Vì sao nông nghiệp Việt Nam luôn rơi vào tình trạng phải giải cứu
Gần đây, thực hiện các biện pháp ngăn chăn lây lan của dịch virus Covid-19 người trồng thanh long, dưa hấu, sầu riêng… ở nước ta cũng đang khốn đốn vì sản phẩm xuất sang Trung Quốc gặp nhiều trở ngại. Nhiều người, nhiều nhóm ở các địa phương, một lần nữa, lại bắt đầu chiến dịch kêu gọi "giải cứu" như là động thái chia sẻ với người nông dân trong hoàn cảnh khó khăn này. Như vậy, điệp khúc “được mùa mất giá, được giá mất mùa” cứ lặp đi lặp lại với nông dân nước Việt trong nhiều năm qua chứ không chỉ vì Covid-19 lần này. Với kinh tế thị trường, khủng hoảng thừa trong sản xuất, kinh doanh là chuyện bình thường. Tuy nhiên, một số sản phẩm năm nào đến mùa thu hoạch cũng lâm vào khủng hoảng thừa như dưa hấu, thanh long, caphe…rồi lại phải hô hào cộng đồng “giải cứu”, còn nông dân thì lặp đi lặp lại chu trình “chặt - trồng”, “trồng - chặt” như ở nước ta thì đó lại là điều bất thường. Tình trạng này không chỉ làm cho nông dân điêu đứng, nhiều người bị phá sản mà còn làm cho đất nước mất đi một khối lượng sản phẩm lớn, ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành nông nghiệp và cả nền kinh tế quốc gia. Nếu ai thấu hiểu được nỗi gian truân của người nông dân một nắng hai sương làm ra sản phẩm mà phải bán tống bán tháo, thậm chí không thèm thu hoạch mà “trả lại cho đất” làm phân bón ruộng thì không thể không xót xa cho sự uổng phí công sức thấm đẫm mồ hôi, nước mắt của nhà nông.
Để có một nền nông nghiệp phát triển bền vững thì không chỉ giải cứu sản phẩm nông nghiệp dư thừa theo mùa vụ mà phải có giải pháp căn cơ. Theo thiển nghĩ của người viết bài, dưới đây có thể là những biện pháp giúp ích cho nền nông nghiệp Việt Nam phát triển bền vững. Chú trọng công tác dự báo, thông tin Việc nghiên cứu, dự báo, cung cấp thông tin thị trường trong lĩnh vực nông nghiệp của nước ta còn nhiều hạn chế. Vì vậy người sản xuất thiếu thông tin hoặc không được cung cấp thông tin kịp thời. Không những vậy, phần nhiều nông dân cũng không được các cơ quan chức năng, hướng dẫn, tư vấn, khuyến cáo trong quá trình sản xuất. Cho nên, ở nhiều địa phương nông dân vẫn sản xuất hàng hoá theo kiểu tù mù. Thay vì tìm hiểu thông tin thị trường, địa chỉ tiêu thụ sản phẩm rồi mới đầu tư sản xuất, thì nông dân thấy một loại nông sản nào đó được giá thì tất cả đổ xô, lao vào sản xuất theo phong trào, dẫn đến dư thừa. Đến lúc đó vẫn không biết địa chỉ tiêu thụ sản phẩm ở đâu mà chỉ ngồi chờ thương lái thu mua. Nên nông dân thường xuyên bị ép giá, buộc phải bán tống bán tháo, thậm chí phải đổ bỏ. Đầu năm 2018, thảm cảnh hoa ly, dưa chuột, bắp cải, su hào, củ cải… phải bán với giá rẻ như cho, thậm chí có những nơi nông dân buộc phải bỏ rau củ lại ruộng hoặc đổ xuống sông là một ví dụ. Cần hình thành chuỗi sản xuất bền vững, mở rộng thị trường Do những hạn chế về công nghệ, nền sản xuất nông nghiệp Việt Nam phụ thuộc nhiều vào thời tiết, mùa vụ. Trong khi đó nhu cầu tiêu dùng đòi hỏi quanh năm nên vào những thời điểm chính vụ, cung tăng mà cầu không tăng, dẫn đến dư thừa, năng lực dự trữ và công nghệ chế biến nông sản của nước ta còn rất hạn chế. Xin nêu dẫn chứng, từ năm 2002 đến 2017, mặc dù sản lượng nông sản tăng rất nhanh, cụ thể thịt lợn tăng ba lần, sữa tăng 15 lần, các sản phẩm vật nuôi, cây trồng tăng ba, bốn