Tập làm văn: Luyện tập phát triển câu chuyện trang 91 92 93

Tiếng việt 4 Tập 1 – Soạn giải bài tập tiếng việt lớp 4 Tập 1 Tuần 9 – Trên đôi cánh ước mơ Soạn bài – Tập làm văn: Luyện tập phát triển câu chuyện

Soạn bài Tập làm văn: Luyện tập phát triển câu chuyện – Tuần 9, trang 91 – 93 SGK tiếng việt lớp 4 tập 1. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Tập làm văn: Luyện tập phát triển câu chuyện, sau đây là hướng dẫn soạn bài đầy đủ, ngắn gọn và chi tiết nhất.

Hướng dẫn soạn bài – Tập làm văn: Luyện tập phát triển câu chuyện

Giải câu 1 (Trang 91 – 92 SGK tiếng việt 4 tập 1)

Đọc trích đoạn kịch dưới đây:

Yết Kiêu

a) Giặc Nguyên xâm lược nước Đại Việt ta. Yết Kiêu nói chuyện với cha.

Yết Kiêu: – Con đi giết giặc đây, cha ạ!

Người cha: – Mẹ con mất sớm, cha bây giờ tàn tật không làm gì được.

Yết Kiêu: – Cha ơi! Nước mất thì nhà tan…

Người cha: – Cha hiểu chứ. Con cứ đi đi.

soan bai tap lam van luyen tap phat trien cau chuyen tuan 9 sgk tieng viet lop 4 tap 1

b) Yết Kiêu đến kinh đô Thăng Long yết kiến vua Trần Nhân Tông.

Nhà vua: – Trầm cho nhà ngươi nhận lấy một loại binh khí.

Yết Kiêu: – Thần chỉ xin một chiếc dùi sắt.

Nhà vua: – Để làm gì?

Yết Kiêu: – Để dùi thủng chiến thuyền của giặc vì thần có thể lặn hàng giờ dưới nước.

Nhà vua: – Ngươi là dân thường mà phi thường. Ai dạy ngươi được như thế?

Yết Kiêu: – Muôn tâu bệ hạ, người đó là cha thần.

Nhà vua: – Ai dạy cha ngươi?

Yết Kiêu: – Ông của thần.

Nhà vua: – Ai dạy ông của ngươi?

Yết Kiêu: – Vì căm thù giặc và noi gương người xưa mà ông của thần tự học lấy.

Theo LÊ THI

Chú thích:

– Yết Kiêu: danh tướng thời trần, có tài bơi lặn, từng đánh đắm nhiều thuyền chiến của giặc.

– Đại Việt: tên nước ta thời Trần.

– Yết kiến: đến ra mắt người bậc trên.

– Trẫm: tiếng nhà vua tự xưng.

– Phi thường: vượt xa mức bình thường.

Giải câu 2 (Trang 93 SGK tiếng việt 4 tập 1)

Dựa vào trích đoạn kịch, hãy kể lại câu chuyện Yết Kiêu theo gợi ý sau:

a) Chia đoạn:

– Đoạn 1: Giặc Nguyên xâm lược nước ta.

– Đoạn 2: Yết Kiêu tới kinh đô Thăng Long, yết kiến vua Trần Nhân Tông.

– Đoạn 3: Cha của Yết Kiêu ở quê nhà nhớ con, nhớ câu chuyện giữa hai cha con trước lúc Yết Kiêu lên đường.

b) Cách trình bày: Nên chuyển lời đối thoại trong kịch thành lời kể và lời dẫn gián tiếp. Chỉ giữ lại những lời đối thoại quan trọng.

Trả lời:

Đoạn 1: Giặc Nguyên xâm lược nước ta.

Năm đó, giặc Nguyên kéo binh hùng, tướng dữ sang với ý định làm cỏ nước ta. Đến đâu, chúng cũng làm nhiều điều bạo ngược khiến lòng dân ngập tràn oán hận.

Đoạn 2: Yết Kiêu đến kinh đô Thăng Long yết kiến vua Trần Nhân Tông.

Là một chàng tuấn tú dũng mãnh, chuyên nghề đánh cá vốn nổi tiếng về tài bơi lặn. Yết Kiêu có một tấm lòng yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc. Chàng quyết chí lên tận kinh đô Thăng Long yết kiến vua Trần Nhân Tông xin với nhà vua cho chàng được đầu quân đánh giặc. Nhà vua bằng lòng và bảo chàng hãy chọn lấy một thứ binh khí cho mình. Yết Kiêu chỉ xin với nhà vua một chiếc dùi sắt. Nhà vua hết sức kinh ngạc, không hiểu chàng xin dùi để làm gì. Yết Kiêu bèn tâu: “Để dùi thủng chiến thuyền của giặc vì thần có thể lặn sâu hàng giờ dưới nước.” Nhà vua hết lời khen ngợi chàng và muốn biết ai là người dạy chàng. Chàng kính cẩn tâu đó là cha ông mình. Nhà vua lại gặng hỏi ai là người dạy ông chàng. Yết Kiêu đáp: “Vì căm thù giặc và noi gương người xưa mà ông của thần tự học lấy.”

