Phân tích nguồn gốc ra đời của tiền tệ

Câu trả lời gồm hai ý lớn cho câu hỏi “Phân tích nguồn gốc và bản chất của tiền?”

1) Nguồn gốc của tiền.

Tiền là kết quả quá trình phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hoá của các hình thức giá trị hàng hóa.

Các hình thức giá trị hàng hóa

a) Hình thức giản đơn hay ngẫu nhiên của giá trị là hình thức phụi thai của giá trị, nú xuất hiện trong giai đoạn đầu của trao đổi hàng hoá, trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên, trực tiếp đổi vật này lấy vật khác.

Ví dụ: 1m vải đổi lấy 10 kg thóc. Ở đây, giá trị của vải được biểu hiện ở thóc. Cũn thúc là cỏi được dùng làm phương tiện để biểu hiện giá trị của vải. Với thuộc tính tự nhiên của mỡnh, thúc trở thành hiện thân giá trị của vải. Sở dĩ vậy vì bản thõn thúc cũng có giá trị. Hàng hóa (vải) mà giá trị của nú được biểu hiện ở một hàng hoá khác (thóc) thỡ gọi là hình thức giá trị tương đối. Cũn hàng hóa (thúc) mà giá trị sử dụng của nú biểu hiện giá trị của hàng hóa khỏc (vải) gọi là hình thức vật ngang giỏ.

Hình thái vật ngang giá có ba đặc điểm

+) giá trị sử dụng của nó trở thành hỡnh thức biểu hiện giá trị.

+) lao động cụ thể trở thành hỡnh thức biểu hiện lao động trừu tượng.

+) lao động tư nhân trở thành hỡnh thức biểu hiện lao động xã hội.

Hình thức giá trị tương đối và hình thức vật ngang giỏ là hai mặt liờn quan với nhau, khụng thể tỏch rời nhau, đồng thời, là hai cực đối lập của một phương trỡnh giá trị. Trong hình thức giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên thỡ tỷ lệ trao đổi chưa thể cố định.

b) Hình thức giá trị đầy đủ hay mở rộng. Khi lực lượng sản xuất phát triển hơn, chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, trao đổi trở nên thường xuyên hơn, một hàng hoá này có thể quan hệ với nhiều hàng hoá khác. Tương ứng với giai đoạn này là hình thức đầy đủ hay mở rộng.

READ:  Phân tích nguồn gốc bản chất vai trò của pháp luật

Ví dụ: 1m vải = 10 kg thóc, hoặc = 2 con gà, hoặc = 0,1 chỉ vàng. Đây là sự mở rộng hình thức giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên. Ở vị dụ trên, giá trị của 1m vải được biểu hiện ở 10 kg thóc hoặc 2 con gà hoặc 0,1 chỉ vàng.

Như vậy, hình thức vật ngang giỏ đó được mở rộng ra ở nhiều hàng hoá khác nhau. Tuy nhiên, vẫn là trao đổi trực tiếp, tỷ lệ trao đổi chưa cố định.

c) Hình thức chung của giá trị. Với sự phát triển cao hơn nữa của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, hàng hóa được trao đổi thường xuyên, đa dạng và nhiều hơn. Nhu cầu trao đổi trở nên phức tạp hơn, người có vải muốn đổi thóc, nhưng người có thóc lại không cần vải mà lại cần thứ khác. Vì thế, việc trao đổi trực tiếp không cần thích hợp mà người ta phải đi đường vòng, hàng hoá của mình đổi lấy thứ hàng hoá được nhiều người ưa chuộng, rồi đem đổi lấy thứ hàng hoá mình cần. Khi vật trung gian trong trao đổi được cố định lại ở thứ hàng hoá được nhiều người ưa chuộng, thì hình thức chung của giá trị xuất hiện.

