Trong phương pháp phỏng vấn, người nghiên cứu có nên là người phỏng vấn không

1. Khái niệm phương pháp phỏng vấn

Các cuộc phỏng vấn là một kỹ thuật thưởng xuyên được sử dụng trong nghiên cứu định tính và định lượng về các hiện tượng tâm lý. Phương pháp phỏng vấn thường được hiểu là phỏng vấn bằng lời nói, còn gọi là “cuộc nói chuyện riêng” hay “trò chuyện có chủ định” Bởi vậy, nói chuyện thông thường là cơ sở của phỏng vấn. Tuy nhiên, phỏng vấn khác với cuộc nói chuyện thông thường ở hai điểm sau đây:

- Mục đích phỏng vấn do chương trình nghiên cứu quy định từ trước.

- Vai trò của người phỏng vấn được quy định, thậm chí “chuẩn hóa”.

Vì vậy, kết quả phỏng vấn, chất lượng thông tin thu được phần lớn phụ thuộc vào tính chất của việc tiếp xúc, sự giao tiếp chặt chẽ và hiểu biết lẫn nhau giữa người phỏng vấn và người trả lời.

Phỏng vấn là phương pháp thu thập thông tin thông qua việc tác động tâm lý xã hội giữa người hỏi và người được hỏi nhằm thu thập thông tin phù hợp với mục tiêu và nhiệm vụ của nhà nghiên cứu.

Nguồn thông tin trong phỏng vấn bao gồm:

- Toàn bộ những câu trả lời phản ánh ý thức, quan điểm của người được hỏi.

- Các yếu tố hành vi, cử chỉ, ngôn từ của người trả lời thông qua việc quan sát trong suốt thời gian phỏng vấn.

- Phương pháp phỏng vấn thu thập thông tin dựa trên cơ sở phối hợp cả hai nguồn thông tin trên. Vì vậy người đi phỏng vấn cần căn cứ vào hai nguồn thông tin đó để xác định chính xác các câu trả lời.

Xét một cách toàn diện một cuộc phỏng vấn có các đặc điểm sau:

- Số lượng câu hỏi không nhiều để thu thập được thông tin sâu.

- Mối quan hệ ngược chiều, qua lại giữa người hỏi và người được hỏi, sự tác động của người hỏi có ảnh hưởng lớn tới kết quả của phương pháp phỏng vấn.

- Tính phi hậu quả: Các kết quả phỏng vấn phải đảm bảo sao cho không gây nên hậu quả xấu cho người được phỏng vấn.

Ngày nay, trong khoa học tâm lý, phương pháp phỏng vấn được sử dụng rất rộng rãi. Điều này xuất phát từ vai trò quan trọng của phương pháp này đối với việc nghiên cứu tâm lý học.

Thứ nhất, trong giai đoạn đầu của quá trình nghiên cứu, phân tích có thể giúp nhà nghiên cứu tìm ra được những phương án thích hợp trong bảng hỏi, giúp phỏng đoán các giả thiết khoa học và giúp khám phá ra những điều mà nhà nghiên cứu không lường hết được. Đặc biệt khi nhà nghiên cứu sử dụng phương pháp bảng hỏi làm công cụ chính của phương pháp nghiên cứu thì phỏng vấn có thể giúp nhà nghiên cứu điều chỉnh lại cấu trúc bảng hỏi cho thích hợp.

Thứ hai, phỏng vấn là công cụ chính của việc lựa chọn dữ liệu nghiên cứu. Trước khi áp dụng các biện pháp thực nghiệm, phỏng vấn có thể được sử dụng để thu thập các thông tin cơ bản trong nhóm thực nghiệm. Hoặc là sau khi áp dụng các biện pháp thực nghiệm, phỏng vấn có thể được sử dụng để kiểm định lại các nhóm này. Như vậy có thể nói trong nhiều trường hợp phỏng vấn giữ vị trí trung tâm của quá trình nghiên cứu.

Thứ ba, Phỏng vấn có khả năng lựa chọn các số liệu nổi bật từ việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác.

- Một số ưu và nhược điểm của phương pháp phỏng vấn:

Ưu điểm:

Tỷ lệ trả lời phỏng vấn rất cao. Có thể nói sử dụng phương pháp này đạt hiệu quả cao nhất về tỷ lệ câu trả lời. Những người không biết đọc, biết viết cũng có khả năng trả lời phỏng vấn. Hoặc những người không muốn tốn thời gian để điền vào bảng hỏi cũng có thể hợp tác khi trả lời phỏng vấn.

Có sự linh hoạt trong quá trình phỏng vấn. Dù là rất hạn chế, nhưng người phỏng vấn được phép nhắc lại hoặc làm rõ hơn những câu hỏi mà người trả lời hiểu lầm.

Người phỏng vấn có thể quan sát các hành vi của người trả lời và đánh giá được tính hiệu quả của câu trả lời.

Người phỏng vấn có thể ghi lại những câu trả lời mang tính bột phát. Những câu trả lời như thế nhiều khi có độ tin cậy rất cao.

Người phỏng vấn có thể đảm bảo được quá trình phỏng vấn diễn ra giữa người phỏng vấn và người trả lời phỏng vấn. Ở đây không có sự trả lời tập thể hay không có sự gợi ý, mớm lời từ câu trả lời của người khác.

Người phỏng vấn có thể ghi lại một cách chính xác thời gian, địa điểm phỏng vấn. Nếu những sự kiện quan trọng nào đó xảy ra trong quá trình nghiên cứu, người phỏng vấn có thể so sánh câu trả lời trước và sau sự kiện đó.

So sánh với một số phương pháp khác, phương pháp phỏng vấn có thể thu được những thông tin đầy đủ, sâu sắc và có thể hỏi được những câu hỏi phức tạp hơn.

Phương pháp phỏng vấn có tính hiệu quả và độ tin cậy cao.

Bên cạnh những ưu điểm kể trên, phương pháp phỏng vấn có những nhược điểm nhất định.

Nhược điểm.

Nếu điều tra viên không đủ khéo léo, họ sẽ khó có thể thiết lập được mối quan hệ với người được phỏng vấn. Vì thế, nhiều khi họ không lấy được thông tin cần thiết.

Năng lực của mỗi phỏng vấn viên là hoàn toàn khác nhau. Vì thế khó có thể đảm bảo chắc chắn rằng sự đặt vấn đề hay diễn đạt bảng hỏi là giống nhau đối với tất cả mọi người.

Nhiều khi trong quá trình phỏng vấn, người phỏng vấn có thể sẽ giải thích hoặc gợi ý câu trả lời hoặc ghi lại ý kiến của người trả lời cho hợp ý mình. Vì thế thông tin thu được kém hiệu quả.

Nếu địa bàn nghiên cứu trên một diện rộng, chi phí về thời gian và sức lực cho việc phỏng vấn là rất lớn.

Phỏng vấn ở đây thực chất là mối quan hệ tương tác giữa người phỏng vấn và người được phỏng vấn. Cuộc phỏng vấn bắt buộc phải tiến hành một cách trực tiếp. Vì thế cho nên việc hẹn gặp được người trả lời phỏng vấn là một vấn đề cũng rất khó khăn cho người phỏng vấn.

