Phân tích truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan

Đề bài: Phân tích truyện ngắn Tinh thần thể dục của Nguyễn Công Hoan.

Bài làm

     Nguyễn Công Hoan là nhà văn trào phúng xuất sắc với những tác phẩm nổi tiếng như "Kép Tư bền", "Bước đường cùng", "Hai thằng khốn nạn",...Và tiêu biểu trong số đó không thể không kể đến truyện ngắn "Tinh thần thể dục". Đây là tác phẩm thẳng thắn tố cáo tính chất bịp bợm của "phong trào thể dục thể thao" mà thực dân Pháp sử dụng để đánh lạc hướng lòng yêu nước của nhân dân ta.

     Truyện ngắn này gồm năm cảnh tưởng chừng như rời rạc và không có sự liên kết nhưng thực chất chúng lại kết hợp với nhau để cùng bộc lộ chủ đề chung. Nhắc đến các phong trào thể dục thể thao, người ta thường liên tưởng tới sự khỏe khoắn, vui vẻ, đây là dịp để mọi người giao lưu, giải trí. Nhưng khác với quy luật tâm lí thông thường đó, phong trào thể dục thể thao đối với những người dân xã Ngũ Vọng lại trở thành một tai họa khôn lường. Hành động tham gia cổ vũ cho trận đấu là hành động hoàn toàn tự nguyện nhưng quan tri huyện lại có phiến trát gửi đến hương lí xã Ngũ Vọng để yêu cầu "các thầy thông báo cho dân làng biết và phải thân dẫn đủ một trăm người, đúng 12 giờ trưa đến xem, không được khiếm diện" vào "ngày 19 Mars này, tức 29 tháng giêng An Nam, tại sân vận động huyện". Không chỉ vậy, những người đi xem đá bóng phải "ăn mặc tử tế, đi đứng nghiêm chỉnh, và phải vỗ tay luôn luôn, vì hôm ấy có nhiều quan khách". Đáng lẽ hoạt động đó cần tinh thần tự giác, tự nguyện của nhân dân thì các quan huyện dưới quyền thống trị của thực dân Pháp lại biến nó trở thành hành động bắt buộc. Vì thế trận đấu bóng đá cũng mất đi phần nào sự hào hứng, phấn khởi của các cổ động viên.

     Nguyễn Công Hoan đã tái hiện lại năm cảnh với những hoàn cảnh khác nhau mà nhân dân lao động gặp phải. Nội dung cảnh thứ nhất là việc anh Mịch đến xin ông lí không đi xem đá bóng vì phải "đi làm trừ nợ cho ông nghị" nhưng không được chấp thuận. Ông lí không quan tâm đến việc anh Mịch có thể sẽ bị ông nghị đánh chết vì anh ta không đi làm trừ nợ, ông lí cũng không quan tâm đến việc vợ con anh ta sẽ chết đói mà chỉ quan tâm đến số lượng, quan tâm đến chỉ thị của cấp trên: "Chết đói hay chết no, tao đây không biết, nhưng giấy quan đã sức, tao cứ phép tao làm. Đứa nào không tuân, để quan gắt, tao trình thì rũ tù". Cảnh thứ hai mở ra với lời lạy thưa của bác Phô gái xin cho chồng mình không đi xem đá bóng vì ông ấy bị ốm. Nhưng ông lí đã đáp lại nguyện vọng của bác Phô bằng những lời lẽ sắc lạnh: "Ốm gần chết cũng phải đi. Lệnh quan như thế. Ai cũng lấy cớ ốm yếu mà không đi, thì người ta đá bóng cho chó xem à"? Ông không chấp nhận người đàn bà đi xem thay chồng vì "nữ nhân ngoại tộc". Ngay cả đến những người ốm yếu ông lí cũng không tha mà bắt đi xem đá bóng cho bằng được. Con trai của cụ phó Bính vì hôm đó bận đi ăn cưới nên bà cụ chọn cách thuê người đi thay và đút lót cho ông lí ba hào để ông làm phúc. Tuy vậy ông lí vẫn chưa yên tâm vì "việc quan nào phải việc chơi, ông sợ thằng Sang "ăn mặc như thằng ăn mày" lại không đúng với yêu cầu của quan rằng tất cả mọi người đi xem phải "ăn mặc tử tế".

