Ví dụ về tình huống bất khả kháng
Đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống và hoạt động kinh doanh trên quy mô toàn cầu. Từ những ngày đầu tiên, COVID-19 đã được viện dẫn như là "sự kiện bất khả kháng" (“SKBKK”), một trong những căn cứ để miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng phát sinh từ việc hoạt động kinh doanh bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, khi đại dịch đã trở nên quen thuộc và sẽ còn là một phần của cuộc sống trong tương lai gần, thì việc cho rằng COVID-19 là SKBKK không còn hợp lý nữa. Trong bài viết này, chúng tôi trình bày quan điểm rằng bên vi phạm hợp đồng hiện tại chỉ có thể dựa vào các điều khoản về SKBKK để được miễn trách nếu có thể chứng minh rằng vi phạm đó (i) được gây ra bởi hệ quả từ COVID-19 (ii) một cách khách quan, không thể lường trước, và không thể khắc phục. Show
1. Định nghĩa về SKBKK Theo luật pháp Việt Nam, định nghĩa về SKBKK được quy định tại Điều 156.1 của Bộ luật Dân sự 2015. Theo đó, một sự kiện được coi là SKBKK nếu có tất cả ba yếu tố sau: Thứ nhất, sự kiện đó phải khách quan. Tính khách quan của một sự kiện có thể được hiểu là sự kiện đó xảy ra ngoài tầm kiểm soát và không phụ thuộc vào sự tác động của bất cứ bên nào trong hợp đồng (ví dụ: thiên tai, động đất, đình công, chiến tranh, v.v.). Thứ hai, sự kiện đó phải không lường trước được. Sự không lường trước được của một sự kiện có thể thể hiện ở chỗ các bên, một cách chính đáng và tại thời điểm xác lập nghĩa vụ hợp đồng, không thể thấy hoặc dự đoán trước sự kiện đó sẽ xảy ra (ví dụ: bão đổi hướng bất ngờ, ngược với dự báo thời tiết trước đó). Thứ ba, sự kiện đó phải không thể khắc phục được. Tính không thể khắc phục được có thể thể hiện ở chỗ bên bị ảnh hưởng không thể khắc phục hoặc ngăn chặn sự kiện đó xảy ra, mặc dù đã áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết và trong khả năng cho phép (ví dụ: bên vận chuyển đã nỗ lực tránh bão và thực hiện tất cả các biện pháp để đảm bảo sự an toàn của con tàu, nhưng bão vẫn nhấn chìm tàu và toàn bộ hàng hoá trên đường giao cho bên mua). 2. Vi phạm hợp đồng "do" SKBKK Bên cạnh các yếu tố mang tính chất định nghĩa được đề cập, một điều kiện để áp dụng quy định về SKBKK thường bị bỏ qua là SKBKK đó phải là nguyên nhân hoặc lý do dẫn đến vi phạm hợp đồng. Thật vậy, Điều 351.2 của Bộ luật Dân sự 2015 quy định rằng bên vi phạm hợp đồng có thể được miễn trách nếu bên đó vi phạm nghĩa vụ "do" SKBKK, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Từ quy định này, có thể hiểu rằng không phải tất cả các vi phạm hợp đồng trong quá trình xảy ra SKBKK đều được miễn trách, mà chỉ vi phạm nào xảy ra "do" SKBKK thì mới được miễn trách mà thôi. Dường như luật pháp Việt Nam không quy định chính xác cách xác định một vi phạm có thực sự là “do” một sự kiện gây ra hay không, bởi vì vi phạm hợp đồng, xét cho cùng, là do sự lựa chọn của bên có nghĩa vụ trong một chừng mực nhất định. Điều này dẫn đến các cách diễn giải khác nhau và có thể là vấn đề cần