2. Phân loại phỏng vấn

Các loại phỏng vấn

Theo nội dung trình tự

Theo đối tượng

Theo cách tiếp cận và tần số

PV tiêu chuẩn hóa

PV phi tiêu chuẩn hóa

PV tự do

PV cá nhân

PV nhóm (tập thể)

PV trực tiếp

PV gián tiếp

PV sâu

PV một lần & nhiều lần

PV lâm sàng

Các loại phỏng vấn

Theo nội dung trình tự

Theo đối tượng

Theo cách tiếp cận và tần số

PV tiêu chuẩn hóa

PV phi tiêu chuẩn hóa

PV tự do

PV cá nhân

PV nhóm (tập thể)

PV trực tiếp

PV gián tiếp

PV sâu

PV một lần & nhiều lần

PV lâm sàng

Hình 7: Sơ đồ các loại phỏng vấn

2.1. Các loại nội dung trình tự phỏng vấn

2.1.1. Phỏng vấn tiêu chuẩn hóa

Phỏng vấn tiêu chuẩn hóa (còn gọi là phỏng vấn có cấu trúc, hay phỏng vấn chính quy) là loại phỏng vấn mà người nghiên cứu bắt buộc phải làm theo trình tự nội dung câu hỏi đã được vạch ra trong phiếu phỏng vấn. Trình tự hỏi - đáp được thực hiện theo đúng yêu cầu của bảng hỏi. Phỏng vấn tiêu chuẩn hóa là những công cụ nghiên cứu được sử dụng phổ biến trong nghiên cứu định lượng. Trong một cuộc phỏng vấn này, thứ tự và cách thức đặt câu hỏi được xác định trước. Nhiệm vụ của người phỏng vấn là hỏi các câu hỏi theo thứ tự đã được sắp xếp trước. Thông thường, người ta yêu cầu người tham gia lựa chọn một trong số những câu trả lời được đề xuất sẵn (chẳng hạn, lựa chọn những câu trả lời trong một thang đo Likert). Kiểu phỏng vấn này cho phép nhà nghiên cứu thu được những thông tin định lượng, hoàn toàn đảm bảo rằng những câu hỏi giống nhau được đặt ra cho tất cả những người trả lời và giảm đến mức tối đa các sai sót của từ để hỏi. Tuy nhiên, loại phỏng vấn này dành ít chỗ cho quan niệm cá nhân của người trả lời về chủ đề của phỏng vấn (chẳng hạn, những kinh nghiệm sư phạm của các bậc cha mẹ). Vì thế, phỏng vấn này không giúp thu thập những câu trả lời mới vượt ra bên ngoài những câu hỏi được nhà nghiên cứu chuẩn bị từ trước. Mặc dù có ích, nhưng một phương pháp như vậy không khuyến khích tính linh hoạt của những người tham gia. Ưu điểm chính là thực hiện cuộc phỏng vấn trực tiếp mặt đối mặt, có mặt của người phỏng vấn có thể động viên người tham gia đưa ra câu trả lời. Hơn nữa, trong trường hợp mà một câu hỏi khó hiểu, người phỏng vấn có thể nhắc lại hoặc làm sáng tỏ câu hỏi về một vấn đề. Việc làm sáng tỏ những câu hỏi người phỏng vấn cũng phải chuẩn bị từ trước. Phỏng vấn tiêu chuẩn hóa mang lại nhiều ưu điểm đối với các nghiên cứu.

2.1.2. Phỏng vấn phi tiêu chuẩn hóa

Phỏng vấn phi tiêu chuẩn hóa (hay còn gọi là phỏng vấn không có cấu trúc) là hình thức trung gian giữa phỏng vấn tiêu chuẩn hóa và phỏng vấn tự do. Cụ thể là ở đây các câu hỏi quyết định được tiêu chuẩn hóa, còn các câu hỏi khác có thể phát biểu tùy theo tình hình thực tế. Như vậy, sẽ tận dụng được ưu điểm và hạn chế được nhược điểm của mỗi loại.

Để thu thập được những thông tin mong đợi, người phỏng vấn có thể tùy ý sử dụng các câu hỏi mà không cần phải dựa theo một trật tự nào cả. Mục đích của nhiều phỏng vấn phi tiêu chuẩn hóa là nhằm khám phá những ý tưởng mới, những thông tin mới trong suy nghĩ của người được phỏng vấn. Phỏng vấn phi tiêu chuẩn hóa có những ưu điểm sau: 1) Có tính hiệu quả hơn, chúng kích thích được sự trả lời một cách tự nhiên; 2) Có tính mềm dẻo, linh hoạt; 3) Cải thiện được mối quan hệ giữa người phỏng vấn và người trả lời...

Song bên cạnh đó, cái khó của việc sử dụng phỏng vấn phi tiêu chuẩn hóa là yêu cầu đối với người phỏng vấn phải thực sự am hiểu về nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực đang nghiên cứu. Người phỏng vấn phải có nghệ thuật dẫn dắt và đưa cuộc nói chuyện theo đúng chủ đề cần nghiên cứu mà không làm tổn hại đến mối quan hệ giữa họ với người được phỏng vấn.

Những cuộc phỏng vấn phi tiêu chuẩn hóa bao gồm một số câu hỏi chính nó sẽ được đặt ra tuỳ thuộc vào mỗi cuộc phỏng vấn. Tuy nhiên, người phỏng vấn tự do đặt những câu hỏi theo một thứ tự mà anh ta cảm thấy phù hợp nhất. Hơn nữa, người phỏng vấn có thể đặt những câu hỏi bổ sung, chẳng hạn, nhằm hiểu rõ người được phỏng vấn. Thuận lợi chính của phương pháp này là phương pháp này tạo cho người phỏng vấn một sự linh hoạt rất là lớn trong quá trình thực hiện cuộc phỏng vấn. Nó cũng cho phép người trả lời phỏng vấn đưa ra những câu trả lời cho câu hỏi đối với những câu hỏi mở.

Theo cách chung nhất, phương pháp phỏng vấn này linh hoạt có khả năng thu được ngoài những thông tin theo trình tự nội dung câu hỏi đã được vạch ra trong phiếu phỏng vấn thì người trả lời còn cung cấp những thông tin một cách chi tiết hơn.

2.1.3. Phỏng vấn tự do

Phỏng vấn tự do là cuộc phỏng vấn không có những câu hỏi đã định trước, chỉ đưa ra các chủ đề người phỏng vấn hoàn toàn tự do tiến hành như một cuộc nói chuyện. Thường thì các câu hỏi này sẽ nảy sinh trong quá trình trao đổi với người trả lời. Sau đó, lời nói trong cuộc phỏng vấn được ghi lại và được phân tích với sự trợ giúp của một bảng mã hoá. Thông thường, công việc này tiêu tốn rất nhiều thời gian.

Ưu điểm là người trả lời được tự do tư tưởng thoải mái trình bày ý kiến, quan điểm của mình sâu rộng. Người phỏng vấn chủ động thực hiện mục đích của mình, không bị gò bó. Khó khăn là người phỏng vấn phải có trình độ cao, biết duy trì, dẫn dắt câu chuyện đến đích.

2.1.4. Phỏng vấn sâu cá nhân

Phỏng vấn sâu cá nhân thường hướng vào một chủ đề nhất định. Chẳng hạn như nghiên cứu về thái độ của cá nhân với một vấn đề xã hội nào đó... Phỏng vấn sâu có thể tiến hành bằng nhiều cuộc phỏng vấn khác nhau trên cùng một đối tượng. Đặc trưng của nó là quá trình phỏng vấn chỉ được tiến hành trên cơ sở một - một, có nghĩa là cuộc đàm thoại giữa một người hỏi với một người trả lời. Điều quan trọng ở đây là người phỏng vấn phải có kỹ thuật cao, biết đối tượng cần nghiên cứu và duy trì cuộc phỏng vấn để lấy được những thông tin sâu rộng của người trả lời.

Như vậy vấn đề đặt ra là khi nào chúng ta sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu? Mary Debus một nhà nghiên cứu xã hội học đã đưa ra một số vấn đề cần phải sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu cá nhân:

- Các vấn đề có sự khác biệt lớn giữa kiến thức của người phỏng vấn và người trả lời. Chẳng hạn các vấn đề về chuyên môn và kiến thức của người trả lời cao hơn kiến thức của người phỏng vấn. Hoặc là trong những hoàn cảnh nào đó mà người hỏi không hiểu rõ ý đồ của người trả lời, dẫn đến hiểu một cách không trọn vẹn.