     Mười hai giờ trưa mới phải có mặt ở sân vận động huyện nhưng tờ mờ sáng đã nghe thấy tiếng "quát tháo om sòm" của ông lí ở sân đình: "Thiếu những mười tám thằng kia à? Tuần đâu, đến tận nhà chúng nó, lôi cổ chúng nó ra đây. Chứ đã hẹn đi lại còn định chuồn phỏng"! ; "Hễ đứa nào láo, cứ đánh sặc tiết chúng nó ra, tội vạ ông chịu". Và bọn lính tuần đã bắt được anh Cò "nằm ẹp với con ở cạnh đống rơm, phủ lên mình đầy rơm". Anh không đi xem đá bóng vì đi xem sẽ mất buổi làm, cả hai bố con sẽ nhịn đói. Không đợi anh phân trần, giải thích thì lính tuần "lôi xềnh xệnh đi". Cuối cùng là cảnh chín mươi tư người, xếp hàng năm lại, đi đều để lên sân vận động huyện xem đá bóng và tiếng chửi của ông lí: "Chúng nó ngu như lợn. Người ta cho đi xem đá bóng chứ ai làm gì mà cũng phải bắt. Rồi quan thấy không đủ số, lại chửi ông không bận tâm". Hóa ra ông lí chỉ quan tâm đến việc phục tùng lệnh quan mà không linh hoạt trong việc xem xét lí do, hoàn cảnh thực tế mà họ đang gặp phải. Dù người dân có van xin hay nài nỉ thì ông lí cũng không mảy may bận tâm. Chỉ bà cụ phó Bính có tiền lo lót nên ông lí mới trách nhẹ: "Làm việc mà cứ gặp phải những người như con bà, thì tôi đến chết mất" rồi cầm lấy tiền bỏ vào túi.

     Chỉ là một buổi đi xem đá bóng mà quan trên phải dùng đến lệnh để bắt buộc mọi người tham gia đầy đủ. Mâu thuẫn trào phúng cũng vì thế mà trở nên đặc sắc. Do đâu mà đối với người dân việc đi xem đá bóng lại trở thành tai họa? Phải chăng, khi cuộc sống quá nghèo túng, đói khổ, nhân dân phải chịu sự áp bức, bóc lột nặng nề của tầng lớp thống trị nên nếu nghỉ một buổi làm có thể sẽ bị người chủ đánh đập, vợ con, gia đình sẽ bị chết đói? Phải chăng nhân ta nắm được thủ đoạn nhằm đánh lạc lòng yêu nước của thực dân Pháp nên họ tìm cách trốn tránh, chống đối?

     Tính chất trào phúng của truyện ngắn này được tác giả thể hiện qua lớp ngôn từ đả kích, châm biếm, cách kể chuyện tự nhiên, hài hước. Qua đó thể hiện thái độ phê phán sự giả dối, lừa bịp và chính sách mị dân của thực dân Pháp. Chúng lợi dụng tâm lí đám đông để phục vụ cho mục đích, quyền lợi của mình chứ không thật lòng quan tâm đến đời sống của nhân dân - dân tộc mà chúng có công "khai hóa", "bảo hộ". Tiếng cười của Nguyễn Công Hoan đã đả kích vào những trò mị dân tầm thường của quân thực dân. Tiếng cười ấy còn nhằm vào ông lí - một người luôn chấp hành nghiêm túc lệnh quan nhưng lại nhận ăn đút lót.

     Như vậy, truyện ngắn "Tinh thần thể dục" đã trở thành tác phẩm tiêu biểu cho tài năng trào phúng của Nguyễn Công Hoan. Đồng thời đây cũng là tác phẩm khiến ông trở thành một trong những tên tuổi nổi bật của nền văn học hiện thực Việt Nam.

1. Tiểu sử

- Nguyễn Công Hoan quê ở làng Xuân Cầu, tổng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên).

