Trận địa phục kích của ta tại Cầu Cả trong chiến dịch Việt Bắc

(Bqp.vn) - Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947 là một trong những sự kiện lịch sử có tầm chiến lược, tác động tích cực đến tiến trình cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Trong khi đó, đối với thực dân Pháp, đó là một thất bại nặng nề cả về quân sự lẫn chính trị, là sự sụp đổ không gì cứu vãn nổi của chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh”.

Trận địa phục kích của ta tại Cầu Cả trong chiến dịch Việt Bắc

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Hội đồng Chính phủ nghe Đại tướng Võ Nguyên Giáp báo cáo tình hình Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947. (ảnh tư liệu)

Kế hoạch tấn công căn cứ địa Việt Bắc được tướng R. Xa-lăng (R. Salan) - Tư lệnh quân Pháp ở Bắc Đông Dương soạn thảo, được Hội đồng phòng thủ Đông Dương thông qua ngày 9/6/1947 và Chính phủ Pháp phê chuẩn tháng 7/1947. Với cuộc hành binh này, thực dân Pháp hy vọng sẽ kết thúc cuộc tái chiếm Việt Nam bằng chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh”, như lời tướng R. Xa-lăng từng huênh hoang: “Chỉ cần ba tuần lễ để đập tan đầu não của Việt Minh”.

Địa bàn tiến công của địch bao gồm các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Cao Bằng và Lạng Sơn. Đây là căn cứ địa, nơi tập trung cơ quan lãnh đạo kháng chiến, các cơ quan, kho tàng và lực lượng chủ lực của ta đứng chân.

Sáng 7/10/1947, cuộc tiến công của quân Pháp lên Việt Bắc bắt đầu. Đây là cuộc hành binh hỗn hợp của các binh chủng thủy, lục, không quân.

Về phía ta, ngày 8/10/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi bộ đội, dân quân du kích và toàn thể đồng bào ra sức tiêu diệt địch. Tiếp đó, ngày 15/10/1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị: Phải phá tan cuộc tiến công mùa đông của giặc Pháp.

Về lực lượng tham gia chiến dịch, ta sử dụng các Trung đoàn: 147, 165 (chủ lực Bộ); 72, 74, 121 (Khu 1); 11, 36; 59; 98 (Khu 12); một tiểu đoàn pháo binh và Trung đoàn Sông Lô (Khu 10); 5 tiểu đoàn độc lập của Bộ, Khu 1 và Khu 12; ngoài ra còn các đơn vị binh chủng và du kích trên địa bàn chiến dịch.

Ngày 9/10/1947, khẩu đội pháo 12,7 mm của Đại đội 675, Trung đoàn 74 tại Cao Bằng bắn rơi chiếc máy bay vận tải Ju5, chở 12 sĩ quan tham mưu cuộc hành binh, trong đó có Đại tá Lăm-be (Lambert) - Phó Tham mưu trưởng quân Pháp bị thiệt mạng. Ta thu được bản kế hoạch tiến công Việt Bắc của chúng.

Ở mặt trận sông Lô - Chiêm Hóa, địch đổ bộ lên bến Bình Ca, ta bắn chìm một pháo thuyền, tiếp đó diệt hơn một tiểu đội quân địch, lập chiến công đầu tiên trên sông Lô.

Ở mặt trận Đường số 4, các đại đội độc lập và dân quân du kích Cao Bằng, Lạng Sơn phục kích, bắn tỉa địch trên đường hành quân, tiến công tiêu diệt địch tại Đông Khê, Thất Khê. Tiểu đoàn tập trung Lạng Sơn, lợi dụng địa hình đánh trận phục kích xuất sắc, diệt 33 xe cơ giới với gần 300 tên địch tại Bông Lau, thu toàn bộ vũ khí. Đường số 4 thành “con đường máu” của thực dân Pháp.

Ở mặt trận Đường số 3, tự vệ quân giới phối hợp với dân quân các dân tộc ít người đánh quân Pháp đi lẻ. Các tiểu đoàn tập trung thuộc Bộ Tổng Chỉ huy và Bộ chỉ huy Chiến khu 1 đã tập kích, đánh địa lôi làm hàng trăm lính Pháp bị tiêu diệt trong công sự, cắt đứt đường tiếp viện của quân Pháp từ Cao Bằng xuống Bắc Cạn.

Các Binh đoàn lớn của thực dân Pháp càng đi sâu vào căn cứ Việt Bắc càng bị chia cắt và hao mòn lực lượng. Đến ngày 19/12/1947, đại bộ phận quân Pháp rút khỏi Việt Bắc. Cuộc hành binh của địch thất bại hoàn toàn.