- Vấn đề nghiên cứu rất phức tạp và người được nghiên cứu có trình độ cao. Chẳng hạn nghiên cứu thái độ và cách ứng xử của bác sĩ đối với việc điều trị một loại bệnh nào đó.

- Nghiên cứu vấn đề có tính nhạy cảm cao. Chẳng hạn nghiên cứu về thái độ của những phụ nữ đã nạo thai với vấn đề kế hoạch hóa gia đình.

- Người trả lời phân tán trên một diện rộng...

Một vấn đề quan trọng của phương pháp phỏng vấn sâu là yêu cầu đối với người phỏng vấn. Để cuộc phỏng vấn sâu thành công người phỏng vấn cần phải:

- Thu nhận chính xác thông tin.

- Nhớ lại chính xác thông tin.

- Đánh giá một cách có phê phán thông tin.

2.1.5. Phỏng vấn lâm sàng

Phỏng vấn lâm sàng là một loại phỏng vấn tập trung vào một đối tượng, nhằm thăm dò ở mức độ sâu những đặc tính cá nhân và những biểu hiện độc đáo nhất trong nhân cách của người đó. Loại phỏng vấn này được tiến hành tương tự như phương pháp đàm thoại của người thầy thuốc với bệnh nhân để chẩn đoán bệnh. Phỏng vấn lâm sàng được diễn ra trong không khí rất thoải mái giữa người phỏng vấn và người trả lời. Đối tượng phỏng vấn hoàn toàn chủ động trong cuộc nói chuyện của mình. Còn người phỏng vấn có nhiệm vụ hướng dẫn để câu chuyện không đi ra ngoài nội dung nghiên cứu được đặt ra. Phương pháp này được sử dụng nhiều trong việc điều trị các bệnh tâm lý cho bệnh nhân.

Phương pháp phỏng vấn lâm sàng thường được tiến hành bởi nhiều lần phỏng vấn khác nhau theo hướng phỏng vấn sâu để tìm ra những biểu hiện đặc trưng nhất trong nhân cách của người được hỏi.

2.2. Đối tượng phỏng vấn

2.2.1. Phỏng vấn cá nhân

Đối tượng được hỏi là những cá nhân riêng biệt. Yêu cầu đối với phỏng vấn cá nhân là hạn chế tối đa sự xuất hiện của người khác. Phỏng vấn cá nhân là hình thức phỏng vấn phổ biến nhất.

2.2.2. Phỏng vấn nhóm

Đối tượng được hỏi là một nhóm người. Nội dung cơ bản là thảo luận của một nhóm nhỏ, tập trung vào một vấn đề được lựa chọn.

Để thực hiện thành công một cuộc phỏng vấn nhóm cần lưu ý:

- Số lượng người tham gia lớn hơn 6 người và nhỏ hơn 8-12 người. Đối với nhóm nhỏ, nếu nhỏ hơn hoặc bằng 5 thì dễ đồng nhất ý kiến với nhau. Nhóm lớn hơn hoặc bằng 12 thì dễ bị phân hóa nhóm.

- Các thành viên lựa chọn để tham gia phải trên cơ sở đồng nhất trên một loạt đặc điểm có tính quyết định đến sự thuận tiện của cuộc phỏng vấn.

- Chọn những người tham gia phỏng vấn nhóm tập trung vào những người đáp ứng được những tiêu chuẩn phù hợp với đề tài nghiên cứu.

- Chọn người điều hành, dẫn dắt phỏng vấn nhóm.

- Đảm bảo sự tương tác bình thường giữa các nhân trong phỏng vấn nhóm.

- Phải có thư ký để ghi chép, sử dụng phương tiện ghi âm.

Nhược điểm của phỏng vấn nhóm thể hiện ở những điểm sau:

- Áp lực của nhóm xã hội hạn chế sự thể hiện hành vi và ý kiến của người tham gia.

- Định kiến của người điều hành, quan niệm tiêu cực của các thành viên có thể làm sai kết quả, sự thật.

- Chủ yếu để thu thập ý kiến, giải thích về một số hiện tượng tâm lý đằng sau các hành vi, thói quen, tìm hiểu một giá trị xã hội của một vài người nào đó.

- Không thu thập được những số liệu định hướng.

2.3. Các tiếp cận và tần số phỏng vấn

2.3.1. Phỏng vấn trực tiếp

Là hình thức phỏng vấn trong đó người hỏi và người trả lời có sự tiếp xúc mặt đối mặt. Tính chất của tiếp xúc trực tiếp tạo nên những mối quan hệ cảm xúc giữa người hỏi và người được hỏi và ảnh hưởng lớn tới cuộc thành công của cuộc phỏng vấn.

Năm nguyên tắc đối với người phỏng vấn trực tiếp:

- Hiểu rõ cuộc phỏng vấn.

- Quyết tâm hoàn thành cuộc phỏng vấn.

- Phải có kinh nghiệm phỏng vấn .

- Biết cách giảm thiểu sự ảnh hưởng, tính cá nhân của mình đối với cuộc phỏng vấn.

- Có tính nhạy cảm.

2.3.2. Phỏng vấn gián tiếp

Chủ yếu là phỏng vấn qua điện thoại, được sử dụng với những trường hợp ở cách xa không có điều kiện phỏng vấn trực tiếp. Chủ yếu được thực hiện qua ngôn ngữ nói và việc chọn mẫu. Phỏng vấn qua điên thoại được áp dụng với các chủ đề rộng và thường được kết hợp với các phương pháp khác. Phỏng vấn tiêu chuẩn hóa và phỏng vấn phi tiêu chuẩn hóa đều có thể được tiến hành trực tiếp hoặc qua điện thoại.

- Phỏng vấn qua điện thoại có một số ưu điểm sau:

Ít tốn công sức và thời gian so với phỏng vấn trực tiếp.

Thông tin mang lại nhanh chóng, kịp thời về những phản ứng của người được hỏi, đặc biệt là các phản ứng đã thể hiện trên các phương tiện đại chúng (đã đăng báo, đã phát biểu trên đài phát thanh hoặc trên truyền hình).

- Để chuẩn bị phỏng vấn qua điện thoại cần phải theo trình tự các bước như sau:

Lập danh sách những người được hỏi ý kiến. Việc này tương đối dễ dàng dựa vào danh bạ điện thoại nếu lập mẫu xác suất đó là bảng liệt kê tổng thể điều tra. Từ đó, có thể tổ chức chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản, mẫu hệ thống hoặc mẫu cụm. Tuy nhiên, khi sử dụng cần lưu ý những yêu cầu đối với tổng thể mẫu không phải luôn thỏa mãn. Ví dụ: về tính trùng lặp, một người có thể có điện thoại cơ quan, nhà riêng. Danh bạ điện thoại không phải bao gồm tất cả những người có máy điện thoại (nhiều người không đăng ký hoặc một người dùng nhiều máy)

Chuẩn bị nội dung và ấn định cho cuộc phỏng vấn: về nội dung phỏng vấn qua điện thoại đáp ứng được yêu cầu thu thập thông tin là chỉ tiến hành chớp nhoáng, nội dung tâp trung chỉ kéo dài từ 5 đến 10 phút. Nói chung việc phỏng vấn phải ấn định thời gian trước. Hẹn nói qua điện thoại phải vào giờ thích hợp với người được phỏng vấn. Khi hẹn phải là một số nội dung của cuộc phỏng vấn bình thường: giới thiệu về bản thân, cơ quan nghiên cứu, mục đích nghiên cứu hoặc sơ bộ đề tài...