- Gia đình: Ông sinh trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học thất thế. Trong gia đình, từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe và thuộc rất nhiều câu thơ, câu đối và những giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm, đả kích tầng lớp quan lại. Điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách văn chương của ông sau này. Ông có ba người em trai đều tham gia hoạt động cách mạng và giữ cương vị quan trọng là Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lương) nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Nguyễn Công Bồng nguyên Phó Tổng Giám đốc Nha Công an và Nguyễn Công Mỹ nguyên Tổng Giám đốc đầu tiên của Nha bình dân học vụ.[1][2]

- Năm 1926, ông tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, làm nghề dạy học ở nhiều nơi (như Hải Dương, Lào Cai, Nam Định,...) cho đến khi Cách mạng tháng Tám nổ ra. Nguyễn Công Hoan viết văn từ sớm, tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan (viết năm 1920, được Tản Đà thư điếm xuất bản năm 1923) là một đóng góp cho nền văn xuôi Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ.

- Sau Cách mạng tháng Tám, ông giữ chức Giám đốc kiểm duyệt báo chí Bắc Bộ, kiêm Giám đốc Sở Tuyên truyền Bắc Bộ. Sau đó ông gia nhập Vệ quốc quân, làm biên tập viên báo Vệ quốc quân, giám đốc trường Văn hóa quân nhân, chủ nhiệm và biên tập tờ Quân nhân học báo.

- Ông là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1948. Năm 1951 ông làm việc ở Trại tu thư của ngành giáo dục, biên soạn sách giáo khoa và sách Sử Việt Nam hiện đại từ Pháp thuộc đến năm 1950 dùng cho lớp 7 hệ chín năm. Ông cũng viết bài cho báo Giáo dục nhân dân, cơ quan ngôn luận đầu tiên của Bộ Quốc gia giáo dục lúc bấy giờ. Từ sau năm 1954, ông trở lại nghề văn với cương vị Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam (khóa đầu tiên 1957-1958), Ủy viên Ban Thường vụ trong Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa sau đó. Ông cũng là Ủy viên Ban chấp hành Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, chủ nhiệm tuần báo Văn (tiền thân của báo Văn nghệ).

2. Sự nghiệp văn học

a. Tác phẩm chính

- Ông để lại hơn 20 tiểu thuyết và khoảng 200 truyện ngắn..

  + Truyện ngắn: Kép tư bền (1935), Hai thằng khốn nạn (1937), Người vợ lẽ bạn tôi (1937),...

  + Tiểu thuyết: Lá ngọc cành vàng (1935), Ông chủ (1935), Bước đường cùng (1938)....

b. Phong cách nghệ thuật

- Phong cách của một nhà văn hiện thực bậc thầy.

- Là một cây bút trào phúng xuất sắc, Nguyễn Công Hoan sử dụng tiếng cười để đả phá ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp và bè lũ tay sai.

Loigiaihay.com

Phân tích truyện ngắn Đồng hào có ma

  • Phân tích nghệ thuật của truyện ngắn Đồng hào có ma mẫu 1
  • Phân tích truyện ngắn Đồng hào có ma của Nguyễn Công Hoan mẫu 2

Phân tích truyện ngắn Đồng hào có ma của Nguyễn Công Hoan là một trong những đề Ngữ văn lớp 7. Để giúp các em triển khai đề văn này, VnDoc gửi tới các bạn 2 bài văn mẫu lớp 7 hay: Phân tích truyện ngắn Đồng hào có ma của Nguyễn Công Hoan". Đây là tài liệu hay cho các em tham khảo, có thêm nhiều ý tưởng khi xây dựng bài viết cho riêng mình. Sau đây mời các em tham khảo chi tiết.

  • Bình luận 2 câu thơ trong bài Đề đền Sầm Nghi Đống: “Ví đây đổi phận... bấy nhiêu?”
  • Phân tích bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống của Hồ Xuân Hương
  • Soạn bài: Ôn tập phần tiếng Việt Lớp 7

Phân tích nghệ thuật của truyện ngắn Đồng hào có ma mẫu 1

Nguyễn Công Hoan là một trong những nhà văn tiêu biểu của trào lưu văn học hiện thực tiến bộ những năm đầu thế kỷ XX. Ông đã để lại cho nền văn học Việt Nam một số truyện ngắn tiêu biểu. Mảng truyện ngắn trào phúng là sở trường trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn. Bằng nghệ thuật trào phúng sắc sảo, truyện ngắn Đồng hào có ma của Nguyễn Công Hoan đã vạch trần bộ mặt thối nát của bọn quan lại phong kiến đương thời.