Trận địa phục kích của ta tại Cầu Cả trong chiến dịch Việt Bắc

Các chiến sĩ pháo binh Trung đoàn sông Lô trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947. (ảnh tư liệu)

Sinh thời, Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng nhận xét: Cuộc tiến công chiến lược lên căn cứ địa Việt Bắc “là cuộc tiến công mang nhiều tham vọng nhất của Pháp trong suốt quá trình chiến tranh xâm lược ở Đông Dương, ngoài kế hoạch Na-va sau này, nhằm kết thúc chiến tranh trong danh dự”.

Tuy nhiên, sức mạnh quân sự và tham vọng của thực dân Pháp không thể chiến thắng được bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam. Với thắng lợi vang dội của Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947, quân và dân Việt Nam đã đập tan cả bốn mục tiêu của thực dân Pháp khi chúng hành quân lên Việt Bắc; đồng thời, chính thức viết “giấy khai tử” cho chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh”, buộc chúng phải bị động đánh lâu dài căng kéo với ta.

Chiến thắng này còn là minh chứng hùng hồn về sự lãnh đạo, chỉ đạo sắc bén, tài thao lược của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Qua chiến dịch, Quân đội nhân dân Việt Nam có bước phát triển về hình thức chiến thuật và phương thức tổ chức lực lượng, tích lũy kinh nghiệm về “du kích chiến”, “vận động chiến”, đặc biệt là phương châm tác chiến “đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung”. Đặc biệt, chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947 cũng là chiến dịch phản công đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam đã vận dụng thành công nghệ thuật chiến dịch “Tiến công trong phản công trên địa bàn rừng núi”, góp phần đưa cuộc kháng chiến của dân tộc ta bước sang giải đoạn mới.

Trải qua 75 ngày đêm chiến đấu (từ ngày 7/10 đến ngày 19/12/1947), chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947 kết thúc thắng lợi. Quân dân ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 7.200 quân địch, bắn rơi và làm hư hại 18 máy bay, bắn chìm 16 tàu chiến và 38 canô; phá hủy 255 xe các loại. Ta thu hai pháo 105 mm, 7 pháo 75 mm, 16 khẩu 20 mm, 337 súng máy các cỡ, 45 Ba-dô-ca, 1.660 súng trường cùng hàng chục tấn quân trang, quân dụng.

Ths Lê Văn Phong, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (nguồn: Báo QĐND)

08:03, 02/10/2017

Đại tá Nguyễn Đăng Bảo

Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh

Là tỉnh vùng cao nằm ở trung tâm căn cứ địa Việt Bắc, nhân dân các dân tộc Bắc Kạn có truyền thống đoàn kết, kiên cường trong lao động sản xuất và đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Từ khi có Đảng lãnh đạo, nhân dân các dân tộc Bắc Kạn một lòng theo Đảng, cùng nhân dân cả nước đánh đổ ách đô hộ của thực dân Pháp để giải phóng quê hương...

Ngược dòng lịch sử, ngày 07/10/1947, đội quân viễn chinh Pháp mở một cuộc tấn công với quy mô lớn lên căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc. Địch tập trung sức mạnh với 12.000 quân gồm 5 trung đoàn bộ binh hỗn hợp, 3 tiểu đoàn dù, 2 tiểu đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn công binh, 3 đại đội cơ giới khoảng 800 xe, hàng chục máy bay, 40 tàu ca nô các loại và một số đơn vị lính thủy đánh bộ mở một cuộc tấn công táo bạo và chớp nhoáng lên căn cứ địa Việt Bắc.

Nắm rõ tình hình địch, từ chỉ thị của Trung ương Đảng, ngày 09/10/1947, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Kạn họp tại Bản Áng, xã Đôn Phong (Bạch Thông). Ngoài các quyết định tại hội nghị, căn cứ Chỉ thị “Phát động du kích chiến tranh”, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã đề ra những việc cần thực hiện gấp rút như: Tổ chức liên lạc với Khu, bảo vệ và giúp dân gặt lúa, vận động nhân dân làm vườn không, nhà trống, triệt để thực hiện khẩu hiệu: không làm việc, không tiếp tế, không dẫn đường cho địch, tổ chức phá hoại giao thông. Do thực hiện  tốt các chỉ thị của Trung ương Đảng, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, quân dân Bắc Kạn đã lập được nhiều chiến công. 