lần. Trong khi đó, năng lực chế biến nông sản dự trữ tăng không đáng kể, rau chỉ khoảng 5%, thịt chỉ 1%... [2] Bởi vậy, cần có sự liên kết chặt chẽ, bền vững giữa doanh nghiệp với nông dân và đầu tư phát triển công nghệ chế biến nông sản. Đây là giải pháp quan trọng để giải cứu nông sản cho nông dân. Về thị trường xuất khẩu nông sản của Việt Nam, vẫn tập trung nhiều vào Trung Quốc. Năm 2018, tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam đạt trên 40 tỷ USD, thị trường Trung Quốc chiếm 22,9% [3]; năm 2019, đạt 41,3 tỷ USD, thị trường Trung Quốc chiếm 27,8% [3]. Vẫn biết, với thị trường có trên 1,4 tỷ người và là láng giềng của Việt Nam thì chúng ta cần phải tận dụng lợi thế này. Tuy nhiên, nếu để tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa quá lớn, nhất là nông sản vào một quốc gia thì khi có biến động về kinh tế, chính trị, xã hội dễ gặp rủi ro. Bởi vậy, trong xuất - nhập khẩu nói chung cũng như xuất khẩu nông sản nói riêng không nên để tỷ trọng quá lớn vào một thị trường. Nâng cao công nghệ trong sản xuất nông nghiệp Do công nghệ sản xuất lạc hậu, lại còn tình trạng “rau hai luống, lợn hai chuồng” là nguyên nhân dẫn đến chất lượng sản phẩm, an toàn vệ sinh thực phẩm chưa đảm bảo. Vì vậy, chất lượng nhiều nông sản do người Việt sản xuất không chỉ người tiêu dùng các nước phát triển (rất khó tính) mà ngay cả với người tiêu dùng trong nước vẫn rất quan ngại. Mặt khác, do công nghệ lạc hậu nên chi phí sản xuất trong nông nghiệp của nước ta còn rất cao. Vì vậy, sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam thường yếu thế so với nông sản các nước khác không chỉ trên thị trường quốc tế mà ngay cả thị trường trong nước. Với thực trạng đó, đang đặt ra yêu cầu cấp bách trong việc nâng cao công nghệ trong sản xuất trong nông nghiệp. Khắc phục tình trạng manh mún, nhỏ lẻ, tự phát trong sản xuất nông nghiệp Mặc dù từ nhiều năm qua, Nhà nước đã có chủ trương dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng đất, xây dựng cánh đồng mẫu lớn. Tuy nhiên, đến nay nông dân nước ta hầu hết vẫn canh tác theo lối nhỏ lẻ. Do những hạn chế của luật đất đai về chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hạn điền và thời hạn giao đất nông nghiệp làm cho nông dân chưa yên tâm đầu tư phát triển sản xuất. Quy định thời gian sử dụng đất, mức hạn điền của luật đất đai rất thấp, không phù hợp với phát triển nền nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn. Quy định đó cũng mâu thuẫn với chủ trương tích tụ, tập trung ruộng đất nhằm tăng quy mô canh tác, phát triển kinh tế trang trại, giải quyết việc làm cho người lao động … Những ràng buộc của luật đất đai làm cho sản xuất nông nghiệp của Việt Nam vẫn trong tình trạng manh mún, nhỏ lẻ, tự phát, không theo quy hoạch từ đó không thích ứng được quy luật cung cầu của kinh tế thị trường. Để “giải cứu” nông sản cho nông dân một cách cơ bản, lâu dài và mở đường cho nông nghiệp, nông thôn phát triển. Để nâng cao năng suất, hiệu quả lao động và đời sống của nông dân, đòi hỏi các bộ, ngành chức năng và các cấp chính quyền địa phương phải phối hợp khắc phục những nguyên nhân đang kìm hãm sự phát triển của ngành nông nghiệp, trên cơ sở đó xây dựng giải pháp căn cơ, có tính khả thi. Nguyễn Huy Viện Tài liệu tham khảo: [1].http://tnnn.hoinongdan. org.vn/sitepages/news/1093/ 