Trước tiên, chúng ta phải nói đến nghệ thuật kể chuyện đặc sắc và nghệ thuật tạo dựng tình huống điêu luyện. Đáng kể nhất là cách vào truyện:

"Tôi cực lực công kích sách vệ sinh đã dạy ta ăn uống phải sạch sẽ, nếu ta muốn được khoẻ mạnh, héo tốt. Thuyết ấy sai. Trăm lần sai! Nghìn lần sai! Vì tôi thấy sự thực, ở đời này bao nhiều những anh béo, khẻo, đều là những anh thích ăn bẩn cả.

Thì đấy, các ngài hãy cứ nhìn ông Huyện Hình, hẳn các ngài phải chịu ngay rằng, tôi không nói đùa".

Cách vào truyện như thế rất sáng tạo, mới mẻ, khêu gợi trí tưởng tượng và tính tò mò của độc giả ngay từ đầu.

Mặt khác, cách dẫn truyện lại rất tự nhiên, thúi vị xuyên suốt nội dung thiên truyện. Phần mở đầu đã hay, kết thúc càng hấp dẫn. .Hấp dẫn trong bất ngờ:

"Rồi nó lùi lũi bước ra cửa Rồi nó đi về ... Ông Huyện Hình cứ ngồi yên sau bàn giấy để nhìn theo con mẹ khốn nạn. Rồi khi thấy nó đi đã khuất, ông mới đưa mắt xuống chân, dịch chiếc giày ra một tí. Và vẫn tự nhiên như không, ông cúi xuống, thò tay nhặt đồng hào đôi sáng loáng, thổi những hạt cát nhỏ ở đế giày bám vào, rồi bỏ tọt vào túi".

Cái kết thúc này đã giải mã điều bí ẩn củađồng hào có mà do đâu? Ông Huyện Hinh có ăn bẩn không? Thì ra, ông Huyện Hinh là một kẻ cắp chuyên nghiệp, có nghệ thuật cao do chính cái xã hội xấu xa của ông rèn luyện nên. Ông chẳng những lắm mưu mẹo, ma thuật mà còn sống nhờ vào xương máu cửa những người nông dân nghèo khổ, trình độ văn hóa chưa cao, thấp cổ, bé miệng. Như vậy, trong cái kết thúc này, nhà văn Nguyễn Công Hoan đã "mở nút" cho phần "thắt nút" đầu truyện dể làm bộc lộ rõ mồn một chủ đề của truyện.

Thứ hai, là nghệ thuật khắc hoạ nhân vật hết sức sinh động. Cách giới thiệu nhân vật Huyện Hĩnh rất lạ:

"Chà! Chà! Béo ơi là béo. Béo đến nỗi có thằng dân nào vô ý, buột mồm ra nói một câu sáo rằng: "Nhờ bóng quan lớn", là tưởng ngay nó nói xỏ ông. Tức thì, mặt bàn là một, mặt nó là hai, bị vả đôm đốp. Mà rồi thằng khốn nạn ấy, ông truy cho đến cùng, không còn có thể làm ăn, mở mày mở mặt ra được. Bởi vì ông có sẵn trong tay hàng mớ pháp luật, thì ông ngại gì không khép thằng bảo quan béo vào tội "làm rối cuộc trị an". Thế là việc công việc tư, ông đểu được trọn vẹn. Vì không những ông được hả giận, lại còn được tiếng mẫn cán là khác nữa". Một con người ốm quá cũng khó coi, mập quá cũng không đẹp. Còn ông Huyện Hinh rất khác người: "béo ơi là béo" làm cho độc giả cứ tưởng đó là con lợn! Nếu như tư cách của Huyện Hĩnh tốt đẹp thì người đọc sẽ có cái nhìn thông cảm hơn. Thế nhưng tư cách của ông rất xấu xa, đê hèn, thích " ăn bẩn". "Ăn bẩn" là một lối chơi chữ chỉ bọn quan lại chuyên tìm cách ăn của đút lót và nhờ ăn trên xương máu của dân mà béo tốt. Thật vậy, ai làm quan cũng mong mau chóng được tiến chức to hơn. Huyện Hinh rất ngược đời. Ông sợ thăng quan hơn sợ cọp. Suốt hai mươi năm ròng rã, ông bám mãi chức tri huyện. Nguyên nhân rất đơn giản: "làm bố chánh có vặn xỉ ra mà ăn!". Vả lại, chức quan nhỏ ấy ông cũng không làm tròn, ông làm quan ở huyện nào cũng bị dân viết đơn kiện cáo. Ông làm quan để thoả mãn những thú vui thấp kém của bản thân: đánh bài và ăn chơi. Do đó, bên miệng ông xuất hiện "cái dấu chua nghĩa" (dấu ngoắc đơn). Đây cũng là cách miêu tả theo lối chơi chữ của Nguyễn Công Hoan. Nhà văn muốn nhấn mạnh bản chất tham ô, tha hóa của Huyện Hĩnh. Ngày xưa, các vị quan thanh liêm luôn "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ" và rất khát khao "trông thôn cùng xóm vắng không một tiếng oán hờn". Họ luôn mong mỏi "Dân giàu đủ khắp mọi phương". Tuy nhiên; Huyện Hĩnh không quan tâm đến nỗi thống khổ, oan khuất của dân. Cụ thể, thấy con mẹ Nuôi tay cầm lá đơn đứng ỏ' công đường là Huyện Hình theo dõi xem tiền của con mẹ Nuôi để ở chỗ nào, dân "lo lót" được bao nhiêu. Con mẹ Nuôi gặp quan run quá làm rớt một đồng hào đôi gần bàn quan, Huyện Hình nhân cơ hội, lấy đế giày đè lên giấu nhẹm. Con mẹ Nuôi tìm mãi không thấy đâu cả đành "lùi lủi" ra về. Đấy! Huyện Hĩnh " lo" cho dân như thế đấy!

Thứ ba là nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ vừa tự nhiên, vừa linh hoạt. Lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân được đưa vào truyện một cách khéo léo, phục vụ mục đích trào phúng: "Chà! Chà! Béo ơi là béo!". "Câu sáo"; "nói xỏ"; "nở mày nở mặt"; "lẹt dẹt"; "vặn xỉ"; "mất toi"; "xỏ lá"; "con mẹ"; "lóng cóng"; "rơi tiệt cả"; "trễ nải"; "vi thiềng"; "khốn nạn". Những khẩu ngữ này được sử dụng trong văn xuôi để làm tăng tính chất trào phúng. Mặt khác, giọng văn của truyện ngắn này rất đậm chất trào phúng. Nhà văn diễn tả mọi hành động bằng nét nghiêm trang nhưng làm bật lên thái độ mỉa mái, chua chát, công kích mãnh liệt.

Tóm lại, đọc truyện ngắn giai đoạn này chúng ta thấy toàn bộ bộ mặt thật của bọn "cướp ngày" hiện lên rất thối nát, đồi bại, táng tận lương tâm, vô trách nhiệm. Trong truyện Sống chết mặc bay (Phạm Duy Tốn), "quan phụ mẫu" chuyên đánh tồ tôm, bỏ mặc cho đê võ' khiến hàng vạn dân quê lâm vào cảnh "muôn sầu nghìn thảm". Truyện ngắn Tắt đèn của Ngô Tất Tố, ông Nghị "ăn bẩn" xong rồi, "còn nhúng ba ngón tay vào chậu nước vuốt qua hai mép một lượt, rồi cùng xỉa răng, uống nước" một cảnh tỉnh táo thản nhiên. Còn Huyện Hình trong truyện này là một tên quan ăn cắp mạt hạng. Bởi sống dưới chế độ quan trường như thế nên nhân dân ta có câu:

"Con ơi nhớ lấy câu này Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan".

Hãy lên án và đấu tranh mạnh mẽ để tiêu diệt tận gốc bọn tham nhũng, những kẻ "cướp ngày" để xã hội ta ngày càng giàu mạnh và bền vững hơn.

Phân tích truyện ngắn Đồng hào có ma của Nguyễn Công Hoan mẫu 2

Là nhà văn am hiểu sâu sắc xã hội phong kiến, Nguyễn Công Hoan đã khắc hoạ nổi bật tính cách bọn quan lại chuyên ăn hối lộ, chuyên đục khoét, chuyên ăn bẩn... Một trong những viên quan mà ông miêu tả là Huyện Hinh trong truyện ngắn Đồng hào có ma.

