Chính sách cộng sản thời chiến là gì
Chính sách cộng sản thời chiến có những nội dung và ý nghĩa lịch sử như thế nào ?
Show
Đề bài Chính sách cộng sản thời chiến có những nội dung gì và ý nghĩa lịch sử như thế nào?
Phương pháp giải - Xem chi tiết
dựa vào sgk Lịch sử 11 trang 52 để suy luận trả lời. Lời giải chi tiết * Nội dung của “Chính sách cộng sản thời chiến”: - Nhà nước kiểm soát toàn bộ nền công nghiệp. - Trưng thu lương thực thừa của nông dân. - Thi hành chế độ lao động cưỡng bức đối với toàn dân (từ 16 đến 50 tuổi),… * Ý nghĩa: “Chính sách cộng sản thời chiến” đã huy động tối đa mọi nguồn của cải, nhân lực của đất nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp phục vụ cho cuộc chiến đấu chống thù trong, giặc ngoài. Đến cuối năm 1920, Nga đẩy lùi sự can thiệp của các nước đế quốc, bảo vệ được chính quyền non trẻ. Loigiaihay.com
Chính sách cộng sản thời chiến có những nội dung gì và ý nghĩa lịch sử như thế nào?
- Nội dung cơ bản của Chính sách Cộng sản thời chiến: + Nhà nước kiểm soát toàn bộ nên công nghiệp: quốc hữu hóa đại công nghiệp và công nghiệp vừa và nhỏ nhằm tích lũy hàng tiêu dùng tiếp tế cho quân đội. + Trưng thu lượng thực thừa của nông dân. Nhà nước độc quyền lúa mì. Năm 1920 chế độ này được áp dụng với cả khoai tây, rau đậu và nhiều nông phẩm khác. + Thi hành chế độ cưỡng bức lao động.
- Ý nghĩa lịch sử: Chính sách đã động viên tối đa nguồn của cải nhân lực của đất nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp, đến cuối năm 1920 Nga đẩy lùi sự can thiệp của các nước đế quốc, bảo vệ chính quyền non trẻ. (Nguồn: trang 52 sgk Lịch Sử 11:)
Cộng sản thời chiếnKhông gian tên
Tác vụ trang
Cộng sản thời chiến (tiếng Nga: Военный коммунизм; 1918 - 1921) là một chính sách kinh tế được những người Bolshevik tiến hành trong Nội chiến Nga với mục tiêu cung cấp đầy đủ vũ khí và lương thực cho các thành phố và lực lượng Hồng Quân, trong điều kiện tất cả các cơ chế và quan hệ kinh tế thông thường đều đã bị chiến tranh phá hoại. Chính sách này, được bắt đầu và tháng 6 năm 1918, được Ủy ban Kinh tế Tối cao (còn được biết đến với tên Vesenkha) thực hiện. Nó kết thúc vào ngày 21 tháng 3 năm 1921 cùng với khởi đầu cho NEP (Chính sách kinh tế mới), kéo dài đến năm 1928. Về chính sách cộng sản thời chiến và chính sách kinh tế mới của LeninNgày đăng: 06-11-2019 Lượt xem: 13789 Trong một cuộc thăm dò dư luận tiến hành vào năm 2007 – 2008, Trung tâm Phân tích Yuri Levada (Nga), 57% số người dân Nga được hỏi ý kiến cho rằng Cách mạng tháng Mười Nga đã đem lại lợi ích cho nhân dân Nga; 26% tin rằng cách mạng đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nước Nga; 31% cho rằng Cách mạng đem đến sự nhảy vọt cho nền kinh tế và xã hội Nga. Ngày 11-4-2009, Tổng thống Nga khi đó là Dmitry Medvedev đã ký đạo luật Liên bang khôi phục ngày lễ kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga từ năm 2010; luật này sau đó được Duma Quốc gia (Hạ viện) và Hội đồng Liên bang (Thượng viện) Nga thông qua ngày 27-3 và 1-4-2009. Vai trò của Cách mạng tháng Mười thể hiện rõ vì nó ra đời một nhà nước vô sản và nhà nước đó đã tồn tại được qua những giai đoạn lịch sử rất khó khăn, phức tạp. Có hai chính sách kinh tế có ý nghĩa to lớn trong việc duy trì nhà nước đó, đó là “chính sách cộng