54231/thiet-hai-tu-san-xuat- nong-nghiep-khong-theo-quy- hoach [2].http://www.nhandan.com.vn/ kinhte/chuyen-lam-an/item/ 33034802-de-khong-con-phai-% E2%80%9Cgiai-cuu%E2%80%9D- nong-san.html [3].https://vov.vn/kinh-te/ xuat-khau-nong-san-viet-nam- nam-2018-vuot-ky-luc-40-ty- usd-854782.vov [4].2019 http://baochinhphu.vn/Kinh-te/ Tong-gia-tri-xuat-khau-nong- san-dat-413-ty-USD/384163.vgp Quản lý khoa họcNông nghiệp Việt Nam: Những vấn đề tồn tại11/11/2020 07:00 - Trần Đức Viên Trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, chúng ta phải thừa nhận là, nền nông nghiệp nước ta về cơ bản vẫn là nền sản xuất thô về sản phẩm, thấp về đẳng cấp, tiêu tốn nhiều nguồn lực, ứng dụng KH&CN và cơ giới hóa trong nông nghiệp còn khiêm tốn, sức cạnh tranh với khu vực và thế giới chưa cao; thậm chí, ở một số lĩnh vực còn đi sau thế giới khá xa. Các nguyên nhân của tình trạng này là do sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, năng suất lao động thấp mà giá thành nông sản lại cao, thiếu tính liên kết trong nội bộ ngành nông nghiệp và giữa ngành nông nghiệp với các ngành kinh tế khác như công nghiệp và dịch vụ (như công nghiệp hỗ trợ ngành nông nghiệp chẳng hạn), tạo ra quá nhiều tầng nấc trung gian trong chuỗi giá trị; một nghiên cứu cho thấy, trong khi các quốc gia khác chỉ có chừng 2-4 tác nhân trung gian thì ở Việt Nam con số này là 5-7. Người Việt coi trọng nghề nông, minh triết của người Việt coi nông nghiệp là gốc của mọi thứ trong xã hội, ‘canh nông vi bản’. Ngày nay nông nghiệp không chỉ giúp ổn định cuộc sống cho phần lớn dân cư nông thôn (‘yên dân’), mà còn là nền tảng cho phát triển kinh tế-xã hội và ổn định chính trị, tạo tiền đề để hiện thực hóa khát vọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước từ một quốc gia có nền nông nghiệp còn chưa phát triển. Trong năm 2020, tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 khiến nhiều ngành công nghiệp, dịch vụ bị đình đốn thì sản xuất nông nghiệp của Việt Nam vẫn phát triển, vẫn đảm bảo ổn định an ninh lương thực trong nước và duy trì xuất khẩu nông sản. Những kết quả này rất quan trọng, xét trong bối cảnh khu vực nông thôn chiếm tới 63% dân cư, 66% số hộ, 68% người làm việc; nông nghiệp chiếm tỷ trọng 13.96% trong GDP (Tổng cục thống kê, 2019). Những thách thức từbên ngoài Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất lớn vào điều kiện khí hậu cho nên thách thức trực tiếp và lâu dài đến sản xuất nông nghiệp là tác động của biến đổi khí hậu - Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ biến đổi khí hậu. Nếu mực nước biển dâng cao thêm 1m mà Việt Nam không có biện pháp phòng ngừa hữu hiệu, thì khoảng 40% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long, 11% diện tích Đồng bằng sông Hồng và 3% diện tích của các tỉnh khác thuộc vùng ven biển sẽ bị ngập. Lũ lụt sẽ khiến gần 50% diện tích đất nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long bị ngập lụt không còn khả năng canh tác (Phạm Tất Thắng, 2017). Mặt khác, biến động thời tiết ngày càng cực đoan, bất thường, khó kiểm soát; các nhà khoa học cũng dự báo các tỉnh Tây Nguyên và miền Trung sẽ bị hạn nhiều hơn; số đợt không khí lạnh, rét đậm, rét hại sẽ xuất hiện nhiều hơn ở các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung Bộ, bão lũ sẽ gây ảnh hưởng ngày thêm nặng nề trên qui mô cả nước.