Mở đầu truyện nhà văn cực lực lên án sách vệ sinh, ông cho rằng sách vệ sinh sai khi dạy người ta phải ăn ở hợp vệ sinh thì mới có sức khoẻ tốt. Với Huyện Hinh điều đó không đúng một chút nào, hắn chuyên “ăn bẩn” mà vẫn béo, rất béo là đằng khác. Phải chăng “ăn bẩn” mà nhà văn nói ở đây là “ăn bẩn” theo một nghĩa khác?

Giọng văn châm biếm hài hước, thật kinh ngạc: Chà! Chà! Béo ơi là béo vì to béo quá, thân hình quan đồ sộ làm cho quan tưởng là “nói xỏ” khi có thằng dân nào nói nhờ bóng quan lớn to béo đến mức ra mặt hắn căng lên, râu không sao chồi ra ngoài được. Bởi vậy ngoài tứ tuần mà mặt hắn cứ nhẵn thín, cố gắng lắm trên mép hắn mới có được cái dấu chua chủa.

Bằng thủ pháp cường điệu phóng đại nhà văn miêu tả diện mạo bên ngoài của hắn nhằm chứng minh: “Những anh béo là những anh thích ăn bẩn cả”. Ăn bẩn không phải là ăn ở thiếu vệ sinh mà chính là kiếm ăn bằng những phương cách bẩn thỉu hèn hạ. Danh tính của Huyện Hinh sáng đến nỗi làm quan luôn bị dân kiện, bao năm vẫn “lẹt đẹt” tri huyện mãi. Hắn bảo làm bố chánh có văng sỉ ra mà ăn. Đó là sự lọc lõi, cáo già của kẻ chuyên ăn bẩn. Với y danh dự, nhân phẩm, trách nhiệm cũng không bằng cách đục khoét dốc đầy vào bao tượng mặc dù có “bẩn” đi chăng nữa.

Ta hãy xem hắn - Huyện Hinh ăn bẩn như thế nào? Trong truyện này chỉ là một phương cách trong muôn nghìn phương cách mà Huyện Hinh ăn bẩn. Con mẹ Nuôi vào cửa quan. Nó đi trình việc mất trộm hôm trước lên quan. Trước khi lên quan nó phải đi chạy vạy vay mượn một đồng hai hào, vì nó biết được “thông lệ gặp quan”. Trước mặt quan, ngài oai vệ quá, mắt trừng trừng nhìn nó. Thế là lúng túng, run quá, hoảng quá, nó đi trình việc mất trộm mà y như nó là kẻ ăn trộm vậy. Thế là rơi tiền, đồng rơi ở xó này, đồng rơi ở xó kia, quái! Còn một đồng nữa? Nó không biết rằng đồng hào mà nó tưởng là có ma ấy đang nằm dưới chân “con ma” trước mặt nó. Không đủ tiền “vi thiềng” quan con mẹ Nuôi lủi thủi ra về. Huyện Hinh chờ cho con mẹ khốn nạn đi khuất đưa mắt xuống chân dịch chiếc giày ra một tí mà vẫn thản nhiên như không, thò tay nhặt đồng hào, thổi những hạt cát còn bám và bỏ tọt vào túi.

Tội nghiệp cho con mẹ Nuôi đã mất trộm lại mất cả tiền đi trình việc mất trộm. Nó phải đi vay tiền cả thảy có một đồng hai, khốn nạn có phải lót cho tên lính lệ hai hào từ cổng. Còn một đồng cứ tưởng... do lúng túng, hoảng sợ trước cửa quan, cả năm đồng hào đôi rơi tuốt xuống sân nhà, và thế là trong số tiền rơi ấy có một đồng “có ma”. Nó khăng khăng là “đồng hào của nó có ma”, nó không dám nghi ngờ cho quan bởi vì cửa quan là nơi tôn nghiêm, uy nghi sao có chuyện như vậy được. Nó lủi thủi ra về, mất đến bốn hào bạc mà không giải quyết được việc gì.