Bộ đội chủ lực, du kích, dân quân tự vệ Bắc Kạn đã chiến đấu dũng cảm, tiêu diệt và giam chân địch ở những nơi chúng đóng quân. Từ chỗ bị động ban đầu, quân và dân Bắc Kạn đã nhanh chóng tiến lên giành thế chủ động chiến trường, tích cực phá hoại giao thông, tổ chức nhiều trận tập kích, phục kích tiêu hao sinh lực địch, vận động đồng bào trong vùng bị địch chiếm tản cư ra vùng tự do.

Tại thị xã Bắc Kạn và huyện Bạch Thông, 800 quân Pháp nhảy dù xuống chưa kịp củng cố đội hình đã bị đoàn cảnh vệ Bắc Kạn, tiểu đội, đại đội độc lập huyện Bạch Thông, du kích xã Thanh Mai, Thanh Vận đánh du kích tiêu diệt nhiều tên.

Ngày 9/10/1947, địch huy động hàng trăm quân đến phá các kho hàng, công xưởng của ta ở Yên Đĩnh (Bạch Thông). Hai tiểu đội du kích xã Yên Đĩnh và thị trấn Chợ Mới chặn đánh địch ở cánh đồng Yên Đĩnh, diệt 5 tên, làm bị thương 6 tên, buộc chúng phải rút chạy.

Ngày 14/7/1947, hai đại đội du kích chia làm hai cánh tiến từ Chợ Mới lên Bắc Kạn. Du kích xã Cao Kỳ, Hòa Mục do đại đội trưởng Nguyễn Văn Xù chỉ huy đã tổ chức phục kích tại khu núi Khau Chừn (đoạn km23 Bắc Kạn - Chợ Mới). Lợi dụng địa hình hiểm trở tại nơi mai phục, du kích ta đã khôn khéo nghi binh lừa địch khiến cho chúng tự bắn vào nhau. Kết quả 15 tên địch bị chết, một số bị thương, quân ta đảm bảo an toàn.

Đêm 15/10/1947, du kích xã Yên Đĩnh, thị trấn Chợ Mới lại phối hợp cùng tiểu đoàn 19 bộ đội chủ lực (từ Cù Vân lên) tấn công thị trấn Chợ Mới. Đây là vị trí tiền tiêu của địch ở phía Nam của tỉnh, án ngữ trục đường giao thông chính từ Thái Nguyên lên Bắc Kạn.

Ngày 19/10/1947, du kích Cao Kỳ đánh một trận giòn giã ngay tại địa bàn xã. Lợi dụng địa hình hiểm trở, một bên là vực sâu, một bên là dốc dựng đứng, du kích đã dùng địa lôi phá hủy 3 xe, diệt hơn 50 tên địch, trong đó có tên thiếu tá Phơ-tơ-ni.

Tại Chợ Đồn, ngày 10/10/1947, trung đội du kích Chợ Đồn phối hợp với học viên Trường võ bị Trần Quốc Tuấn (đang trên đường chuyển quân vào Chợ Chu) phục kích đánh địch ở Kéo Phay, khi chúng càn quét vào Bản Thi. Đêm 13/10/1947, trung đội du kích xã Bằng Viễn do chính trị viên Nông Văn Chinh chỉ huy, tập kích quấy rối địch ở châu lỵ huyện Chợ Đồn. Ngày 17/10/1947, một đơn vị địch hành quân từ Bắc Kạn sang Chợ Đồn, khi đến Nà Khao đã bị du kích xã Yên Nhuận và trung đội bộ đội chủ lực thuộc Tiểu đoàn 102 phục kích ném lựu đạn, diệt 8 tên.

Tại Chợ Rã, cuối tháng 10/1947, quân Pháp mở cuộc tiến công lớn với lực lượng gần 300 tên vào khu vực Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam ở Khang Ninh, đồng thời nhằm chi viện cho đồng bọn ở mặt trận sông Lô, phía Tây. Quân dân Chợ Rã đã anh dũng chiến đấu, khiến chúng không thực hiện được ý đồ đề ra, buộc phải rút lui.

Tại Ngân Sơn, do nằm trên quốc lộ số 3 nên địch tập trung quân ở Ngân Sơn khá đông. Khi chiếm châu lỵ Ngân Sơn, địch đã huy động hàng trăm xe tải chở lính từ thị xã Cao Bằng (Cao Bằng) xuống. Với tinh thần chiến đấu cao, quân dân Ngân Sơn đã liên tục bao vây, quấy rối nơi địch đóng quân. Trong đó, đáng chú ý là đêm 13/11/1947, du kích Ngân Sơn do đồng chí Nguyễn Công Cẩm chỉ huy, phục kích ở đèo Khau Khang, phá hủy một xe vận tải, diệt 7 tên địch. Sau đó, du kích xã Lãng Ngâm tổ chức phục kích đoàn xe tiếp tế của địch tại khu vực đèo Giàng (trên quốc lộ 3), diệt 5 tên địch, phá 1 xe tăng.

