Ví dụ bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Biện pháp ngăn chặn bắt bị can để tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn theo quy định của BLTTHS năm 2015 được áp dụng sau khi đã khởi tố vụ án, được người, cơ quan có thẩm quyền áp dụng nhằm ngăn chặn hành vi phạm tội và đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Tuy nhiên trong quá trình vận dụng thực tiễn vẫn có nhiều vướng mắc cần được giải thích làm rõ. Thứ nhất, về căn cứ bắt. Theo các quy định tại Điều 109, 113 của BLTTHS năm 2015 cũng như BLTTHS năm 2003 trước đây không quy định rõ căn cứ để bắt tạm giam. Tuy nhiên xét về mục đích áp dụng biện pháp ngăn chặn là để “tạm giam” nên có thể coi căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam chính là căn cứ để tạm giam theo quy định tại Điều 119 BLTTHS năm 2015. Tuy nhiên để đảm bảo cơ sở pháp lý vững chắc cho căn cứ bắt tạm giam nên cần thiết quy định rõ căn cứ bắt tạm giam tại Điều 113 BLTTHS năm 2015 theo hướng dẫn chiếu căn cứ tạm giam đến Điều 119 BLTTHS năm 2015. Thứ hai, về thủ tục lập biên bản bắt. Theo quy định tại Điều 115 BLTTHS năm 2015 về việc biên bản bắt người chỉ có các quy định về việc phải lập biên bản, biên bản đầy đủ nội dung luật định, thành phần tham gia … Ngoài ra còn có quy định “ Biên bản được đọc cho người bị bắt,… nghe. Người bị bắt… ký tên vào biên bản, nếu ai có ý kiến khác hoặc không đồng ý với nội dung biên bản thì có quyền ghi vào biên bản và ký tên”. Như vậy nếu người bị bắt không đồng ý hoặc có ý kiến khác thì có quyền ghi vào biên bản và ký tên. Điều này được hiểu phải chính bản thân người bị bắt ghi ý kiến và ký tên thì mới đảm bảo về hình thức về biên bản. Tuy nhiên thực tiễn xảy ra trường hợp người bị bắt “không đồng ý việc bắt hoặc có ý kiến khác” nên không đồng ý ký tên vào biên bản và việc ý kiến của người bị bắt do cán bộ lập biên bản ghi chứ không phải do người bị bắt ghi nhận. Như vậy trong trường hợp trên biên bản được lập có đảm bảo về mặt hình thức không, có vi phạm về thủ tục tố tụng không? Theo người viết cần thiết có quy định bổ sung trong trường hợp trên “nếu người bị bắt không đồng ý ký tên vào biên bản thì phải lập biên bản về việc người bị bắt không đồng ý ký tên và có người chứng kiến” và quy định “nếu người bị bắt không tự mình ghi ý kiến vào biên bản và cán bộ lập biên bản có thể ghi thay và việc này phải ghi vào biên bản và có sự đồng ý của người bị bắt”. Ngoài ra, cũng nên quy định về việc khi lập biên bản thì người bị bắt được giữ 01 biên bản để bảo đảm quyền của người bị bắt trong các giai đoạn tố tụng tiếp theo, hạn chế việc người, cơ quan tiến hành tố tụng chỉnh sửa nội dung, bổ sung chữ ký khi tham gia thiếu thành phần … đã có xảy ra trong thực tế.Thứ ba, về thời hạn được bắt tạm giam. Tương tự lập luận tại “phần thứ nhất” BLTTHS năm 2015 không quy định cụ thể về thời hạn bắt tạm giam, nhưng xét về mục đích bắt thì có thể áp dụng thời hạn tạm giam chính là thời hạn bắt tạm giam. Trong thực tế việc bắt được tiến hành sau khi khởi tố vụ án nên không đồng nhất với thời hạn điều tra vụ án được tính từ ngày khởi tố vụ án. Trong giai đoạn truy tố, xét xử (kể cả trường hợp điều tra bổ sung, phục hồi điều tra, điều tra lại) được quy định tại Điều 241 và Điều 278 BLTTHS năm 2015 cũng được xác định rõ thời hạn và đều không được vượt quá thời hạn quyết định việc truy tố quy định tại khoản 1 Điều 240 và thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều 277 BLTTHS năm 2015. Tuy nhiên đối với thời hạn bắt tạm giam trong giai đoạn điều tra, hiện còn vướng mắc về thời hạn trong một số trường hợp cụ thể do chưa có điều luật quy định cụ thể, rõ ràng, dẫn đến còn có quan điểm nhận thức và áp dụng khác nhau: Ví dụ: Ngày 01/01/2019, Cơ quan điều tra khởi tố vụ án về khoản 1 