sản thời chiến” và “chính sách kinh tế mới”. Sự can thiệp của các đế quốc sau Cách mạng tháng Mười Cách mạng tháng Mười thành công ảnh hưởng đến quyền lợi của rất nhiều giai cấp, giai tầng trong xã hội Nga. Lực lượng chống đối Đảng Bolshevik đầu tiên là những quý tộc, sĩ quan cũ trong quân đội Nga hoàng, do bị tước tất cả các đặc quyền giai cấp, ruộng đất... Kế đó là Giáo hội Nga do bị tịch thu tài sản, hạn chế nhiều nghi thức nhà thờ, cũng như bị tước các uy quyền dưới thời Sa hoàng. Bên cạnh đó, một bộ phận công nhân (nhất là công nhân công nghiệp nhẹ và thợ thủ công) và nông dân (nhất là trung nông và nông dân có đạo) bị phái Menshevik tuyên truyền, lợi dụng. Ngoài ra, còn có các dân tộc vốn bị đế quốc Nga áp bức, vốn muốn đứng ra thành lập nhà nước riêng trong lòng nước Nga. Lực lượng cuối cùng là các thế lực nước ngoài nằm trong âm mưu tiêu diệt nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới, hòng chia cắt nước Nga thành các vùng phụ thuộc. Từ cuối năm 1917, các cường quốc trong phe Hiệp ước đã có kế hoạch: Pháp tấn công và lật đổ chính quyền Xô viết ở Ukraine, Crimea, Bessarabia; Anh tấn công và lật đổ chính quyền Xô viết ở phía bắc Nga, ở vùng sông Đông, Kuban, Kavkaz; Mỹ và Nhật tấn công ở vùng Viễn Đông và Siberia… Các nước này không công nhận chính quyền Xô viết, lấy cớ Nga rút ra khỏi chiến tranh để phối hợp với các lực lượng chống đối trong nước, hòng lật đổ chính quyền Xô viết. Tháng 3-1918, quân Anh, Pháp, Mỹ chiếm Murmansk, Arkhangelsk và tiến về hướng Moskva, Petrograd. Tháng 4, quân Nhật đổ bộ lên Vladivostok, trước khi quân viễn chinh Mỹ, Anh, Pháp, Ý đặt chân lên đó. Chính quyền Xô viết ở đây bị lật đổ; quân Bạch vệ lần lượt kiểm soát nhiều thành phố. Tháng 8-1918 quân Anh, Pháp đánh chiếm các thành phố cảng Odessa và Sevastopol; tháng 11-1917, Romania chiếm Bessarabia; tháng 5, quân đoàn Tiệp Khắc nổi loạn ở vùng sông Volgar và Siberia. Phía Tây Nam, các nước đế quốc giúp sức các thế lực chống chính quyền Bolshevik ở Azerbaidjan, Armenia nổi loạn. Trong khi đó, quân Đức xâm nhập vùng ngoại Kavkaz, vùng sông Đông, Crimea, rồi chiếm Ukraine, dựng lên chính phủ thân Đức. Nước Nga Xô viết bấy giờ ở trong một tình huống cực kì khó khăn và nguy hiểm. Khoảng 14 vạn quân của 11 nước đế quốc và chư hầu (về sau tăng lên tới 30 vạn), cùng khoảng 1 triệu quân Bạch vệ có lúc chiếm khoảng 3/4 lãnh thổ Nga, trong đó có những trung tâm nguyên liệu, nhiên liệu và lương thực. Nền kinh tế rơi vào tình trạng bế tắc: các nhà máy phải đóng cửa vì thiếu nguyên liệu và nhiên liệu, giao thông bị đình trệ, nhân dân lâm vào cảnh đói rét và bệnh tật… Trong khi đó, trong nội bộ Đảng, sự chia rẽ, phân hóa diễn ra rất phức tạp. Nhóm “những người cộng sản cánh tả” và bọn Trotkist cho rằng cách mạng XHCN không thể thành công ở phạm vi một nước, rằng chỉ có thể giữ nền chuyên chính vô sản và những thành quả của cuộc Cách mạng XHCN tháng Mười với điều kiện cách mạng XHCN thế giới thắng lợi, mà cuộc cách mạng này cần được “thúc đẩy” bằng một cuộc chiến tranh với chủ nghĩa đế quốc thế giới. Tình hình “thù trong giặc ngoài” đó có nguy cơ xóa sổ thành quả Cách mạng tháng Mười. Chính sách cộng sản thời chiến Trước tình hình đó, tại Đại hội bất thường lần VII của Đảng Cộng sản Nga (b) từ 6 – 8-3-1918, Lenin