phải tranh luận. Theo chúng tôi, có ít nhất hai cách giải thích liên quan đến cách xác định vi phạm có thực sự xảy ra "do" SKBKK hay không. Cách giải thích đầu tiên là vi phạm xảy ra "do" SKBKK chỉ khi nào SKBKK đã làm cho việc thực hiện đúng nghĩa vụ trở nên "không thể thực hiện". Lấy ví dụ một con tàu chở hàng bị nhấn chìm bão cùng với tất cả hàng hóa trên đường vận chuyển. Theo phương pháp giải thích luật này, sau khi SKBKK đó xảy ra, bên bán chỉ được miễn trách nếu bên bán hoàn toàn không thể, bằng bất cứ cách thức nào, có được hàng hóa để giao đúng hạn cho bên mua. Tuy nhiên, theo lối suy luận này, trường hợp bên bán vẫn còn khả năng tài chính để mua hàng từ nhà cung cấp khác để giao lại cho bên mua, thì bên bán không thể viện dẫn SKBKK để được miễn trách cho vi phạm hợp đồng, bởi lẽ, nghĩa vụ giao hàng ở đây, nếu nhìn nhận một cách triệt để, không phải là “không thể thực hiện”. Cách giải thích thứ hai, là cách giải thích có lợi hơn cho bên vi phạm, là nếu SKBKK làm cho việc thực hiện nghĩa vụ là “không thực tế” hay “bất hợp lý” (impractical), thì bên vi phạm sẽ được miễn trách. Cũng trong ví dụ về tàu chở hàng gặp bão như trên, nếu việc mua hàng hóa từ các nhà cung cấp khác để giao cho bên mua làm phát sinh chi phí quá lớn hoặc gây ra những bất lợi không hợp lý đối với bên bán, thì bên bán có thể được miễn trách với lý do SKBKK. Khi pháp luật Việt Nam không đưa ra câu trả lời chắc chắn về cách giải thích luật như trên, kết quả của tranh chấp sẽ phải phụ thuộc nhiều vào ngôn ngữ hợp đồng và đánh giá của cơ quan tài phán. Theo chúng tôi, vấn đề trên nên được các nhân sự pháp lý của doanh nghiệp xem xét kỹ lưỡng trong trường hợp xảy ra các tranh chấp liên quan. 3. Những sự kiện có thể được xem là SKBKK sau gần 02 năm xảy ra đại dịch COVID-19 Theo ý kiến của chúng tôi, tại thời điểm hiện tại, đại dịch COVID-19 tự thân nó không còn là một SKBKK, bởi đại dịch này đã trở nên quen thuộc với mọi người và luôn được nhắc đến trong tin tức hàng ngày. Do đó, theo lẽ thường, các bên trước khi ký hợp đồng phải cân nhắc kỹ lưỡng yếu tố đại dịch và, khi vi phạm hợp đồng, không thể chỉ đơn giản viện dẫn COVID-19 là được miễn trách, trừ khi có xuất hiện những yếu tố khác. Dù vậy, một số tình huống hoặc hệ quả liên quan đến COVID-19 vẫn có thể được xem là các SKBKK. Ví dụ: nếu một công ty có thể chứng minh rằng họ đã tích cực và nghiêm chỉnh thực hiện các biện pháp chống dịch, nhưng một trường hợp nhiễm bệnh bất ngờ vượt qua các lớp bảo vệ và làm bùng dịch trong công ty, thì sẽ là hợp lý nếu cho rằng công ty đó đã gặp phải SKBKK. Hoặc, việc xuất hiện thêm biến thể nguy hiểm của virus trong tương lai là một vấn đề khá khó dự báo, và nếu biến thể đó xuất hiện, nền kinh tế có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng và nhiều hợp đồng sẽ không thể tránh khỏi bị vi phạm. Trong tình huống như vậy, chúng ta có lý do để đánh giá rằng SKBKK cũng đã xảy ra. 4. Những gì doanh nghiệp nên làm Về nguyên tắc, trong quan hệ hợp đồng, thỏa thuận hợp pháp