Tiến hành phỏng vấn qua điện thoại có thể đi vào chủ đề ngay nhưng phải chú ý: cách tiếp cận, mặc dù đã hẹn nhưng mỗi lần gọi điện thoại là một lần người được phỏng vấn phải tạm ngừng công việc và chờ đợi nên cần niềm nở chào hỏi hay việc xin lỗi và cảm ơn đều cần thiết. Hãy lịch sự khi nói chuyện qua điện thoại và sử dụng ngôn ngữ văn hóa, văn minh điện thoại.

- Hạn chế của loại phỏng vấn này là:

Khó chọn mẫu đại diện cho nghiên cứu.

Khó đánh giá mức độ quan tâm và thái độ của người trả lời.

Giảm sự hứng thú cho người được phỏng vấn.

Nội dung thường hạn chế.

Tỉ lệ từ chối trả lời cao hơn so với phỏng vấn trực tiếp.

2.3.3. Phỏng vấn một lần

Là phỏng vấn chỉ thực hiện một lần với người được phỏng vấn.

2.3.4. Phỏng vấn nhiều lần

Là phỏng vấn được lặp lại đối với người được phỏng vấn về cùng một vấn đề ở các thời điểm khác nhau. Sử dụng khi nghiên cứu so sánh, nghiên cứu điều tra.

- Mục đích của phỏng vấn nhiều lần nhằm:

Để kiểm tra sự thay đổi ý kiến của người được nghiên cứu.

Để thiết lập sự xuất hiện những yếu tố mới trong quy nghĩ, hành vi của người được nghiên cứu trong những thời điểm khác nhau. Đặc biệt tại những thời điểm có biến cố lớn trong cuộc sống, trong nhận thức cá nhân của người được nghiên cứu.

Trên thực tế phỏng vấn lặp lại nhiều lần để nghiên cứu thực nghiệm, để nhằm xác định những biến đổi trong quan niệm, nhận thức, hành vi của nhóm thực nghiệm ở thời điểm trước và sau khi có tác nhân kích thích.

3. Lựa chọn và tập huấn người phỏng vấn

Cuộc phỏng vấn là cuộc giao tiếp một chiều do người phỏng vấn điều khiển. Vì vậy, chọn người phỏng vấn cần được khảo sát kỹ lưỡng về phẩm chất và năng lực của người phỏng vấn. Người phỏng vấn không thể xuất hiện mà không có đặc điểm cá nhân, đặc biệt là ấn tượng ban đầu rất có ảnh hưởng đến người được phỏng vấn và kết quả nghiên cứu nói chung.

3.1. Lựa chọn người phỏng vấn

- Những tiêu chuẩn chọn người phỏng vấn:

Quan tâm đến sinh hoạt xã hội, đến hoạt động của con người. Điều đó đòi hỏi tính cởi mở và gần gũi mọi người, thích giúp đỡ người khác và có lòng tin vào con người.

Có khả năng trí lực để tiếp thu đầy đủ các kiến thức cần thiết cho công tác phỏng vấn.

Có khả năng giao tiếp và gần gữi với nhiều loại người, nhiều loại nghề nghiệp, lứa tuổi khác nhau.

Khỏe mạnh, có đủ sức khỏe và đủ sức tập trung tư tưởng trong các cuộc phỏng vấn.

Có sức chịu đựng tâm lý kể cả lúc bị công kích một cách vô cớ để có thể hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống.

Có tinh thần kỷ luật và có khả năng tự kiềm chế để có những xử lý đúng mực.

Có khả năng quan sát, hiểu lời nói và cử chỉ, hành vi.

Có thói quen tự do tư tưởng, thích nghe điều hay, lẽ phải, không bảo thủ...

Các tiêu chuẩn trên đây không nên hiểu một cách máy móc mà chỉ coi là những phẩm chất cơ bản, thực tế còn biểu hiện sinh động, phong phú hơn rất nhiều. Mặt khác, những phẩm chất đó có thể rèn luyện được trong công tác, thực tế.

- Những yếu tố ảnh hưởng đến kết quả phỏng vấn

Độ tuổi: không nên để những người có khoảng cách quá lớn về độ tuổi vì dễ làm người hỏi và người trả lời bối rối. Về những đề tài quản lý, giáo dục, gia đình, tâm bệnh học rộng lớn không nên để những người trẻ tuổi đi phỏng vấn .

Giới tính: không nên để những người khác giới tính hỏi những đề tài tế nhị, khó nói. Một số đề tài đặc thù, ví dụ, tâm lý của nam giới trong quan hệ xã hội, gia đình và lao động nghề nghiệp thì tốt hơn hết là dùng phỏng vấn nam...

Tác phong bề ngoài, ăn mặc: tác phong đoàng hoàng, chững chạc, nghiêm túc, dáng vẻ đáng tin cậy. Trang phục nói chung phải tính đến hoàn cảnh, vị trí xã hội của người được hỏi, ví dụ: về nông thôn, xuống phân xưởng sản xuất phải ăn mặc theo hoặc đơn giản tương tự người lao động; đến cơ quan thì ăn mặc đứng đắn hơn, đến từng gia đình thì phải ăn mặc sạch sẽ, dễ gần. Tránh sự phô trương quần áo vì có thể làm cho người được hỏi mất tập trung quên mất nội dung được hỏi, thậm chí khó chịu...Nếu là nhân viên của cơ quan, đại diện của tổ chức nghiên cứu thì ăn mặc phải phản ánh được là người đại diện cho cơ quan, tổ chức đó.

Không nên chọn những người có quan điểm cực đoan đối với nội dung phỏng vấn vì như thế dễ gây ảnh hưởng đến tính trung lập của người đi phỏng vấn.

- Một số yêu cầu cụ thể đối với người phỏng vấn:

Có trình độ văn hóa nhất định, có sự hiểu biết rộng, am hiểu về các lĩnh vực của đời sống xã hội, không định kiến đối với người trả lời.

Có khả năng sử dụng ngôn từ phù hợp với văn hóa của người trả lời. Biết nói một cách dễ hiểu, không vội vàng hấp tấp, truyền đạt cho người trả lời ý nghĩa đầy đủ và thực sự của câu hỏi.

Biết lắng nghe, im lặng và lái hướng cuộc đối thoại nhưng không làm mất đi ý nghĩa trung tâm của cuộc nghiên cứu.

Có tính kiên nhẫn, luôn biểu thị thái độ tôn trọng đối với người được phỏng vấn.

3.2. Tập huấn cho người phỏng vấn

Trước khi tiến hành bất cứ một cuộc phỏng vấn nào, khâu quan trọng nhất là lựa chọn người phỏng vấn và tập huấn phương pháp nghiên cứu cho họ. Thông thường công tác huấn luyện được diễn ra theo các bước sau:

- Chủ nhiệm đề tài nghiên cứu trình bày một cách ngắn gọn về mục đích, yêu cầu của công trình nghiên cứu, thời gian, địa điểm tiến hành phỏng vấn và chi phí thù lao cho người đi phỏng vấn...

- Phát các bảng câu hỏi phỏng vấn hay các chỉ dẫn để người làm công tác phỏng vấn đọc và đưa ra những ý kiến nếu như họ không rõ. Chủ nhiệm đề tài có trách nhiệm giải thích từng câu hỏi phỏng vấn và đưa ra yêu cầu cho từng câu hỏi.

- Sau khi đã thống nhất toàn bộ bảng hỏi và cách hỏi, các phỏng vấn viên tiến hành thực tập với nhau và với người tập huấn. Các phỏng vấn viên tiến hành phỏng vấn thử. Trong giai đoạn này người phỏng vấn phải có trách nhiệm ghi lại toàn bộ những nhận xét về bất cứ vấn đề gì. Chẳng hạn những câu hỏi mập mờ, chưa rõ ràng hoặc những phương án trả lời mà nhà nghiên cứu không lường trước. Giai đoạn này người phỏng vấn có thể tự do phỏng vấn tất cả các nội dung cần thiết.