Ví dụ: 10 kg thóc hoặc 2 con gà hoặc 0,1 chỉ vàng = 1 mét vải. Ở đây, tất cả các hàng hoá đều biểu hiện giá trị của mỡnh ở cựng một thứ hàng hóa đóng vai trũ là vật ngang giỏ chung. Tuy nhiờn, vật ngang giá chung chưa ổn định ở mọi thứ hàng hoá nào; trong các địa phương khác nhau thỡ hàng hóa dựng làm vật ngang giỏ chung cũng khác nhau.

d) Hình thức tiền.

Khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển hơn nữa, sản xuất hàng hoá và thị trường ngày càng mở rộng, thỡ tỡnh trạng có nhiều vật ngang giỏ chung làm cho trao đổi giữa các địa phương vấp phải khó khăn, xuất hiện đòi hỏi khỏch quan phải hỡnh thành vật ngang giỏ chung thống nhất. Khi vật ngang giỏ chung được cố định lại ở một vật độc tôn và phổ biển thỡ xuất hiện hình thức tiền tệ của giá trị.

Ví dụ: 10 kg thóc; 1mét vải, 2 con gà = 0,1 gr vàng (vật ngang giá chung, cố định); trong trường hợp này, vàng trở thành tiền tệ.

Lúc đầu có nhiều kim loại đóng vai trũ tiền, nhưng về sau được cố định lại ở các kim loại quý như vàng, bạc và cuối cùng là vàng. Vàng đóng vai trũ tiền là do những ưu điểm của nó như thuần nhất về chất, dễ chia nhỏ, không hư hỏng, với một lượng và thể tích nhỏ nhưng chứa đựng được lượng giá trị lớn.

Tiền xuất hiện là kết quả phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hoá, khi tiền ra đời thỡ hàng hoá được phân thành hai cực; một bên là các hàng hoá thông thường; một bên là hàng hoá (vàng) đóng vai trũ tiền. Đến đây giá trị các hàng hoá đó có một phương tiện biểu hiện thống nhất. Tỷ lệ trao đổi được cố định lại.

2) Bản chất của tiền.

Tiền là một hàng hoá đặc biệt được tách ra từ hàng hoá làm vật ngang giá chung cho tất cả các hàng hóa đem trao đổi; nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá.

Câu 5: Phân tích nguồn gốc bản chất chức năng của tiền tệ.

Trả lời: a. Tiền tệ xuất hiện là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hóa, của các hình thái giá trị hàng hóa.

Các hình thái giá trị hàng hóa:

+ Hình thái giản đơn (hay ngẫu nhiên) ở hình thái này, hàng hóa thứ nhát biểu hiện giá trị của nó ở hàng hóa thứ hai, còn hàng hóa thứ hai đóng vai trò là vật ngang giá.

+ Hình thái giá trị mở rộng. Khi số hàng hóa trao đổi trên thị trường nhiều hơn, thì một hàng hóa có thể trao đổi với nhiều hàng hóa khác.

+ Hình thái giá trị chung: Khi hàng hóa phát triển hơn, trao đổi hàng hóa trở nên rộng rãi hơn, thì có một hàng hóa được tách ra làm vật ngang giá chung. Vật ngang giá chung có thể trao đổi với bất kỳ hàng hóa nào. Vật ngang giá chung trở thành phương tiện trao đổi. Mỗi địa phương thường có những vật ngang giá chung khác nhau.

+ Hình thái tiền tệ: Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển cao hơn nữa. Vật ngang giá chung được cố định ở vàng và bạc thì hình thái tiền tệ ra đời.

Khi tiền tệ ra đời, thế giới hàng hóa được chia ra hai cực: Một cực là hàng hóa thông thường, một cực là hàng hóa đóng vai trò tiền tệ. Vậy tiền tệ là hàng hóa đặc biệt, đóng vai trò là vật ngang giá chung cho tất cả các hàng hóa khác.

b. Chức năng của tiền tệ.