giữa các bên phải được tôn trọng. Do đó, ngôn ngữ trong hợp đồng nên được lựa chọn cẩn thận với dự liệu về SKBKK. Ba yếu tố của SKBKK đã được quy định trong Bộ luật Dân sự 2015 (tính khách quan, không thể lường trước và không thể khắc phục) và các bên không thể sửa đổi; tuy nhiên, các bên có thể thoả thuận trước trong tình huống nào thì một sự kiện được xem là khách quan, không thể lường trước, và không thể khắc phục, hoặc thậm chí các bên có thể đính kèm một bản danh sách các SKBKK cụ thể trong hợp đồng. Ngoài ra, hợp đồng cũng nên quy định các điều kiện và/hoặc nghĩa vụ mà một bên phải đáp ứng trước khi được miễn trách do SKBKK. Ví dụ, sự sụt giảm doanh thu đến một mức độ nhất định, công ty bị buộc phải đóng cửa theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, nghĩa vụ thông báo kịp thời của bên bị ảnh hưởng về SKBKK, v.v. Quyền của các bên khi xảy ra SKBKK cũng nên được quy định, ví dụ, quyền kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ, trì hoãn hoặc miễn một số nghĩa vụ cho bên bị ảnh hưởng bởi SKBKK, quyền đình chỉ hoặc huỷ toàn bộ hợp đồng, v.v.
Dịch Covid-19 đã gây ra những thiệt hại cho hoạt động kinh doanh thương mại nội địa và quốc tế. Việc cơ quan chức năng hạn chế nhập cảnh, hạn chế đi lại; tạm dừng các hoạt động xã hội, tụ tập đông người; tạm dừng khai thác lợi ích kinh tế ở một số lĩnh vực để kiểm soát dịch, bảo vệ sức khỏe cộng đồng là nguyên nhân khiến cho hoạt động kinh doanh thương mại bị trì trệ, giảm sút. Vì vậy, rất nhiều doanh nghiệp đang lo ngại thiệt hại do dịch Covid-19 gây ra, đặc biệt là trách nhiệm bồi thường do vi phạm hợp đồng thương mại (không có nguyên liệu sản xuất, người lao động nước ngoài không thể nhập cảnh để làm việc, tạm ngừng sản xuất kinh doanh trong thời gian có dịch, v.v.). Bài viết này bình luận về chế định ‘Sự kiện Bất khả kháng’ và các chế định liên quan, đồng thời hướng dẫn doanh nghiệp cách thức bảo vệ hoạt động kinh doanh của mình trong trường hợp xảy ra những sự kiện làm thay đổi hoàn cảnh. Sự kiện Bất khả kháng là gì?Điều 156.1, Bộ luật Dân sự năm 2015 định nghĩa ‘sự kiện bất khả kháng’ là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép. Mặc dù quy định này thuộc các quy định liên quan đến thời hiệu, định nghĩa này vẫn được áp dụng rộng rãi trong các quan hệ pháp luật dân sự và thương mại. Theo định nghĩa trên, một sự kiện được xem sự kiện bất khả kháng nếu hội tụ đủ 03 yếu tố: (i) khách quan, (ii) không thể lường trước, và (iii) không thể khắc phục. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự 2015 không quy định tiêu chí xác định cụ thể cho từng yếu tố, việc đánh giá một sự kiện có hội tụ các yếu tố của một sự kiện bất khả kháng hay không phụ thuộc vào quan điểm của cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp (Tòa án hoặc Trọng tài Thương mại) khi có tranh chấp xảy ra. Một số văn bản pháp luật trong một số lĩnh vực có quy định ví dụ các trường hợp cụ thể được xem sự kiện bất khả kháng gồm: (i) các sự kiện tự nhiên (như động