Con mẹ Nuôi sẽ không khỏi hoài nghi về tiền mà nó mang đi lót tay cho quan để trình việc mất trộm. Có phải có ma thật trong đồng hào đôi của nó? mà nếu có ma thì tại sao nó lại không biến mất khỏi bao tượng bên người nó. Vậy thì ma ở đâu? Có ma thật không? sự nghi ngờ này được Nguyễn Công Hoan giải mã bằng đoạn băng ghi hình sau ...Dịch chiếc giày ra một tí... bỏ tọt vào túi. Trong buồng quan chỉ có con mẹ Nuôi và quan vậy ai là ma? Con ma ấy là Huyện Hinh. Con ma đang trừng trừng nhìn nó vẻ soi mói, và có lẽ y quan sát xem đối tượng trước mặt mình là ai, y sẽ khoét bằng cách nào.

Con ma giữa công đường, con ma thực thi pháp luật, phụ mẫu hi dân phải chăng quan lại phong kiến đều là bọ ma quái, tham lam nhũng nhiễu như vậy sao? Chúng dùng bao phương cách “mưu na trước quỷ” để bóc lột đến tận xương tuỷ của nhân dân. Vậy thì dân có thể trông tin quan như trời hạn trông mưa thế nào được.

Hắn ti tiện bẩn thỉu vô cùng khi ăn món tiền chỉ đáng bằng món tiền con mẹ Nuôi lót tay cậu lính lệ. Hắn oai vệ quá, hắn béo quá và hắn còn càng ngày càng béo vì “ăn bẩn”.

Cũng là quan huyện, nhưng viên quan phụ mẫu lại được Phạm Duy Tốn miêu tả sinh động ở góc độ khác.Vô trách nhiệm với nhiệm vụ của mình, ăn chơi hưởng thụ phó mặc cuộc sống của dân lành, khi thấy có khả năng mình bị liên lụy y đổ tội cho kẻ khác. Như vậy bộ mặt quan lại xưa là như thế, chúng bẩn thỉu ti tiện, vô lương tâm. Chẳng thế mà có bao câu ca dao tục ngữ chế giễu, đả kích bọn quan lại, coi chúng là sâu bọ, ung nhọt, kẻ cướp trong xã hội.

Con ơi nhớ lấy câu này

Cướp đêm là giặc cướp ngày là quan

Hay

Quan đi kinh lý trong vùng

Đâu có... gà vịt thời lùng về xơi

Có thể nhà văn dùng chút ít lối viết phóng đại, nhưng bản chất sự việc là có thật. Huyện Hinh là một tên quan có tâm địa hèn hạ, bẩn thỉu không từ chối bất kỳ thủ đoạn kiếm ăn nào. Đó cũng chính là bản chất chung của bọn quan lại dưới thời phong kiến. Cách nhìn của nhà văn đối với chúng cũng chính là cách nhìn của nhân dân ta. Từ đó dẫn đến một thái độ căm ghét, phản kháng, và tất yếu dẫn đến đấu tranh chống lại cường quyền áp bức.

.......................

.....................

Trên đây VnDoc đã tổng hợp các bài văn mẫu Phân tích truyện ngắn Đồng hào có ma của Nguyễn Công Hoan cho các bạn tham khảo ý tưởng khi viết bài. Hy vọng thông qua tài liệu này, các em sẽ nâng cao kỹ năng viết văn, từ đó đạt điểm cao trong các bài thi, bài kiểm tra định kỳ Ngữ văn 7. Chúc các em học tốt.

Ngoài tài liệu trên, mời các bạn tham khảo thêm tài liệu Ngữ văn lớp 7, Soạn văn lớp 7, Học tốt Ngữ Văn lớp 7, Soạn Văn lớp 7 (ngắn nhất), Tài liệu học tập lớp 7 được cập nhật liên tục trên VnDoc để học tốt môn Văn 7 hơn.

Để tiện trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm về giảng dạy và học tập các môn học lớp 7, VnDoc mời các thầy cô giáo, các bậc phụ huynh và các bạn học sinh truy cập nhóm riêng dành cho lớp 7 sau: Nhóm Tài liệu học tập lớp 7. Rất mong nhận được sự ủng hộ của các thầy cô và các bạn.