mỗi quốc gia. - Giai đoạn III là giai đoạn "Hợp tác quốc tế " nhằm tạo nên sự hiểu biết lẫn nhau giữa các quốc gia. Trong giai đoạn này, người ta tìm hiểu các nền giáo dục nước ngoài để học tập những gì được coi là thành công ở nước ngoài.

Với quan điểm và mục đích của giáo dục so sánh, ta thấy rằng nền giáo dục thê giới là một bức tranh nhiều màu sắc, không nhất thiết phải giống nhau mà nhiều khi tương phản với nhau, từ đó ta có thể phân loại, đánh giá các nền giáo dục khác nhau một cách khách quan và cũng từ đó có thể rút ra những bài học cho chính mình. Tìm hiểu các nền giáo dục quốc tế không chỉ nhằm mục đích "hợp tác quốc tế" để giải quyết vấn đề chung, mà nó còn là phương tiện đề "hiểu người" và "hiểu mình".

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU GDSS Việc tìm hiểu giáo dục quốc tế được thực hiện qua ba phương tiện chủ yếu là:

Các tài liệu giáo dục nước ngoài;

Các báo chí nước ngoài;

Các cuộc du hành , quan sát ngắn hạn.

Nghiên cứu so sánh giáo dục các quốc gia đòi hỏi phải tiến hành theo ba giai đoạn: •

Nghiên cứu hệ thống giáo dục của từng quốc gia riêng rẽ hay của một vùng bao gồm một số quốc gia có điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội tương tự;

Nghiên cứu so sánh các nền giáo dục khác nhau quanh một số vân sđề giáo dục được lựa chọn có liên hệ mật thiết đến những vấn đề đang được đặt ra tại nước mình;

Phân tích tổng thể các nền giáo dục

Về phương diện phương pháp, lịch sử của giáo dục so sánh cho thấy một nghiên cứu thường được tiến hành theo bốn bước: •

Mô tả các dữ kiện giáo dục;

Nghiên cứu các sự kiện, dữ kiện giáo dục, sư phạm và giải thích trong bối cảnh lịch sử, văn hoá, xã hội, kinh tế của từng quốc gia riêng rẽ;

Nghiên cứu các sự kiện, dữ kiện giáo dục, sư phạm và giải thích trong bối cảnh lịch sử, văn hoá, xã hội , kinh tế của từng quốc gia nhưng đặt một số các quốc gia cạnh nhau để nêu ra những sự giống nhau và khác biệt, từ đó đưa ra những giả thuyết để so sánh;

So sánh một số các quốc gia quanh một số vấn đề chung, đặc biệt là những vấn đề đang được xem xét là mối quan tâm tại nước mình.

Để thực hiện những cuộc nghiên cứu nhằm tìm hiểu từng quốc gia hay từng vùng nhỏ, kinh nghiệm của các nhà giáo dục so sánh

cho thấy có bốn điều kiện căn bản đòi hỏi các nhà nghiên cứu, đó là: (i)

Đọc tài liệu liên quan đến quốc gia hay vùng mà mình muốn nghiên cứu;

(ii)

Hiểu biết ngôn ngữ của quốc gia ấy, hay thứ ngôn ngữ phổ biến nhất mà quốc gia ấy sử dụng;

(iii)

Cư trú tại quốc gia ấy hay thực hiện những cuộc du hành nghiên cứu có chuẩn bị chu đáo;

(iv)

Biết kiềm chế những thành tích, thiên vị của cá nhân hay tư tưởng văn hoá - xã hội của riêng quốc gia mình.

5. CÁC CHỈ SỐ GIÁO DỤC - CÔNG CỤ ĐỂ THỰC HIỆN GIÁO DỤC SO SÁNH 5.1 Khái niệm về chỉ số giáo dục •

Các chỉ số giáo dục được xây dựng nhằm mục đích phản ánh, đo đạc các sự kiện hoặc những thay đổi của các cơ

quan trong toàn bộ hệ thống giáo dục.