đất, bão, lũ, lụt, sóng thần, hỏa hoạn, địch họa, …) và (ii) các sự kiện do con người tạo nên (như bạo động, nổi loạn, chiến sự, chống đối, phá hoại, cấm vận, bao vây, phong tỏa, bất cứ hành động chiến tranh nào hoặc hành động thù địch cộng đồng cho dù chiến tranh có được tuyên bố hay không …). Hậu quả của sự kiện bất khả kháng chính là làm cho bên bị ảnh hưởng không thể thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Điều 351.2, Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.” Phân biệt ‘Sự kiện Bất khả kháng’, ‘Trở ngại Khách quan’ và ‘Hoàn cảnh Thay đổi Cơ bản’Trở ngại khách quan‘Trở ngại khách quan’ là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình . Trở ngại khách quan giống sự kiện bất khả kháng ở yếu tố ‘khách quan’ nhưng không cần phải thỏa hai yếu tố còn lại (không thể lường trước, không thể khắc phục). Trở ngại khách quan có hậu quả phát sinh rộng hơn sự kiện bất khả kháng, không chỉ làm cho bên bị ảnh hưởng không thể thực hiện nghĩa vụ mà còn có thể áp dụng cho trường hợp bên bị ảnh hưởng không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Hoàn cảnh thay đổi cơ bản‘Hoàn cảnh thay đổi cơ bản’ khi có đủ 05 điều kiện sau đây :
Như vậy, ‘hoàn cảnh thay đổi cơ bản’ cũng là sự kiện mang tính khách quan, không thể lường trước, và không thể khắc phục. Điểm khác biệt của hoàn cảnh thay đổi cơ bản so với sự kiện bất khả kháng thể hiện ở ba yếu tố: (i) yếu tố ‘không thể lường trước được’ có phạm vi áp dụng rộng hơn, không bị giới hạn ở sự kiện bất ngờ, mà bao gồm bất kỳ sự kiện nào xảy ra không được các bên dự liệu tại thời điểm giao kết hợp đồng, (ii) hoàn cảnh thay đổi phải lớn đến mức tác động đến cơ sở nền tảng giao kết hợp đồng của các bên và (iii) việc tiếp tục thực hiện hợp đồng sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho một bên. Hoàn cảnh thay đổi cơ bản không phải là cơ sở để được hoãn thực hiện nghĩa vụ hoặc miễn trừ trách nhiệm của bên bị ảnh hưởng. Mặc dù hoàn cảnh thay đổi làm cho bên bị ảnh hưởng nếu tiếp tục thực hiện nghĩa vụ sẽ chịu thiệt hại nghiêm trọng, nhưng hoàn cảnh thay đổi không khiến cho bên bị ảnh hưởng không thể thực hiện hợp đồng (bên bị ảnh hưởng vẫn có thể thực hiện hợp đồng, nhưng chịu thiệt hại nếu nội dung hợp đồng không được sửa đổi). Khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, bên bị ảnh hưởng chỉ được quyền (i) yêu cầu bên còn lại đàm phán lại hợp đồng hoặc (ii) yêu cầu Tòa án sửa đổi hoặc chấm dứt hợp đồng. Tuy nhiên, bên nhận được đề nghị đàm phán lại hợp đồng không có nghĩa vụ phải đàm phán hoặc phải chấp nhận bất kỳ đề nghị nào từ bên bị ảnh hưởng. Dịch Covid-19 có phải là ‘Sự kiện Bất khả kháng’ trong Hợp đồng Thương mại?Covid-19 đã được công bố là ‘dịch bệnh’ tại Việt Nam . Luật Thương mại 2005 không có định nghĩa về sự kiện bất khả kháng, cũng như không có quy định ‘dịch bệnh’ là cơ sở cho phép một bên hoãn thực hiện nghĩa vụ hoặc được miễn trừ trách nhiệm. Nếu hợp đồng ghi nhận thỏa thuận ‘dịch bệnh’ là sự kiện bất khả kháng