Ngày 30/11/1947, 2 trung đội bộ đội chủ lực thuộc Trung đoàn 72 (Bắc Kạn) cùng trung đội du kích thị xã Bắc Kạn, tiểu đội du kích xã Vi Hương tập kích đồn Phủ Thông. Qua chiến đấu, ta diệt 50 tên địch, thu 2 súng máy, 1 súng trường. Đặc biệt, trận đánh diễn ra ở đèo Giàng (km187 - 188) trên quốc lộ 3 ngày 15/12/1947 đã đi vào lịch sử. Đây là một trong những chiến công oanh liệt nhất trong chiến dịch phản công Việt Bắc Thu - Đông năm 1947. Trong trận này ta phá hủy 17 xe cơ giới các loại, diệt 60 tên địch, trong đó có 2 trung úy, thu một số quân trang và 2 triệu đồng Đông Dương.

Sau hai tháng chiến đấu, quân dân Bắc Kạn đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 1.000 tên địch, phá hủy hàng chục xe quân sự, trong đó có xe tăng, thu nhiều vũ khí đạn dược, quân trang, quân dụng. Riêng du kích Bạch Thông đã đánh 25 trận, diệt gần 300 địch... Mặt khác, do thực hiện tốt chủ trương tiêu thổ kháng chiến, những nơi địch chiếm đóng nhân dân đều thực hiện vườn không nhà trống, khiến cho chúng không thể tận dụng được nguồn lương thực, thực phẩm tại chỗ. Đường giao thông bị chặt phá từng đoạn làm cho sự cơ động chiến đấu, việc liên lạc, tiếp tế giữa các cứ điểm của địch bị hạn chế. Trong thời gian diễn ra chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, quân dân Bắc Kạn đã góp trên 50.000 ngày công, đào gần 100.000 hố cản tăng với khối lượng trên 200.000m3 đất đá. Đến giữa tháng 11/1947, quân Pháp buộc phải rút bỏ các cứ điểm lẻ ở các châu, huyện xa như Chợ Đồn, Chợ Rã.

Bị tiến công trên khắp các chiến trường, bị thiệt hại và khốn đốn về nhiều mặt, từ đầu tháng 12/1947, địch phải lần lượt rút quân, chấp nhận thất bại chiến dịch tấn công lên Việt Bắc.

Lực lượng quân viễn chinh Pháp ném vào chiến dịch tiến công Việt Bắc đã bị quân dân ta đánh cho tơi bời, nhất là binh đoàn dù của trung tá Xô-va-nhác. Đạo quân tinh nhuệ của địch bị quân dân Bắc Kạn bao vây, quấy rối, tiêu diệt từng bộ phận nên không phát huy được vai trò điểm tựa cho 2 gọng kìm Đông - Tây của kế hoạch bước 1 (Lê-a) cũng như bước 2 của chiến dịch (Xanh-tuya) là càn quét địa bàn 3 tỉnh Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang. Âm mưu bao vây Việt Bắc bằng hai gọng kìm phía Đông và phía Tây, thả quân dù tinh nhuệ sâu trong lòng Việt Bắc, kết hợp trong đánh ra, ngoài đánh vào, rồi hợp quân để bắt gọn cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta, phá hủy khu căn cứ cách mạng, của địch đã bị thất bại hoàn toàn.

Chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông năm 1947 đã làm phá sản hoàn toàn chủ trương chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của địch. Đồng thời, tạo đà cho những chiến thắng tiếp theo của quân và dân Bắc Kạn sau này. Ngày 09/8/1949, quân địch phải rút khỏi thị xã Bắc Kạn.

Hơn nửa thế kỷ trôi qua, chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947 vẫn mãi là chiến công oanh liệt, mãi mãi là mốc son lịch sử đáng tự hào. Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947 và những bài học quý báu đó vẫn luôn được các thế hệ tiếp nối, phát huy. Bài học trên dưới đồng tâm, nhất trí, biết giành chủ động trong các tình huống khó khăn, kiên quyết vượt lên phía trước để giành thắng lợi là một nét đặc sắc trong chỉ đạo chiến lược, truyền thống cách mạng của Đảng, của dân ta./.