và các đồng chí đã đấu tranh quyết liệt với các quan điểm sai trái, nhờ đó tạo được sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng. Sau Đại hội, để tập trung toàn lực chống ngoại xâm và nội loạn, Lenin nêu khẩu hiệu: "Tất cả cho tiêu diệt kẻ thù" và thi hành chính sách "cộng sản thời chiến", bắt đầu từ tháng 6-1918. Chính sách này bao gồm các nội dung chủ yếu: trưng thu lương thực thừa của nông dân, nhà nước độc quyền mua bán lương thực để cung cấp cho thành thị và quân đội; nhà nước độc quyền về ngoại thương và kiểm soát việc sản xuất, phân phối sản phẩm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; quốc hữu hóa những xí nghiệp vừa và nhỏ; cấm doanh nghiệp tư nhân; cấm buôn bán trao đổi sản phẩm ở trên thị trường, nhất là lương thực, thực hiện chế độ tem phiếu, trực tiếp phân phối bằng hiện vật cho người tiêu dùng; xóa bỏ ngân hàng nhà nước; kỷ luật nghiêm đối với người lao động, đặt chế độ lao động cưỡng bức áp dụng cho "tầng lớp không lao động" với nguyên tắc "không làm thì không ăn"; quản lý đường sắt theo dạng quân sự. Nhờ đó, nước Nga Xô viết có lương thực để cung cấp cho quân đội và nhân dân. Từ giữa năm 1919, các lực lượng Bạch vệ bắt đầu bị đánh bại và thúc đẩy sự vùng dậy mạnh mẽ của Hồng quân, tiến tới đẩy lui hoàn toàn các thế lực đế quốc can thiệp nước ngoài vào cuối năm. Đến năm 1920, Hồng quân giành những thắng lợi cơ bản trước bọn Bạch vệ và kết thúc cuộc chiến ngay trong năm này. Khi đánh giá về chính sách cộng sản thời chiến, Lenin nói: Trong điều kiện chiến tranh mà chúng ta đã lâm vào thì về cơ bản chính sách đó là đúng. Bắt đầu từ sáng kiến vĩ đại của công nhân đường sắt và sau đó được công nhân cả nước hưởng ứng, khí thế lao động của quần chúng được lên cao: "Ngày thứ bảy lao động cộng sản chủ nghĩa" được thực hiện trên toàn nước Nga. “Chính sách cộng sản thời chiến" hoàn toàn không phải là một chính sách kinh tế tất yếu của thời kỳ quá độ lên CNXH, mà chỉ là một chính sách tạm thời, mang tính ứng phó trong một hoàn cảnh cụ thể hết sức ngặt nghèo của nước Nga Xô viết. Chính sách kinh tế mới (NEP) Sớm xác định những bất ổn của “chính sách cộng sản thời chiến”, Lenin cho kết thúc vào đầu năm 1921 và từ tháng 3-1921 (tại Đại hội X của Đảng, từ ngày 8-3 đến 16-3-1921), Nga bắt đầu thực hiện “chính sách kinh tế mới” (NEP). Nội dung cơ bản của NEP là: bãi bỏ chế độ trưng thu lương thực thừa thay vào đó là thuế lương thực; nông dân được bán lương thực thừa ra thị trường; những xí nghiệp nhỏ trước đây bị quốc hữu hóa, nay cho tư nhân thuê hay mua lại để kinh doanh tự do (chủ yếu là xí nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng); phát triển mạnh tiểu thủ công nghiệp; mở rộng trao đổi hàng hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp, cho thương nhân được tự do hoạt động (chủ yếu trên lĩnh vực bán lẻ), củng cố lại lưu thông tiền tệ trong nước, phát triển kinh tế hàng hóa; phát triển nền kinh tế nhiều thành phần; thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh trong các xí nghiệp quốc doanh… Cùng với việc giành quyền kiểm soát toàn bộ nước Nga, trong đó có những vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp và khai khoáng, NEP đã tạo điều kiện phát triển lực lượng sản xuất, vì nó đáp ứng được yêu cầu của các quy luật kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH là nền kinh tế hàng hóa và có nhiều thành phần. Nhờ đó, trong một thời gian ngắn, Nga đã khôi phục được nền kinh tế quốc dân bị chiến tranh tàn phá. Đến cuối năm 1922, Liên Xô đã vượt qua được nạn đói và đến năm 1925, nông nghiệp đã vượt mức trước chiến tranh, cung cấp 87% sản phẩm. Ngành đại công nghiệp được phục hồi: tổng sản lượng công nghiệp năm 1925 so với năm 1913 đạt 75,5% và đến năm 1926 thì khôi phục được 100%. Kế hoạch điện khí hóa tiến hành có hiệu quả, ngành điện và cơ khí chế tạo vượt mức trước chiến tranh, nhiều xí nghiệp công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm đã đạt và vượt mức trước chiến tranh. Thương nghiệp được mở rộng (tổng mức lưu chuyển hàng hóa trong nước năm 1926 đã bằng 2 lần năm 1924; mở rộng quan hệ buôn bán với hơn 40 nước). Từ đó, ngân sách nhà nước đã được củng cố: năm 1925 – 1926 ngân sách nhà nước tăng lên gần 5 lần so với năm 1922 – 1923. Sau khi Lenin qua đời (tháng 1-1924), NEP không được các nhà lãnh đạo Liên Xô xem trọng đúng mức. Đến cuối năm 1928, Stalin hủy bỏ chính sách này. NGŨ YÊN Lập bảng so sánh sự khác nhau giữa chính sách “Công sản thời chiến” và chính sách “Kinh tế mới”Thứ bảy - 26/06/2021 16:15 Lập bảng so sánh sự khác nhau giữa chính sách “Công sản thời chiến” và chính sách “Kinh tế mới”. Từ đó, rút ra thực chất của chính sách “Kinh tế mới”. Hướng dẫn làm bài
Chính sách Kinh tế mới của V.I. Lênin và ý nghĩa của nó trong tình hình hiện nay
Ngày phát hành: 18/04/2021 Lượt xem 167986
1. Hoàn cảnh ra đời của Chính sách kinh tế mới. Cuối năm 1920, nước Nga Xô Viết ra khỏi nội chiến, chuyển sang xây dựng chế độ xã hội mới trong điều kiện hoà bình song với những khó khăn to lớn: hậu quả của chiến tranh đế quốc và nội chiến đã tàn phá nền kinh tế nặng nề, tình hình kinh tế - xã hội rối ren, nông dân ở nhiều nơi tỏ ra bất mãn với chính sách “Cộng sản thời chiến”, thể hiện ở cuộc bạo loạn ở Crôn- Xtat. Chính sách Cộng sản thời chiến là một biện pháp bắt buộc trong hoàn cảnh nước Nga cuối năm 1918 nội chiến nổ ra có sự can thiệp vũ trang của 14 nước đế quốc do Anh, Pháp cầm đầu nhằm bóp chết Nhà nước Xô viết non trẻ. Trong điều kiện chiến tranh và kinh tế bị tàn phá, thực hiện khẩu hiệu mà V.I.Lênin nêu ra: “Tất cả cho tiêu diệt kẻ thù”, Chính sách Cộng sản thời chiến ra đời nhằm động viên mọi nguồn lực vật chất, lực lượng để phục vụ cho chiến tranh. Chính sách cộng sản thời chiến bao gồm: - Trưng thu lương thực thừa của nông dân, nhà nước độc quyền mua bán lúa mì để cung cấp cho thành thị và quân đội. - Nhà nước kiểm soát việc sản xuất và phân phối sản phẩm công nghiệp. - Cấm buôn bán trao đổi sản phẩm trên thị trường nhất là lúa mì, thực hiện chế độ tem phiếu, trực tiếp phân phối bằng hiện vật cho người tiêu dùng. - Thi hành chế độ nghĩa vụ lao động toàn dân, với nguyên tắc không làm thì không ăn. Thực hiện chính sách này, kết quả là phần lớn sản phẩm tập trung vào tay Nhà nước, nhờ đó nước Nga Xô viết đã có điều kiện để dành chiến thắng trong cuộc chiến tranh nội chiến có sự can thiệp của bên ngoài. Sau khi chiến tranh kết thúc, Chính sách này tỏ ra không phù hợp trong điều kiện mới, nông dân tỏ ra bất bình, do kéo dài việc cấm buôn bán trao đổi, thu hẹp phạm vi lưu thông hàng