Nền nhiệt của Việt Nam đã tăng lên đáng kể; nguồn nước chịu ảnh hưởng do thay đổi lượng mưa; mực nước biển dâng dẫn đến thu hẹp diện tích sản xuất, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2016); xói lở và xâm nhập mặn diễn ra ngày càng phức tạp và có chiều hướng gia tăng (Nhóm Ngân hàng Thế giới, 2016). Những ảnh hưởng trên khiến cho việc phát triển nông nghiệp gặp bất lợi lớn, do đó cần có các chính sách phù hợp để thúc đẩy phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, thích ứng với biến đổi khí hậu. Nền nông nghiệp quảng canh rủi ro và thiếu hiệu quả Sự tăng trưởng của ngành nông nghiệp thời gian qua có đóng góp của nhiều ‘điểm sáng’ về thâm canh, ứng dụng công nghệ cao chủ yếu mang tính quảng canh, dựa trên thâm dụng tài nguyên thiên nhiên, thâm dụng lao động, lấy sản lượng, năng suất là chính, chưa quan tâm đúng mức đến chất lượng, hiệu quả kinh tế, giá trị gia tăng của nông sản hàng hóa, và bảo vệ môi trường, dù thời kỳ 'đói khát' đã qua từ lâu. Hơn nữa, nông nghiệp lại chưa gắn với công nghiệp thành một hệ thống để bổ sung, tương trợ cùng nhau phát triển. Số lượng các doanh nghiệp lớn đóng vai trò dẫn dắt trong quá trình hội nhập cho ngành còn ít. Vì vậy, nền nông nghiệp vẫn chưa khắc phục được những yếu kém nội tại, kinh tế nông thôn đang phát triển không đồng đều, thiếu ổn định, mà thực tế ‘được mùa mất giá’, ‘giải cứu nông sản’ hết cây này sang con khác, hết năm này qua năm khác là thí dụ điển hình, là minh chứng của một nền sản xuất chưa bền vững, rủi ro cao, giá cả của đầu ra nông sản bấp bênh, sự thua thiệt thường rơi vào người sản xuất và các doanh nghiệp nhỏ.
Nguồn: Khôi & Thắng, 2019 Năng suất lao động của nông dân Việt Nam đang thuộc nhóm thấp nhất châu Á. Dù trong những năm qua, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản của Việt Nam có tốc độ tăng năng suất lao động (NSLĐ) bình quân cao, với 5,2%/năm giai đoạn 2011-2018, cao hơn tốc độ tăng bình quân của khu vực công nghiệp và xây dựng (3%/năm) và khu vực dịch vụ (3,1%/năm), tuy nhiên khu vực này vẫn có mức NSLĐ thấp nhất trong các khu vực kinh tế, đến năm 2018 theo giá hiện hành đạt 39,8 triệu VND/lao động, chỉ bằng 38,9% NSLĐ của toàn nền kinh tế, bằng 30,4% NSLĐ của khu vực công nghiệp và xây dựng, bằng 33,7% khu vực dịch vụ. Trong các nước ASEAN, NSLĐ khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản của Malaysia cao gấp 11,9 lần; Indonesia cao gấp 2,4 lần; Thái Lan cao gấp 2,1 lần và Philippine cao gấp 1,8 lần mức NSLĐ của Việt Nam (Tùng Đinh, 2020).
Hình thức tổ chức sản xuất chính trong nông nghiệp ở Việt Nam là nông hộ, chiếm 90% tổng diện tích sản xuất nông nghiệp (Nhóm Ngân hàng Thế giới, 2016). Trong những năm qua, kinh tế hộ gia đình đã phát huy hiệu quả, nhưng cũng đã tới ngưỡng kịch trần của xu hướng phát triển theo chiều rộng. Các nông hộ chưa chú trọng đầu tư nâng cao giá trị, tìm kiếm thị trường, chỉ sản xuất cái gì mình có mà không theo tín hiệu của thị trường. Rõ ràng là, kinh tế hộ vẫn và sẽ mãi là hạt nhân của kinh tế nông thôn, nhưng rất cần nâng lên một tầm cao mới, một vị thế mới. Tiếc là, kinh tế hộ gia đình hiện nay, về cơ bản, vẫn là những gì hộ nông dân đã có từ thời sau đổi mới, sau Khoán 10; chưa có một nghiên cứu nào định hình được chân dung kinh tế hộ gia đình trong thời đại công nghiệp 4.0.