- Cuộc thảo luận được tiến hành ngay sau khi đã phỏng vấn thử. Chủ nhiệm đề tài và phỏng vấn viên thảo luận với nhau về tất cả các câu hỏi, sửa chữa chung cho thích hợp, thống nhất lại cách hỏi lần cuối cùng.

- Sau cùng là tiến hành phỏng vấn. Lúc này là lúc người phỏng vấn phải chú ý đến những kỹ thuật và những khó khăn thường gặp trong quá trình phỏng vấn.

Kinh nghiệm các cuộc phỏng vấn cho thấy với thời gian tập huấn khoảng 1 -2 tuần cho những người tham gia phỏng vấn không chuyên là có thể đáp ứng được yêu cầu của những cuộc phỏng vấn bình thường. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là những người này đã làm được như những phỏng vấn viên chuyên trách.

4. Quy trình phỏng vấn

Hiệu quả của quá trình phỏng vấn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: chủ đề đang nghiên cứu, bảng câu hỏi đã được nêu ra, người phỏng vấn và người được phỏng vấn... Trong tất cả các yếu tố kể trên các yếu tố thuộc về người phỏng vấn giữ vị trí trọng yếu trong việc đảm bảo tính hiệu quả của quá trình phỏng vấn. Chúng ta đều biết rằng, quá trình phỏng vấn là sự thể hiện mối quan hệ tương tác giữa người phỏng vấn và người trả lời. Như vậy, làm thế nào để duy trì tốt mối quan hệ tương tác này là một vấn đề cần đặt ra cho người làm công tác phỏng vấn.

Sự thành công của bất cứ một cuộc phỏng vấn nào phụ thuộc vào kỹ năng giao tiếp của các cá nhân tham gia vào phỏng vấn và phụ thuộc vào mỗi cá nhân vận dụng những kỹ năng này trong các bước thích ứng với từng tình huống phỏng vấn khác nhau:

- Chuẩn bị phỏng vấn

- Trao đổi trong phỏng vấn

- Kết thúc phỏng vấn.

4.1. Chuẩn bị cho một cuộc phỏng vấn

Bước chuẩn bị có thể là bước có tính quyết định nhất của một cuộc phỏng vấn. Việc chuẩn bị bao gồm những yếu tố cần trả lời các câu hỏi sau:

- Mục đích: Mục đích của cuộc phỏng vấn là gì? Thông tin cần nhận được là những gì? Kiểu phỏng vấn nào là thích hợp nhất? Bầu không khí nói chuyện như thế nào là tốt nhất (thoải mái hay căng thẳng)?

- Ăn mặc: Cần phải ăn mặc như thế nào cho phù hợp với mục đích của cuộc phỏng vấn. Ăn mặc như vậy có gây sự sao lãng, phân tâm người nói chuyện?

- Hiểu chính mình: Bạn có biết được những điểm mạnh, điểm yếu, những định kiến và thiên vị trong nhận thức những cản trở vô hình khác có thể của mình ảnh hưởng tới cuộc phỏng vấn không?

- Hiểu đối tượng: Bạn đã biết những gì và cần phải biết những gì về đối tượng được phỏng vấn? Những giá trị, nguyện vọng, động lực và kiến thức của đối tượng là gì?

Thông qua việc chuẩn bị một cách hữu hiệu, người phỏng vấn có thể xây dựng tình huống và có cách cư xử thích hợp cho buổi phỏng vấn.

Điều đầu tiên cần phải lưu ý, trước khi bắt đầu một cuộc phỏng vấn, người điều tra phải có hẹn thời gian làm việc với người được phỏng vấn. Khi tiếp xúc với đối tượng người phỏng vấn phải có thái độ nhã nhặn, lịch sự. Việc giới thiệu về bản thân và công việc mình đang nghiên cứu là rất cần thiết cho việc tiếp tục phỏng vấn sau này. Nhiều khi cuọc phỏng vấn có tiếp tục thực hiện được hay không phụ thuộc hoàn toàn vào lần tiếp xúc đầu tiên này. Công việc giới thiệu bao gồm những việc sau:

1) Nói cho đối tượng điều tra biết người phỏng vấn là ai, đại diện cho cơ quan nào, nếu cần có thể đưa ra danh thiếp hoặc giấy giới thiệu.

2) Cho người được hỏi biết mục đích của công việc nghiên cứu nhằm kích thích sự tò mò của họ. Đồng thời bảo đảm rằng những thông tin do anh ta cung cấp được giữ kín và không bị lạm dụng. Thậm chí tên tuổi, địa chỉ của anh ta cũng không cần quan tâm.

3) Cần cho đối tượng phỏng vấn biết rằng người ta không chọn cá nhân ông (hoặc bà ta) một cách tò mò mà đơn giản là chọn một cách ngẫu nhiên, vì người ta cần một số đại diện cho một tập hợp người cần nghiên cứu. Cách lựa chọn này là hoàn toàn ngẫu nhiên và mang tính khách quan.

Người phỏng vấn cần phải tiến hành công việc giới thiệu một cách nhanh chóng nhất. Điều này vừa nhằm giảm bớt thời gian phỏng vấn rườm rà, vừa tiếp xúc với đối tượng một cách thoải mái. Theo kinh nghiệm của nhiều nhà nghiên cứu Mỹ, muốn cho cuộc tiếp xúc đầu tiên kết thúc một cách nhanh chóng, người điều tra cần dùng phương pháp tiếp xúc mang tính chất khẳng định. Điều đó có nghĩa là người phỏng vấn phải luôn nghĩ rằng người trả lời phỏng vấn không quá bận đến nỗi không tiến hành được cuộc phỏng vấn. Câu đầu tiên người làm công tác phỏng vấn nên nói rằng: “Tôi muốn xin phép nói chuyện với anh (chị) về vấn đề này” sẽ tốt hơn là nói “Tôi có được phép vào không?” hay “Bây giờ anh (chị) có thời gian rỗi không?”. Cách hỏi khẳng định sẽ làm cho người trả lời phỏng vấn khó từ chối cuộc phỏng vấn.

4.2. Gặp mặt trực tiếp trao đổi với người được phỏng vấn

Sau khi làm công tác giới thiệu, bắt đầu vào phỏng vấn trực tiếp, nhiều khi người phỏng vấn gặp phải trường hợp trả lời cảm thấy khó chịu, không thoải mái. Để làm giảm không khí nặng nề yên lặng, người phỏng vấn nên nói một số chuyện có tính chất ngoài lề. Chẳng hạn nói về sở thích, về nhà cửa, về cuộc sống xã hội nói chung... Sau đó hãy đi vào vấn đề cần thiết.

Để duy trì mối quan hệ thân thiện giữa người phỏng vấn và người trả lời, người phỏng vấn phải luôn ý thức rằng, cuộc phỏng vấn có tồn tại được hay không, hiệu quả và độ tin cậy của nó đến đâu là phụ thuộc vào người trả lời. Vì thế người phỏng vấn tránh hỏi những vấn đề tế nhị, chẳng hạn: các vấn đề riêng tư trong đời sống cá nhân, cách kiếm tiền, cách làm ăn kinh tế... Nếu như đề tài nghiên cứu có liên quan đến những vấn đề đó thì người phỏng vấn nên hỏi một cách gián tiếp. Người phỏng vấn nên hạn chế việc đặt ra quá nhiều câu hỏi vì chúng sẽ làm cho người trả lời phỏng vấn thêm chán ngán. Tốt nhất là người phỏng vấn nên tách chúng ra làm nhiều cuộc phỏng vấn khác nhau.