Chỉ số giáo dục (educational indicator) là một công cụ để phản ánh về hoạt động của hệ thống giáo dục quốc dân nhằm báo cáo với Chính phủ và xã hội .

Chỉ số giáo dục không phải là một thành tố cơ bản của thông tin mà là thông tin được xử lý để nghiên cứu các vấn đề về giáo dục.

Chỉ số giáo dục là số liệu thống kê đơn lẻ hay tập hợp thường có liên quan đến một vấn đề cơ bản của giáo dục và cho biết sự hoạt động của nó như thế nào.

Theo phân loại của Tổ chức Hợp tác kinh tế để phát triển (OECD) về các chỉ số giáo dục thì chúng được chia thành 3 nhóm chính sau: •

Các chỉ số đơn giản (simple indicators), thường được sử dụng để diễn tả dưới dạng các minh họa tuyệt đối và được dùng để miêu tả thực tế không thiên vị một tình huống, một quá trình.

Các chỉ số thực hiện (performance indidcators) bao hàm một điểm lưu ý tham khảo, ví dụ một tiêu chuẩn, một đối tượng, một sự đánh giá, một sự so sánh của trường... và do vậy chúng có đặc điểm tương đối hơn là tuyệt đối. Ví dụ số học sinh tốt nghiệp là một chỉ số đơn giản còn tỉ lệ học sinh tốt nghiệp trên số học sinh nhập học và năm nào trước đó là một chỉ số thực hiện. Chỉ số đơn giản có tính trung lập hơn trong hai loại chỉ số. Mặc dù vậy cũng có thể nói rằng chỉ số đơn giản có thể trở thành chỉ số thực hiện nếu xem xét giá trị có liên quan.

Các chỉ số chung (general indicator) là hệ thống các chỉ số giáo dục có thể cung cấp thông tin về đầu vào (các nguồn tài chính, cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, hoàn cảnh học sinh...); về quá trình dạy và học (cấu trúc và tổ chức trường học, chất lượng chương trình học, chất lượng giảng dạy, chất lượng đào tạo); về sản phẩm đầu ra của giáo dục (thành quả học tập của học sinh, sư tham gia vào xã hội hay việc làm, thái độ và nguyện vọng khi làm việc).

Sự tương tác giữa các chỉ số giáo dục trong hệ thống giáo dục được mô tả qua sơ đồ (xem Sơ đồ 2)

5.2 Một số các chỉ số giáo dục cơ bản Trong các tài liệu thống kê, số liệu về giáo dục hoặc liên quan đến giáo dục thường xuất hiện dưới ba dạng sau đây: -

Các con số tổng cộng (total), thí dụ như số trường, số giáo viên và số học sinh (chung là tổng số hoặc riêng cho nam hoặc nữ);

-

Các số tỷ lệ (rate, ratio), thông thường có thể tính ra phần trăm, phần ngàn, phần vạn hoặc phần mười vạn, tùy theo trị số đó lớn hay nhỏ; thí dụ như tỷ lệ biết chữ, tỷ lệ trẻ em học đến lớp 5, tỷ lệ đi học và tỷ lệ sinh viên trên dân số, tỷ lệ nữ trong tổng số hoặc nữ so với nam của giáo viên hay học sinh, sinh viên, tỷ lệ chi tiêu cho giáo dục công cộng trên tổng sản phẩm quốc gia GNP hoặc trên tổng chi tiêu của Chính phủ hay còn gọi là ngân sách Nhà nước. Cũng có một số trường hợp cụ thể, tỷ lệ không viết dưới dạng phần trăm mà dưới dạng phân số, thí dụ như tỷ lệ giáo viên/học sinh.

-

Các chỉ số (index, indicator) về giáo dục, bao gồm chỉ số giáo dục được tính ra từ một vài số tỷ lệ về giáo dục, và các chỉ số khác liên quan đến giáo dục, trong đó chứa đựng nhiều thành phần, nhưng có ít nhất một thành phần thuộc về giáo dục, thí dụ như chỉ số phát triển con người, chỉ số phát triển về giới và chỉ số nghèo của con người.