hoá, xoá bỏ quan hệ hàng hoá-tiền tệ. Trước tình hình trên, tháng 3/1921,V.I. Lênin đã vạch ra Chính sách kinh tế mới thay cho Chính sách cộng sản thời chiến, được trình bầy đầu tiên trong tác phẩm “Bàn về thuế lương thực” 2. Nội dung chủ yếu của Chính sách kinh tế mới (NEP) Đó là việc khôi phục và phát triển các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước và các thành phần kinh tế khác, coi đó là những biện pháp quá độ, những mắc xích trung gian để chuyển sang CNXH, là phương thức để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Đây là những hình thức và phương pháp mới xây dựng CNXH thay cho Chính sách cộng sản thời chiến đã tỏ ra không phù hợp với điều kiện đã thay đổi. Có thể khẳng định, NEP là đổi mới nhận thức về CNXH với sự thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần, phát triển quan hệ hàng hoá tiền tệ, kinh tế thị trường, thực hiện sự trao đổi giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp, thay chính sách trưng thu lương thực bằng chính sách thuế lương thực, chú trọng kích thích lợi ích vật chất và coi đó động lực quan trọng để phát triển kinh tế, sử dụng các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Dưới đây là các nội dung chủ yếu của NEP: a.Thuế lương thực. Việc ra đời của chính sách thuế lương thực - sự khởi đầu của NEP - đã đánh dấu sự chuyển biến mới về chất trong minh liên công- nông ở nước Nga lúc bấy giờ. Theo Lênin, trong điều kiện nước Nga lúc này "đó là một trong những vấn đề chính trị chủ yếu"[1]. Trước hết Lê nin cho rằng để khôi phục và phát triển kinh tế, cần dùng những biện pháp cấp tốc và cương quyết nhất để cải thiện đời sống của nông dân và phát triển mạnh lực lượng sản xuất của họ. Bởi vì, theo V.I. Lênin, "muốn cải thiện đời sống của công nhân thì phải có bánh mì và nguyên liệu. Đứng về phương diện của toàn bộ nền kinh tế quốc dân của chúng ta mà nói thì hiện nay "trở ngại lớn nhất là ở đó. Thế mà chúng ta chỉ có thể tăng thêm sản xuất và thu hoạch lúa mì, tăng thêm dự trữ và vận tải nhiên liệu bằng cách nâng cao lực lượng sản xuất của họ"[2]. Đồng thời, Lê nin cũng phê phán quan điểm muốn cải thiện đời sống công nhân bằng cách khác, theo Người, đó là việc đặt lợi ích phường hội của công nhân lên trên lợi ích giai cấp của họ, có nghĩa là chỉ nhìn lợi ích trước mắt, lợi ích nhất thời, lợi ích cục bộ của công nhân mà hy sinh lợi ích toàn thể của giai cấp công nhân, của nền chuyên chính vô sản, của sự liên minh với nông dân. Để thực hiện được nhiệm vụ trên, theo Lênin, phải áp dụng Chính sách thuế lương thực. Nội dung chính của chính sách này là: - Nhà nước xác định trước và ổn định mức thuế lương thực cho nông dân (thường chỉ bằng 1/2 so với trước đó). - Người nông dân sau khi đã đóng góp thuế lương thực theo quy định, được tự do bán sản phẩm của mình để mua những sản phẩm công nghiệp cần thiết; nếu sản xuất càng nhiều thì sau khi đóng thuế, người nông dân bán ra càng nhiều và thu nhập càng cao. Chính sách này đã đem lại kết quả quan trọng trong việc khôi phục và phát triển nền kinh tế của nớc Nga sau chiến tranh. b.Khôi phục và phát triển quan hệ trao đổi sản phẩm giữa nông nghiệp và công nghiệp. Lênin xem vấn đề trao đổi hàng hoá như một hình thức chủ yếu của mối quan hệ kinh tế giữa thành thị và nông thôn, như