Điều173 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đến ngày 01/02/2019, khởi tố bị can A khoản 1 Điều173 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Lệnh bắt bị can để tạm giam. Trong trường hợp này có nhiều quan điểm về xác định thời hạn bắt tạm giam đối với A. Cụ thể: - Quan điểm 1: Căn cứ Điều 173 BLTTHS năm 2015 Cơ quan điều tra ra Lệnh bắt bị can để tạm giam trong thời hạn 02 tháng do bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Việc quy định thời hạn tạm giam không quá thời hạn điều tra là chỉ xét về thời hạn, nghĩa là tương đương thời hạn điều tra trong 02 tháng thì thời hạn tạm giam không được quá 02 tháng, chứ không phải xét về thời điểm kết thúc thời hạn điều tra nghĩa là thời hạn điều tra hết hạn ngày 01/3/2019 thì thời hạn tạm giam không được quá hạn ngày 01/3/2019. - Quan điểm 2: Cơ quan điều tra ra Lệnh bắt bị can để tạm giam trong thời hạn 01 tháng, lý do thời hạn điều tra chỉ còn 01 tháng, nên thời hạn tạm giam không được quá thời hạn điều tra. Theo người viết, cả 02 quan điểm trên đều chưa thật sự thuyết phục và chưa có căn cứ pháp lý vững chắc, bỡi lẽ: Quan điểm 1: Tại Mục 31 Công văn số 5024/VKSTC-V14 ngày 19/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao xác định“Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 229, điểm khoản 1 Điều 247 BLTTHS năm 2015, khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp chưa có kết quả mà đã hết thời hạn điều tra, thời hạn quyết định việc truy tố thì phải tạm đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ vụ án. Hết thời hạn điều tra, thời hạn quyết định việc truy tố thì cũng hết thời hạn tạm giam trong các giai đoạn này (bởi thời hạn tạm giam không thể dài hơn thời hạn điều tra, thời hạn quyết định việc truy tố), do đó phải hủy bỏ biện pháp tạm giam”. Công văn số 5024/VKSTC-V14 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã xác định hết thời hạn điều tra thì cũng hết thời hạn tạm giam nghĩa là căn cứ để xem xét có quá hạn hay không phải là thời điểm kết thúc của thời hạn điều tra. Như vậy, thời hạn tạm giam không thể dài hơn điều tra nên việc Cơ quan điều tra ra Lệnh bắt bị can để tạm giam trong thời hạn 02 tháng trong khi thời hạn điều tra chỉ còn 01 tháng là không có căn cứ pháp lý vững chắc. Quan điểm 2: Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam được tiến hành sau khi khởi tố và sau khi Viện kiểm sát đã phê chuẩn (nếu Lệnh bắt bị can để tạm giam do Cơ quan điều tra ban hành) và thời hạn bắt tính từ ngày bắt được bị can. Thực tế các cơ quan tiến hành tố tụng không thể dự liệu được thời điểm nào sẽ bắt được bị can, thời điểm nào sẽ là thời điểm để tính thời hạn tạm giam bị can, bị cáo. Trong trường hợp trên, nếu Cơ quan điều tra bắt được bị can ngày 15/02/2019 thì lúc này thời hạn điều tra chỉ còn 15 ngày, trong khi thời hạn tạm giam là 01 tháng là cũng quá thời hạn điều tra, nên cũng không đảm bảo nguyên tắc thời hạn tạm giam không thể dài hơn điều tra. Biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam là ảnh hường đến quyền nhân thân, quyền con người của người bị bắt. Vì vậy người, cơ quan có thẩm quyền cần thận trọng khi quyết định việc bắt. Để đảm bảo cơ sỡ pháp lý vững chắc cho người, cơ quan có thẩm quyền vận dụng thực tiễn, thiết nghĩ cơ quan có thẩm quyền cần có những bổ sung, hướng dẫn giải quyết những vướng mắc như trên.Quan điểm trong bài viết là quan điểm cá nhân rất mong ý kiến đóng góp, trao đổi./. Tác giả bài viết: Hồng Quốc Vệ Nguồn tin: VKS. Q. Thốt Nốt
Bắt người không phải là biện pháp trừng phạt của pháp luật mà là biện pháp ngăn chặn nhằm tước bỏ điều kiện gây ra tội phạm, chặn đứng hành vi phạm tội và hành vi trốn tránh pháp luật của người phạm tội, bảo đảm sự hoạt động đúng đắn của các cơ quan tiến hành tố tụng.