Khi kinh tế hàng hóa phát triển, tiền tệ có 5 chức năng:

+ Thước đo giá trị: giá trị của hàng hóa được biểu hiện bằng số lượng tiền nhất định. Sở dĩ có thể làm thước đo giá trị vì bản thân tiền cũng có giá trị.

Giá trị của hàng hóa biểu hiện bằng tiền là giá cả. Do đó, giá trị là cơ sở của giá cả. Giá cả hàng hóa thay đổi lên xuống xoay quanh giá trị tùy theo quan hệ cung-cầu về hàng hóa, nhưng tổng số giá cả luôn bằng tổng số giá trị hàng hóa.

+ Phương tiện lưu thông. Tiền tệ làm môi giới trung gian trong trao đổi hàng hóa và phải là tiền mặt việc trao đổi hàng hóa vận dụng theo công thức: H-T-H.

+ Phương tiện cất trữ: Làm chức năng này tiền phải có đủ giá trị nh­ vàng, bạc.

+ Phương tiện thanh toán: Kinh tế hàng hóa phát triển đến một mức độ nào đó sẽ sinh ra việc mua bán chịu. Tiền tệ là phương tiện thanh toán, thực hiện trả tiền mua, bán chịu, trả nợ. Chức năng này phát triển làm tăng thêm sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng hóa.

+ Tiền tệ thế giới: Khi quan hệ trao đổi mua, bán, hàng hóa vượt khỏi biên giới quốc gai và quan hệ buôn bán giữa các nước hình thành, thì chức năng này xuất hiện. Tiền tệ thế giới phải là tiền có đủ giá trị tức là vàng, bạc.

Nguồn gốc của tiền tệ

Tiền ra đời là kết quả phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Quá trình phát triển của các hình thái biểu hiện của giá trị:

>> Xem thêm:

– Đầu tiên là hình thái giản đơn, ngẫu nhiên của giá trị. Hình thái này xuất hiện khi xã hội nguyên thủy tan rã và chỉ thường gặp ở những mầm mống đầu tiên của trao đổi. Ở đây, giá trị của hàng hóa này chỉ biểu hiện đơn nhất ở một hàng hóa khác và quan hệ trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên, trực tiếp hàng lấy hàng, tỷ lệ trao đổi được hình thành ngẫu nhiên ==> hình thái phôi thai của tiền tệ.

– Khi quan hệ trao đổi trở thành quá trình đều đặn, thường xuyên, thúc đẩy sản xuất hàng hóa ra đời và phát triển thì hình thái thứ hai là hình thái đầy đủ hay mở rộng của hàng hóa ra đời. Hình thái này xuất hiện trong thực tế khi một hàng hóa nào đó được trao đổi với nhiều hàng hóa khác một cách thông thường phổ biến. Ở đây, giá trị của hàng hóa được biểu hiện ở nhiều hàng hóa khác nhau đóng vai trò làm vật ngang giá. Đồng thời tỷ lệ trao đổi không còn mang tính chất ngẫu nhiên nữa mà dần dần do lao động quy định. Tuy nhiên, ở hình thái này, giá trị của hàng hóa được biểu hiện còn chưa hoàn tất, thống nhất và vẫn trao đổi trực tiếp hàng – hàng.

– Do đó, khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển hơn, đòi hỏi phải có vật ngang giá chung, hình thái thứ ba xuất hiện: Hình thái chung của giá trị. Ở hình thái này, giá trị của mọi hàng hóa được biểu hiện ở một hàng hóa đóng vai trò làm vật ngang giá chung – “vật ngang giá phổ biến”. Các hàng hóa đều đổi thành vật ngang giá chung, sau đó mới mang đổi lấy hàng hóa cần dùng. Vật ngang giá chung trở thành môi giới. Tuy nhiên, ở hình thái này, bất kỳ hàng hóa nào cũng có thể trở thành vật ngang giá chung, miễn là nó được tách ra làm vật ngang giá chung.

Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển hơn nữa, đặc biệt là khi mở rộng giữa các vùng đòi hỏi phải có một vật ngang giá chung thống nhất thì hình thái thứ tư ra đời: hình thái tiền. Giá trị của tất cả các hàng hóa ở đây đều được biểu hiện ở một hàng hóa đóng vai trò tiền tệ. Lúc đầu có nhiều hàng hóa đóng vai trò tiền tệ nhưng dần dần được chuyển sang các kim loại quý như đồng, bạc và cuối cùng là vàng.

Bản chất của tiền tệ

Tiền là một loại hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho tất cả các loại hàng hóa. Nó là sự thể hiện chung của giá trị, đồng thời nó biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa.

Chức năng của tiền tệ

Tiền là thước đo giá trị, là phương tiện lưu thông, phương tiện cất trữ, phương tiện thanh toán và tiền tệ thế giới:

(i) Tiền là thước đo giá trị, tức là nó dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của các hàng hóa khác. Khi đó, giá trị của hàng hóa được biểu hiện bằng một lượng tiền nhất định gọi là giá cả hàng hóa. Giá cả hàng hóa là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa. Giá cả hàng hóa có thể lên xuống xung quanh giá trị nhưng tổng số giá cả luôn bằng giá trị.

(ii) Tiền làm môi giới trong trao đổi hàng hóa, tức là tiền đóng vai trò là một phương tiện lưu thông. Khi ấy, trao đổi hàng hóa vận động theo công thức H – T – H’. Đây là công thức lưu thông hàng hóa giản đơn. Với chức năng này, tiền xuất hiện dưới các hình thức vàng thỏi, bạc nén, tiền đúc và cuối cùng là tiền giấy. Tiền giấy là ký hiệu giá trị do nhà nước phát hành buộc XH công nhận. Tiền giấy không có giá trị thực (không kể đến giá trị của vật liệu giấy dùng làm tiền). Khi thực hiện chức năng này, tiền giúp quá trình mua bán diễn ra dễ dàng hơn nhưng nó cũng làm việc mua bán tách rời nhau cả về không gian lẫn thời gian nên nó bao hàm khả năng khủng hoảng.

(iii) Tiền đôi khi được rút khỏi lưu thông và cất giữ lại. Chỉ có tiền vàng, tiền bạc, các của cải bằng vàng có giá trị thực mới thực hiện được chức năng lưu trữ. Ngoài ra, tiền làm phương tiện cất trữ còn có tác dụng đặc biệt là dự trữ tiền cho lưu thông.

(iv) Tiền làm phương tiện thanh toán có tác dụng đáp ứng kịp thời nhu cầu của người sản xuất hoặc tiêu dùng ngay cả khi họ chưa có tiền hoặc không đủ tiền. Nhưng nó cũng làm cho khả năng khủng hoảng tăng lên. Trong quá trình thực hiện chức năng thanh toán, loại tiền mới – tiền tín dụng – xuất hiện, có nghĩa là hình thức tiền đã phát triển hơn.

(v) Chức năng cuối cùng của tiền là tiền tệ thế giới. Chức năng này xuất hiện khi buôn bán vượt ra ngoài biên giới quốc gia, hình thành quan hệ buôn bán giữa các nước.

Khi thực hiện chức năng này, tiền thực hiện các chức năng: thước đo giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán, tín dụng, di chuyển của cải từ nước này sang nước khác. Thực hiện chức năng này phải là tiền vàng hoặc tiền tín dụng được công nhận là phương tiện thanh toán quốc tế. Việc trao đổi tiền của nước này sang tiền của nước khác tuân theo tỷ giá hối đoái, tức là giá cả của một đồng tiền nước này được tính bằng đồng tiền của nước khác.

Tóm lại, cùng với sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa, tiền có 5 chức năng. Những chức năng này có quan hệ mật thiết và thông thường tiền làm nhiều chức năng một lúc.