Một số vấn đề rất quan trọng đặt ra đối với người phỏng vấn là phải giải quyết cùng một lúc hai yêu cầu tưởng chừng như rất mâu thuẫn. Thứ nhất, phải làm thế nào để người được hỏi hiểu rõ yêu cầu mà câu hỏi nêu ra. Thứ hai, làm thế nào để câu trả lời thu được không chị ảnh hưởng từ phía người phỏng vấn. Để điều hòa được hai yếu tố đó, người phỏng vấn chỉ được làm sáng tỏ câu hỏi trong giới hạn cho phép, chứ không được hướng dẫn câu trả lời. Những câu trả lời của người được phỏng vấn trong trường hợp không có máy ghi âm, phải được ghi lại một cách trung thực, ghi nguyên văn không sửa chữa thêm bớt.

Trong trường hợp yêu cầu phỏng vấn theo kỹ thuật phỏng vấn tiêu chuẩn hóa, người điều tra phải tuân thủ một số nguyên tắc sau đây:

- Hỏi đúng những câu hỏi đã được đặt ra. Trong phỏng vấn tiêu chuẩn hóa mọi người trả lời phỏng vấn đều được hỏi cùng một loại câu hỏi. Điều này cho phép so sánh những câu trả lời của tất cả những người trả lời phỏng vấn và tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý số liệu.

- Giọng nói và ngữ điệu lời nói phải như nhau cho tất cả mọi đối tượng.

- Hạn chế tối đa việc giải thích các câu hỏi vì nó có thể dẫn đến những thay đổi tế nhị trong ý nghĩa câu hỏi. Tuy nhiên người phỏng vấn cũng được phép nhắc lại câu hỏi nếu người trả lời hiểu lầm câu hỏi.

- Các câu hỏi phải hỏi theo thứ tự đã định từ trước.

- Không được gợi ý câu trả lời cho những người được trả lời phỏng vấn.

Trong khi tiến hành phỏng vấn chúng ta gặp một số trường hợp trả lời không hợp tác trong việc trả lời câu hỏi phỏng vấn. Vậy chúng ta phải làm như thế nào khi gặp những trường hợp này. Người ta đã đưa ra một số những lý do khiến người trả lời không hợp tác:

- Người trả lời phỏng vấn chỉ nói “không” hoặc “không quan tâm” mà không đưa ra lý do cụ thể.

- Người trả lời phỏng vấn cho rằng việc làm đó là không hữu ích.

-Người trả lời phỏng vấn cho biết họ quá bận không có thời gian cho việc phỏng vấn.

- Người trả lời phỏng vấn đang làm một việc gì đó mà không thể tiến hành phỏng vấn.

- Người trả lời phỏng vấn mới được một tổ chức nào đó phỏng vấn và họ không muốn phỏng vấn tiếp...

Trong trường hợp thứ nhất và thứ hai người phỏng vấn phải thuyết phục họ bằng cách đưa cho họ xem danh thiếp, giấy giới thiệu, đồng thời nói cho họ biết mục đích của việc nghiên cứu. Trong trường hợp thứ hai có thể đưa ra những công trình nghiên cứu có giá trị và có hiệu quả để tạo ảnh hưởng đến người trả lời.

Trong trường hợp thứ ba và thứ tư, người phỏng vấn nên rút lui và sẽ quay trở lại vào một dịp khác thuận tiện hơn. Các dịp quay trở lại nên thay đổi thời gian để tìm thời gian thích hợp. Hoặc nếu cần có thể hỏi những người xung quanh xem lúc nào người trả lời rảnh rỗi nhất.

Trường hợp thứ năm, người phỏng vấn nên giải thích cho người trả lời phỏng vấn biết tính hữu ích của mỗi cuộc phỏng vấn là hoàn toàn khác nhau. Vì thế không có vấn đề gì là không hợp lệ khi người trả lời phỏng vấn mới được phỏng vấn trong thời gian gần đây.

Trong suốt cuộc phỏng vấn người phỏng vấn cần đặc biệt lưu ý các yếu tố sau:

- Mối quan hệ : Đã xây dựng được một bầu không khí có lợi cho mục đích của cuộc phỏng vấn? Liệu có một thái độ tôn trọng lẫn nhau hay không.

- Tính linh hoạt: Khi buổi nói chuyện có chiều hướng lạc đề và không theo đúng kế hoạch, người phỏng vấn có thể lái buổi nói chuyện sang hướng khác hay không?

- Luồng thông tin hai chiều: Các bên tham dự có hưởng ứng quá trình giao tiếp mang tính chất đối thoại hay không? Có một bên nào đó muốn biến nó thành tình huống độc thoại hay không?

Phỏng vấn là một quá trình đối thoại giữa 2 người: Điểm khác biệt chủ yếu là mức độ nghiêm túc của nó cao hơn cuộc nói chuyện giữa hai người. Như vậy, cần thực hiện sự chuyển đổi từ vai trò người nghe sang vai trò người nói một cách uyển chuyển, linh hoạt. Nếu không lắng nghe đầy đủ và hiểu thấu đáo vấn đề, thì câu trả lời sẽ không đầy đủ hoặc thiếu chính xác. Việc lắng nghe có hiệu quả và tích cực có liên quan tới việc tập trung trí tuệ và thể hiện các cử chỉ, điệu bộ đúng lúc.

- Đặt câu hỏi là một kỹ thuật của phỏng vấn dùng để thu thập thông tin.

Các câu hỏi là những hình thức phản hồi một cách hữu hiệu và giữ cho cuộc phỏng vấn tiếp tục diễn ra, khi nó có chiều hướng lắng xuống. Các câu hỏi trực tiếp có thể được trả lời một cách dễ dàng và ngắn gọn. Các câu hỏi này thường quan tâm tới các thông tin xác thực và ứng với các câu trả lời “có” hoặc “không”.

Ví dụ: “Bạn bao nhiêu tuổi?”; “Khi nào bạn sẽ tốt nghiệp?”, “Bạn đã đi du lịch ở nước ngoài chưa?”.

Do quan tâm nhiều đến các thông tin xác thực, các câu hỏi trực tiếp không hỗ trợ nhiều cho quá trình đối thoại trong cuộc phỏng vấn. Các câu hỏi gián tiếp giúp xây dựng cuộc đối thoại, bởi vì chúng được đặt ra nhằm thu thập những câu trả lời, mà người ta phải suy nghĩ. Ví dụ, “tại sao bạn cảm thấy dạy học sẽ là nghề nghiệp của mình?”, “Bạn đã có kinh nghiệm gì trong khi làm việc như là một thành viên của nhóm?”.

Các câu hỏi hoặc các câu nói thường là một hình thức diễn giải vấn đề, nhắc lại nội dung hoặc ý muốn nói trong thông điệp của người gửi, và qua đó kiểm tra lại sự hiểu biết vấn đề của người nghe.

Các kỹ thuật và diễn giải vấn đề được sử dụng trong hầu hết thời gian của buổi nói chuyện. Việc sử dụng một cách thận trọng các kỹ thuật này có thể có lợi rất nhiều trong tình huống phỏng vấn và cho luồng thông tin hai chiều. Người phỏng vấn có thể tạo ra một kiểu phỏng vấn bằng cách sử dụng giọng nói và âm lượng của mình. Một giọng nói thân mật sẽ tạo cho người được phỏng vấn cảm giác thoải mái, dễ chịu. Một giọng nói gay gắt có thể khủng bố tinh thần của người đối diện và tạo ra một tình huống phỏng vấn gò ép. Tương tự như vậy, người phỏng vấn có thể tạo ra một bầu không khí giao tiếp thoải mái hoặc căng thẳng thông qua việc sắp xếp các câu hỏi. Chẳng hạn, việc đưa ra các câu hỏi khó ngay từ đầu, có thể đưa người được phỏng vấn vào tâm trạng căng thẳng. Ngôn ngữ cũng có thể là một nhân tố quan trọng. Bằng việc chú ý tới cách giao tiếp qua ánh mắt và bằng một thái độ quan tâm tới người nói chuyện qua các cử chỉ, điệu bộ, người phỏng vấn có thể có cơ hội tốt để hướng cuộc nói chuyện đi theo các mục đích đã đặt ra .