Nếu hợp đồng không có thỏa thuận ‘dịch bệnh’ là sự kiện bất khả khángCơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp viện dẫn định nghĩa sự kiện bất khả kháng quy định tại Điều 156.1 Bộ luật Dân sự năm 2015 để xem xét 03 yếu tố: (i) khách quan, (ii) không thể lường trước và (iii) không thể khắc phục. Tùy từng trường hợp mà dịch Covid-19 có được xem là ‘sự kiện bất khả kháng’ hay không. Lý do là:
Ví dụ 1: Tranh chấp yêu cầu miễn trách nhiệm bồi thường do vi phạm hợp đồng về thời gian cung cấp dịch vụ du lịch trong mùa dịch Covid-19. Hợp đồng đã ký trước khi xuất hiện dịch bệnh nhưng đến thời điểm khởi hành tour thì công ty du lịch không thể tiến hành do cơ quan chức năng yêu cầu tạm dừng khai thác khách du lịch và lệnh hạn chế nhập cảnh của quốc gia X. Trường hợp này được xem là ‘sự kiện bất khả kháng’ do ‘không thể khắc phục được’. Ví dụ 2: Tranh chấp yêu cầu miễn trừ trách nhiệm bồi thường hợp đồng mua bán hàng hóa do khan hiếm nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất, dẫn đến không đảm bảo số lượng và thời gian giao hàng. Do dịch bệnh, nơi có nguyên liệu đầu vào không thể cung ứng cho Công ty A theo kế hoạch thì Công ty A phải tìm kiếm nguồn nguyên liệu khác thay thế để bảo đảm thực hiện đúng hợp đồng (bán hàng hóa) cho Công ty B, dù chi phí cao hơn dự kiến ban đầu. Trường hợp này không được xem là ‘sự kiện bất khả kháng’ vì ‘có thể khắc phục được’. Dịch Covid-19 có phải là ‘Trở ngại Khách quan’ hoặc làm ‘Hoàn cảnh Thay đổi Cơ bản’?Chưa có cơ sở nào rõ ràng để kết luận rằng dịch Covid-19 là trở ngại khách quan hoặc làm hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Nếu các bên muốn áp dụng chế định về ‘trở ngại khách quan’ hoặc ‘hoàn cảnh thay đổi cơ bản’ thì phải chứng minh thỏa mãn các yếu tố đặc trưng của từng chế định. Cần lưu ý rằng, nếu áp dụng chế định về ‘hoàn cảnh thay đổi cơ bản’, thì thời điểm giao kết hợp đồng là yếu tố then chốt. Nếu hợp đồng được ký kết sau thời điểm xuất hiện dịch Covid-19 thì sẽ khó lý giải rằng các bên không thể lường trước được về sự thay đổi hoàn cảnh gây ra bởi dịch Covid-19. Kinh nghiệm Đề phòng Rủi ro khi Giao kết Hợp đồngKhi soạn thảo và giao kết hợp đồng thương mại, cần lưu ý xây dựng điều khoản ‘sự kiện bất khả kháng’ gồm những trường hợp nào (dịch bệnh, thiên tại, hỏa hoạn, chiến tranh, v.v.), hệ quả cụ thể đi kèm và nghĩa vụ thông báo khi xảy ra sự kiện bất khả kháng để giảm thiểu thiệt hại phát sinh. Thông thường, khi xảy ra sự kiện bất khả kháng, hệ quả của nó sẽ là miễn trừ trách nhiệm đối với bên có nghĩa vụ (bên có nghĩa vụ không phải bồi thường). Tuy nhiên, các bên vẫn có thể thỏa thuận hệ quả ngược lại, cụ thể là bên có nghĩa vụ vẫn phải bồi thường, tùy vào nhu cầu cụ thể của các bên khi tham gia hợp đồng. Bài viết này bao gồm các kiến thức pháp luật và các thuật ngữ chuyên môn, độc giả quan tâm đến các quy định của hợp đồng thương mại hoặc trường hợp bất khả kháng theo Luật Thương mại Việt Nam, vui lòng liên hệ với Luật sư tranh tụng và xét xử thương mại của chúng tôi tại . |