Đầu tư vào nông nghiệphạn chế Mức đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế và dàn trải, chưa tương xứng với tiềm năng và đóng góp của ngành đối với nền kinh tế quốc dân, nên cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông thôn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, nhất là cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ trực tiếp sản xuất nông nghiệp. Ví dụ như hệ thống thủy lợi của Việt Nam bị đánh giá là kém hiệu quả, không có hệ thống đo lường chất lượng nước, không có hệ thống điều khiển dòng chảy. Từ đó, năng suất nước thấp (Nhóm Ngân hàng Thế giới, 2016). Các dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp cũng chưa phát triển, đặc biệt là khâu bảo quản sau thu hoạch và logistics. Các ngành công nghiệp chế biến và chế biến sâu nông sản chưa phát triển, đa phần là quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu (Quyền Đình Hà, 2017). Điều đó dẫn tới chất lượng nông sản khi xuất khẩu thấp, giá trị gia tăng nhỏ. Việc hỗ trợ kết nối hình thành chuỗi liên kết sản xuất - phân phối các sản phẩm nông nghiệp chủ lực vẫn còn gặp nhiều khó khăn (Nhóm Ngân hàng Thế giới, 2016). Hệ thống kinh doanh nông sản chỉ tập trung vào một số ngành truyền thống hoặc có lợi nhuận cao như lúa gạo, cao su, cà phê, hồ tiêu, điều. Dù đã thành lập các “sàn giao dịch nông sản” nhưng hoạt động của các sàn này còn rất hạn chế, chưa thực chất (Nguyễn Thị Minh Hiền, 2016). Đời sống kinh tế người nông dân bấp bênh Các số liệu điều tra gần đây cho thấy, dù bộ mặt nông thôn đã thay đổi nhiều, thu nhập và đời sống của phần lớn nông dân dù đã cải thiện nhưng vẫn còn thấp, tăng thu nhập giai đoạn 2002-2016 của hộ nông dân đạt 5.75%/năm, nghĩa là thu nhập của nông thôn tăng theo thời gian nhưng với tốc độ chậm, trong khi chi tiêu cũng tăng, nên khả năng tích lũy thực tế của hộ nông thôn rất thấp, năm cao nhất chỉ đạt trên 22 triệu đồng, chưa bằng 50% hộ thành thị. Tỷ lệ đói nghèo ở nông thôn cao gấp 3,7 lần thanh thị, 40% hộ nông thôn không có tích lũy, 84% lao động nông nghiệp không có tiền để dành (Khôi & Thắng, 2019); trong đó, hộ thuần nông cho thu nhập thấp nhất, những hộ thuần làm nông lâm thủy sản có thu nhập/tháng/người bằng 29% thu nhập/tháng/người nông thôn, chỉ nhỉnh hơn nhóm người không làm việc gì! Tỷ lệ hộ nghèo tuy giảm nhanh, nhưng thiếu bền vững, tỷ lệ tái nghèo cao. Tiềm lực tài chính như vậy, nên người nông dân rất khó tự đầu tư mở rộng sản xuất, tự nâng cao trình độ, hay tự ứng phó với những cú sốc về giá hay tai biến về thời tiết, dịch bệnh. (Còn tiếp) Nhiều lĩnh vực khoa học và công nghệ mũi nhọn phục vụ nông nghiệp như công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ sau thu hoạch, công nghệ chế biến và chế biến sâu, và các lĩnh vực khoa học của kỷ nguyên số như IoT, Bigdata, AI, Blockchain, Robotics và gần đây là Tính toán lượng tử… ứng dụng vào nông nghiệp còn thiếu nhân lực trình độ cao nên chậm được triển khai; điều kiện vật chất kỹ thuật của các cơ sở nghiên cứu, đào tạo còn bị tụt hậu, không đồng bộ so với nhu cầu, nhiệm vụ và so với mặt bằng chung của các cơ sở nghiên cứu và đào tạo về nông nghiệp của các nước có nền nông nghiệp tiên tiến trên thế giới mà chúng ta đang hướng tới, dẫn đến tình trạng đào tạo nhân lực cho khoa học và công nghệ phục vụ nông nghiệp, nông thôn chưa gắn lý thuyết với thực hành, thiếu các nghiên cứu chuyên sâu nâng cao giá trị gia tăng trên một đơn vị sản phẩm. --- Chia sẻ Tags: |