Những nguyên tắc này đòi hỏi người sử dụng phải vận dụng một cách linh hoạt và phải có nỗ lực nhiều để tăng thêm tính hiệu quả của cuộc phỏng vấn. Ngoài ra, việc đưa ra loại câu hỏi nào cũng có thể ảnh hưởng tới sự thành công hay thất bại của cuộc phỏng vấn. Các câu hỏi có thể trả lời một cách đơn giản là “có” hoặc “không” có thể không có lợi và có thể đẩy người được phỏng vấn đi lạc đề. Các câu hỏi bắt đầu bằng các từ như “Như thế nào”; “cái gì”; “tại sao” sẽ làm cho buổi nói chuyện thêm thân mật.

4.3. Kết thúc cuộc phỏng vấn

Thời điểm nào quyết định kết thúc cuộc phỏng vấn. Có nên đưa ra hay hoãn lại quyết định này? Có nên phỏng vấn người này thêm một lần nữa ? Có nên thông báo cho người được phỏng vấn biết rằng họ sẽ nhận được thư trả lời sau đó? Người phỏng vấn cần phải xác định chính xác những gì phải làm tiếp hay không? Kết thúc cuộc phỏng vấn có xây dựng được sự thông cảm lẫn nhau hay không?

Nếu cuộc phỏng vấn không có các nội quy cụ thể thì sau khi kết thúc cuộc phỏng vấn, phỏng vấn viên mới có thể nói chuyện cởi mở với người được hỏi, có thể trình bày thêm về đề tài nghiên cứu nếu thời gian cho phép. Làm như vậy sẽ có tác dụng tăng thêm sự hiểu biết cho người được hỏi và ghi nhận ý nghĩa của việc đóng góp ý kiến của họ cho việc nghiên cứu đề tài.

4.4. Một số vấn đề cần lưu ý trong quá trình phỏng vấn

- Địa điểm phỏng vấn: người phỏng vấn phải lựa chọn địa điểm phỏng vấn cho phù hợp với nội dung và đặc điểm của đối tượng nghiên cứu. Địa điểm phỏng vấn tốt là những nơi yên tĩnh, ấm cúng, ít người qua lại, kín đáo, cố gắng không phỏng vấn với sự có mặt của người thứ 3, nhất là sự có mặt đó có tác dụng gây nhiễu. Khi phỏng vấn nhóm cần sắp xếp chỗ ngồi sao cho họ không trao đổi với nhau. Không nên phỏng vấn tại nơi làm việc vì người trả lời thường bận bịu và có sự chú ý của đồng nghiệp, vì vậy nên tiến hành vào lúc giải lao ở chỗ nghỉ. Những đề tài về đời sống, thời gian nhàn rỗi... tốt hơn nên tiến hành trong điều kiện gia đình.

- Thời điểm phỏng vấn: thời gian phỏng vấn là lúc người được phỏng vấn rảnh rỗi, thư giãn nhất. Không nên phỏng vấn vào lúc quá sớm hoặc quá muộn, giờ nghỉ hoặc giữa ca, những thời điểm mà người ta đang gặp khó khăn trong cuộc sống. Thời điểm thích hợp nhất, thời gian khá thoải mái để người được phỏng vấn có thể ngồi tiếp chuyện.

- Tính trung lập của người phỏng vấn: trong bất cứ thời điểm nào người phỏng vấn cũng phải giữ tính trung lập không để lộ quan điểm của mình đối với vấn đề được nghiên cứu, không được biểu thị thái độ, ý kiến cá nhân trong khi tiến hành phỏng vấn. Người phỏng vấn không được bình luận gì về câu trả lời của người được phỏng vấn: khen, chê, đồng tình hay lắc đầu...

- Tốc độ phỏng vấn: Đối với việc khai thác thông tin sâu tốc độ phỏng vấn phải chậm. Đối với những trường hợp người được hỏi có thể đề phòng nói sai thì nhịp độ phỏng vấn phải nhanh, để lâu thông tin thu được sẽ không chính xác. Nhịp độ phỏng vấn được ghi rõ ngay trong yêu cầu đối với các cuộc phỏng vấn. Để thực hiện tốt tốc độ phỏng vấn, người phỏng vấn cần nghiên cứu trước một cách tỉ mỉ, khoa học sự luân chuyển của các câu hỏi trong cuộc phỏng vấn.

Tốc độ phỏng vấn thường được quy định, ghi ngay trong bảng câu hỏi để phỏng vấn. Việc quy định này là căn cứ vào đề tài của cuộc trao đổi, độ dài của cuộc phỏng vấn, địa điểm và tình huống tiến hành trưng cầu ý kiến.

Ví dụ: Nếu cuộc nghiên cứu động chạm đến những vấn đề quan trọng thì cần tốc độ chậm, trái lại nếu câu hỏi nêu ra mà để ngẫm nghĩ thì có thể dẫn đến sai lệch thông tin ,phải tiến hành với tốc độ nhanh hơn.

Cuộc phỏng vấn ngắn về mặt thời gian thường gồm các câu hỏi sinh động, trái lại cuộc phỏng vấn dài thì nhịp điệu điềm tĩnh hơn.

Tuy nhiên, trong kế hoạch phỏng vấn cũng phải dự kiến cả sự chuyển đổi về tốc độ. Bản thân việc chuẩn bị của người phỏng vấn nhất là sự luân phiên của các câu hỏi, những vấp váp do không chuẩn bị kỹ hoặc không ứng phó kịp những tình huống bất ngờ... đều làm chậm tiến trình phỏng vấn.

- Neuman (1995) vạch ra sáu loại thông tin không rõ ràng có thể xảy ra khi phỏng vấn

Những lỗi của người trả lời: quên, không hiểu câu hỏi, cảm thấy gò bó hoặc nói dối gắn với sự có mặt của người khác.

Những lỗi không cố ý gắn với sự không chú ý của người phỏng vấn khi gặp gỡ với người trả lời không trung thực, khó đọc một câu hỏi, quên một câu hỏi, thay đổi trật tự những câu hỏi, ghi lại một câu trả lời kém hoặc không hiểu người trả lời.

Những lỗi cố ý của người phỏng vấn: thay đổi những câu hỏi, quên hoặc cố ý đặt lại những câu hỏi, lựa chọn một câu trả lời không có từ trước.

Những ảnh hưởng gắn với người phỏng vấn: bề ngoài, giọng nói, thái độ, phản ứng với những câu trả lời, những lời bình luận được đưa ra không gắn với hoàn cảnh cuộc phỏng vấn....

Những ảnh hưởng gắn với sự chờ đợi của người phỏng vấn tuỳ thuộc vào hoàn cảnh của cuộc sống hoặc những câu trả lời ưu tiên của người được phỏng vấn.

Những phong tục lạc hậu xuất hiện khi phỏng vấn hoặc do thiếu sự thăm dò từ trước.

5. Ghi chép trong phỏng vấn

Việc ghi chép những câu trả lời cũng là một mặt của kỹ thuật phỏng vấn. Sự ghi chép có ảnh hưởng đến tốc độ phỏng vấn, làm phân tán đến sự chú ý của người phỏng vấn, làm thay đổi tâm trạng của người trả lời (phấn khởi, lo lắng...). Đây cũng là một tiêu chuẩn chuyên môn của người làm phỏng vấn.

- Đơn giản nhất là ghi chép những câu trả lời đã được mã hóa. Việc ghi chép chỉ là đánh dấu chéo hay gạch chân dưới câu trả lời được lựa chọn.