1. Khái niệm 2. Đối tượng và điều kiện áp dụng Đối tượng của việc bắt người để tạm giam chỉ có thể là bị can hoặc bị cáo. Những người chưa bị khởi tố về hình sự hoặc người chưa bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử không phải là đối tượng bắt tạm giam. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, bắt bị can, bị cáo để tạm giam không phải là biện pháp ngăn chặn duy nhất, vì thế không phải mọi bị can, bị cáo đều bị bắt để tạm giam. Việc quyết định bắt bị can bị cáo để tạm giam không phải căn cứ vào tính chất của tội phạm đã xảy ra, nhân thân người phạm tội và thái độ của người phạm tội sau khi thực hiện tội phạm. Điều đó có nghĩa là chỉ được bắt để tạm giam đối với một người khi có đủ căn cứ để xác định người đó đã thực hiện hành vi phạm tội mà xét thấy đáng bắt để tạo điều kiện cho việc điều tra xử lý tội phạm. Người phạm tội nhưng không đáng bắt thì kiên quyết không bắt. Đối với họ có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác. Ví dụ: bị can, bị cáo phạm tội lần đầu, tính chất ít nghiêm trọng hoặc phạm tội do vô ý, không có hành động cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử thì không cần bắt tạm giam. Đối với những bị can, bị cáo phạm tội có tính chất nghiêm trọng như phạm các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia, giết người, cướp tài sản… hoặc phạm các tội mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên một năm và có căn cứ để cho rằng họ sẽ trốn, tiếp tục phạm tội hoặc có hành động cản trở việc điều tra, xét xử thì cần kiên quyết bắt để tạm giam. 3. Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam Điều 80 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 quy định những người sau đây có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam: - Trong giai đoạn điều tra, việc bắt bị can để tạm giam do Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp quyết định; Trường hợp cơ quan điều tra ra lệnh thì lệnh bắt bị can để tạm giam phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Sự phê chuẩn của Viện kiểm sát là một thủ tục pháp lý bắt buộc nhằm kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của lệnh bắt để bảo đảm hiệu lực của lệnh bắt người cũng như sự cần thiết phải bắt tạm giam bị can. Ngoài ra, quy định việc xem xét để phê chuẩn lệnh bắt người của Cơ quan điều tra trước khi thi hành còn giúp hạn chế tình trạng lạm dụng quyền được áp dụng biện pháp ngăn chặn để tác động một cách trái pháp luật đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân vì những mục đích cá nhân. Những lệnh bắt người không có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp sẽ không có giá trị thi hành. Thời hạn xem xét để ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh bắt bị can để tạm giam là ba ngày kể từ khi Viện kiểm sát nhận được công văn đề nghị xét phê chuẩn cùng các tài liệu có liên quan đến việc bắt. - Trong giai đoạn truy tố, việc bắt bị can để tạm giam do Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp quyết định; - Chánh án, Phó chánh án tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp. - Trong giai đoạn xét xử, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam do Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Thẩm phán Tòa án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử quyết định. 4. Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam Khoản 2 và khoản 3 Điều 80 BLTTHS quy định: - Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải có lệnh của người có thẩm quyền; lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bắt. Lệnh bắt phải có chữ kí của người ra lệnh và có đóng dấu của cơ quan. - Trước khi bắt, người thi hành lệnh bắt phải đọc lệnh bắt và giải thích lệnh bắt, quyền và nghĩa vụ cho người bị bắt nghe. - Khi bắt phải lập biên bản bắt người. Biên bản ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm bắt, nơi lập biên bản; những việc đã làm, tình hình diễn biến trong khi thi hành lệnh bắt, thái độ của người bị bắt trong việc chấp hành lệnh bắt, những đồ vật, tài liệu liên quan được phát hiện, bị tạm giữ và những yêu cầu, khiếu nại của người bị bắt. Người bị bắt, người thi hành lệnh bắt và người chứng kiến phải cùng ký tên vào biên bản. Nếu có ý kiến khác hoặc không đồng ý với nội dung biên bản thì họ có quyền ghi vào biên bản và ký tên. - Khi tiến hành bắt người phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc đại diện của cơ quan, tổ chức nơi người bị bắt cư trú hoặc làm việc và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến. Sự vắng mặt của những người nói trên làm cho việc bắt người trong trường hợp này không bảo đảm tính hợp pháp. Các quy định về thủ tục bắt người chặt chẽ như trên nhằm đề cao trách nhiệm cá nhân của người ra lệnh bắt và người thi hành lệnh bắt, bảo đảm bắt đúng người phạm tội cần bắt và những quyền chính đáng của người bị bắt, đồng thời cũng nhằm loại trừ những hành động của bọn lưu manh giả danh cán bộ đến bắt người hòng chiếm đoạt tài sản của công dân. - Để bảo đảm lợi ích chính đáng của người bị bắt, thân nhân của họ và của những người láng giềng và tránh tình trạng căng thẳng do việc bắt người gây ra, khoản 3 Điều 80 của Bộ luật còn quy định: Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã. Theo quy định về việc tính thời hạn tại BLTTHS, ban đêm được tính từ 22 giờ ngày hôm trước đến 6 giờ sáng ngày hôm sau. Quý vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest để yêu cầu cung cấp dịch vụ:
|