Đoạn 3: Cha của Yết Kiêu ở quê nhà nhớ con, nhớ câu chuyện giữa hai cha con trước lúc Yết Kiêu lên đường.

Cùng lúc ấy, ở làng quê nơi cách xa thăm thẳm kinh thành, có một người cha già đang vào ra, một mình vò võ. Ông nhớ mãi phút chia tay bịn rịn với từng câu nói đầy xúc động yêu thương của Yết Kiêu, đứa con trai hiếu thảo của mình. Thấy cha không được vui vì sắp phải xa con, Yết Kiêu cũng cố nén lòng mình: “Cha ơi! Nước mất thì nhà tan…” Ông vội ngăn lời vỗ về con: “Con mau lên đường lo việc lớn. Đừng lo cho cha.” Người cha đó, thân phụ của Yết Kiêu giờ đây đang ngày đêm mong ngóng con mau lập công lớn, chiến thắng trở về.

Tham khảo thêm cách soạn khác bài Tập làm văn: Luyện tập phát triển câu chuyện

Câu 1. Đọc trích đoạn kịch Yết Kiêu trang 91 – 92 SGK tiếng việt lớp 4 tập 1.

Trả lời:

Các em tự đọc đoạn trích kịch đã cho trong sách giáo khoa.

Câu 2. Dựa vào trích đoạn kịch, hãy kể lại câu chuyện Yết Kiêu theo gợi ý sau:

a) Chia đoạn:

– Đoạn 1: Giặc Nguyên xâm lược nước ta.

– Đoạn 2: Yết Kiêu tới kinh đô Thăng Long, yết kiến vua Trần Nhân Tông.

– Đoạn 3: Cha của Yết Kiêu ở quê nhà nhớ con, nhớ câu chuyện giữa hai cha con trước lúc Yết Kiêu lên đường.

b) Cách trình bày: Nên chuyển lời đối thoại trong kịch thành lời kể và lời dẫn gián tiếp. Chỉ giữ lại những lời đối thoại quan trọng.

Trả lời:

Dựa vào trích đoạn kịch Yết Kiêu (SGK Tiếng Việt 4, tập một, trang 91 – 92) ghi lại vắn tắt câu chuyện theo trình tự không gian.

Chú ý: Đọc kĩ thuật các gợi ý về cách chia các đoạn, cách trình bày (chuyển lời đối thoại trong kịch thành lời kể và lời gián tiếp chỉ giữ lại những lời đối thoại quan trọng).

Đoạn 1: Giặc Nguyên xâm lược nước ta.

Năm ấy, giặc Nguyên xâm lấn nước ta. Chúng gây ra bao điều bạo ngược khiến lòng dân vô cùng oán hận. Ở một làng nọ có chàng trai tên là Yết Kiêu làm nghề đánh cá. Chàng căm thù giặc.

Đoạn 2: Yết Kiêu đến Kinh đô Thăng Long yết kiến vua Trần Nhân Tông.

Chàng lên kinh đô yết kiến vua xin vua cho đi dẹp giặc. Nghe Yết Kiêu nói lên tâm nguyện của mình, nhà vua mừng lắm.

Nhà vua hỏi chàng cần binh khí gì để ra trận, Yết Kiêu tâu xin cho mình một chiếc dùi sắt. Nhà vua rất ngạc nhiên không hiểu vì sao. Yết Kiêu bèn tâu: “Để dùi thủng thuyền của giặc vì thần có thể lặn hàng giờ dưới nước”. Nhà vua rất kinh ngạc và khâm phục tài năng của Yết Kiêu. Ngài bèn hỏi có được tài như vậy do ai dạy, Yết Kiêu bèn tâu đó là cha, là ông chàng. Nhà vua lại gặng hỏi ai dạy ông chàng. Yết Kiêu bèn cẩn đáp. Vì căm thù giặc và noi gương ngày xưa mà ông thần tự học lấy”.

Đoạn 3: Cha của Yết Kiêu ở quê nhà nhớ con, nhớ câu chuyện giữa hai cha con trước lúc Yết Kiêu lên đường.

Ở quê nhà, cha Yết Kiêu thương nhớ chàng vô cùng. Ông nhớ lại, từng hình ảnh, từng lời nói của con trai trước lúc đi giữa hai cha con…) xa. Nhớ giọng nói nghẹn ngào của con: Cha ơi ! Nước mất thì nhà tan,… Hôm ấy ông cũng đã cố nén lòng mình để nói cho yên lòng con: “Con cứ đi đi…” Nhớ con một phần, phần còn lại ông lại thầm mong cho con có thể đem tài giúp vua, giúp nước, thắng trận trở về.