- Ghi chép từng lời, tốc ký: nếu không biết tốc ký thì có thể sử dụng lối viết tắt, ký hiệu, bỏ qua những giới từ, chữ đệm...nhưng với điều kiện phải giải mã ngay khi kết thúc phỏng vấn vì dễ bị quên.

- Một số kinh nghiệm để khắc phục những hạn chế của việc ghi chép trong phỏng vấn:

Ghi chép vào lúc người trả lời đang nói, lúc ngừng tự nhiên hoặc đang do dự vì một lý do nào đó.

Sử dụng người ghi chép, đặc biệt là khi phỏng vấn tự do.

Ghi chép theo kiểu hồi tưởng tại chỗ và chỉ ghi sơ lược, khi về nhà mới hồi tưởng để bổ sung. Cách ghi chép này có thể khắc phục được các nhược điểm ghi chép nói trên nhưng nó lại có rất nhiều nhược điểm. Đó là nó thường thiếu về những vấn đề mà người phỏng vấn quan tâm hoặc gây ấn tượng mạnh, những phản ứng của người trả lời mà theo người phỏng vấn là kém quan trọng có thể bị bỏ qua, mất đi một lượng khá lớn những thông tin. Có thể khắc phục bằng cách sử dụng người thứ hai khi ghi lại bổ sung cho nhau, cố gắng nhớ lại cả những ngữ điệu, đặc điểm hành vi, nét mặt, cử chỉ của người trả lời.

- Ghi âm: có hiệu quả cao nhất về các mặt sau đây

Ghi chép được cặn kẽ, tối đa những câu trả lời.

Tiếp tục phân tích, hoàn thành văn bản về sau, đặc biệt là phỏng vấn những nhân vật quan trọng, khó có điều kiện tiếp xúc, không phải ai cũng làm được...thì cần tận dụng khả năng để ghi âm. Nhược điểm là tốn kém, mất tính tự nhiên của người được phỏng vấn, thâm chí cuộc phỏng vấn mất tính trung thực.

Khi phỏng vấn người trả lời cần được biết các hình thức ghi chép mà người phỏng vấn sử dụng, bởi vì chúng giúp cho cả hai bên trong cuộc nói chuyện. Chẳng hạn, nếu người phỏng vấn dự định ghi chép trong lúc phỏng vấn, thì người phỏng vấn phải báo trước cho người được phỏng vấn. Nếu không, người được phỏng vấn có thể sẽ sợ hãi, không thoải mái..., khi người phỏng vấn ghi chép. Mặt khác, nếu người phỏng vấn chỉ lo ghi chép, thì người được phỏng vấn có thể sẽ cảm thấy không được chú ý, quan tâm một cách công bằng. Người phỏng vấn nên giới thiệu ý định ghi chép bằng cách nói như: “tôi muốn được phép ghi chép để khẳng định chắc chắn rằng, chúng ta đã đề cập tới mọi vấn đề cần thiết. Chúng ta cũng có thể sử dụng những gì ghi chép được để cuối buổi phỏng vấn khẳng định lại những gì ông đã nói và những gì tôi đã hiểu. Ông không phản đối chứ?”. Sau sự giao ước như vậy, việc ghi chép sẽ không còn là vấn đề nữa, đặc biệt nếu các thông tin được ghi chép không phải là bí mật và chỉ có người phỏng vấn được sử dụng thông tin này. Thậm chí, việc cho người được phỏng vấn đọc các thông tin ghi chép được sẽ làm cho họ cảm thấy an tâm hơn. Tất nhiên, sau khi đối tượng ra về, người phỏng vấn có thể ghi thêm các nhận xét cá nhân của mình.

Xác định cách ghi chép phụ thuộc vào nội dung phỏng vấn, trình độ chuyên môn và các tình huống cụ thể, các loại phỏng vấn.

- Phương pháp ghi âm lời nói :

Giả sử chúng ta muốn hiểu quá trình trẻ em giải quyết một vấn đề. Chính xác hơn là muốn hiểu các chiến lược nhận thức của chúng trong khi tiến hành một hoạt động. Làm thế nào để thu được thông tin này? Đầu tiên, có thể yêu cầu một số trẻ nêu ra các bước mà chúng thường sử dụng để giải quyết một vấn đề. Tuy nhiên, những bước này có thể không đầy đủ hoặc không chính xác. Chẳng hạn, một đứa trẻ thường có thể mô tả các cách thức mà cha mẹ trẻ đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần cho trẻ hơn là những cách thức mà trẻ thực sự dùng để giải quyết một vấn đề. Để sửa chữa thiếu sót này, chúng ta có thể yêu cầu trẻ giải quyết một vấn đề bằng cách nói thật to và ghi âm điều chúng nói trong khi giải quyết vấn đề. Cách thức này đuợc gọi chung là phương pháp ghi lại lời nói. Sau đó, nhà nghiên cứu có thể tiến hành chuyển những điều ghi âm được thành văn bản và thực hiện phân tích nội dung với sự trợ giúp của một bảng hệ thống hóa các hành vi ngôn ngữ. Đó là phương pháp đã được Diener và Dweck (1978) sử dụng trong nghiên cứu về sự cam chịu hoàn toàn ở trẻ sau một thất bại nào đó. Các nhà nghiên cứu này đã phân chia trẻ tham gia nghiên cứu thành hai nhóm: nhóm trẻ xem việc thất bại như một thách thức (hướng đến sự tự chủ) và nhóm trẻ xem việc thất bại như một dấu hiệu chỉ sự bất tài của chúng và chúng chìm đắm trong sự cam chịu hoàn toàn (hướng đến sự nhẫn nhục, cam chịu).

Phương pháp ghi lại lời nói to cũng có thể được sử dụng để kiểm tra kết quả của một số thực nghiệm về các quá trình nhận thức. Chẳng hạn, một nhà nghiên cứu kiểm tra tác động của các biến khác nhau lên việc học tập của những người tham gia. Nhà nghiên cứu thành lập hai nhóm, một nhóm được hứa trả tiền cho mỗi vấn đề được giải quyết và một nhóm kia thì không được hứa gì và không nhận được gì (nhóm đối chứng). Tiếp theo, người ta yêu cầu những người tham gia suy nghĩ và nói to khi họ thử giải quyết vấn đề. Như thế, nhà nghiên cứu có thể kiểm tra xem liệu có phải việc thử giải quyết một vấn đề để nhận được tiền thưởng làm giảm mức độ suy xét về mặt nhận thức (được đo bằng phương pháp ghi lại lời nói to) và kéo theo những kết quả kém hơn. Kỹ thuật này cho phép các nhà nghiên cứu tiếp cận được những suy nghĩ ngay khi chúng xuất hiện trong đầu người tham gia. Kiểu thông tin này phong phú về nội dung và hay hơn những câu trả lời thu được sau vài phút từ các bảng hỏi vì nó làm giảm thiểu việc nhắc lại thông tin.

Kỹ thuật này thường đòi hỏi đầu tư nhiều công sức, đặc biệt trong giai đoạn phân tích nội dung lời nói thu được. Hơn nữa, nó là đối tượng của những sự phê phán lớn (Nisbett và Wilson, 1977) vì nó dựa vào một quá trình nội quan khó có thể đánh giá một cách chính xác. Vì lý do đó, phương pháp này thường được sử dụng trong các nghiên cứu sơ bộ nhằm xây dựng các giả thuyết nghiên cứu. Tuy nhiên, như Ericsson và Simon (1980) đã nêu lên, khi việc phân tích nội dung lời nói được thực hiện một cách chính xác, phương pháp ghi lại lời nói to trở nên là một phương pháp có độ hiệu lực, đáng tin cậy và chính xác. Tóm lại, kỹ thuật này khi kết hợp với các phương pháp đo lường khác có thể giúp hiểu được những quá trình nhận thức phức tạp.