một tiền đề cần thiết để xây dựng thành công CNXH. Khác với cơ chế giao nộp, trưng thu của Chính sách cộng sản thời chiến trước đây, cơ chế trao đổi sản phẩm kinh tế hàng hoá cho phép đạt được mục tiêu như: Một là, đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của sản xuất và tiêu dùng của nông dân, của xã hội. Thông qua trao đổi hàng hoá sẽ thúc đẩy quá trình phân công lao động trong nông nghiệp khuyến khích sản xuất nông nghiệp phát triển. Hai là, đây là con đường để Nhà nước giải quyết vấn đề lương thực một cách chắc chắn, sản xuất lương thực càng mang tính chất hàng hoá sẽ khuyến khích nông dân mở rộng diện tích canh tác, thâm canh. Kết quả là tổng số lương thực của xã hội tăng lên, khối lượng lương thực vào tay Nhà nước qua con đường trao đổi và thu thuế cũng ngày càng tăng. Ba là, làm sống động các ngành kinh tế và toàn bộ sinh hoạt xã hội ở thành thị và nông thôn. Như vậy, V.I Lê nin đã cụ thể hoá quan điểm "bắt đầu từ nông dân" trong hai chính sách: thuế lương thực và trao đổi hàng hoá. Từ đó cho thấy chính sách thuế lương thực của Lênin còn bao hàm tư tưởng chuyển sang kinh doanh lương thực. Theo Người, để thực hiện trao đổi sản phẩm công nghiệp và nông nghiệp cần giải quyết hai vấn đề: - Thứ nhất, nguồn hàng hoá công nghiệp để trao đổi. - Thứ hai, mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế hàng hoá để thực hiện NEP với sự phục hồi và kích thích xu hướng phát triển tư bản chủ nghĩa của sản xuất hàng hoá nhỏ. Lê nin cho rằng: Sự phát triển của trao đổi tư nhân, của chủ nghĩa tư bản là sự phát triển không tránh khỏi. Việc ngăn cấm, chặn đứng sự phát triển đó là có hại cho cách mạng, tuy nhiên, không được coi thường, buông lỏng sự kiểm tra, kiểm soát sự phát triển ấy. c. Sử dụng các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Lênin chỉ ra rằng, trong một nước như nước Nga, kinh tế tiểu nông chiếm ưu thế thì hễ có trao đổi tự do buôn bán, thì sự phát triển của nền kinh tế nhỏ là một sự phát triển tiểu tư sản, có tính tự phát tư bản chủ nghĩa. Đó là một chân lý sơ đẳng của kinh tế chính trị. Vấn đề là ở chỗ, thái độ của nhà nước vô sản cần như thế nào? Chính sách đúng đắn nhất như Lê nin khẳng định là giai cấp vô sản cung cấp cho tiểu nông tất cả những sản phẩm công nghiệp mà họ cần dùng do những công xưởng lớn xã hội chủ nghĩa sản xuất ra để đổi lấy lúa mì và nguyên liệu. Nhưng hoàn cảnh lúc này không cho phép chính quyền Xô Viết làm được điều đó. Vậy cần phải làm thế nào? Theo Lê nin có hai cách giải quyết: - Hoặc là tìm cách ngăn cấm, triệt để chặn đứng mọi sự phát triển của sự trao đổi tư nhân không phải là quốc doanh, tức là của thương nghiệp tư bản chủ nghĩa và tiểu thương, mà sự trao đổi này là xu hướng không thể tránh khỏi khi có hàng triệu người sản xuất nhỏ, Lênin cho rằng "Chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với Đảng nào muốn áp dụng nó". - Hoặc là tìm cách hướng sự phát triển của chủ nghĩa tư bản vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước. Lê nin cho rằng đây là chính sách có thể áp dụng được và duy nhất hợp lý. Người nhiều lần khẳng định: chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bước tiến so với thế lực tự phát tư sản, nó gần CNXH hơn kinh tế của sản xuất hàng hoá nhỏ và tư bản tư nhân. Người đã tìm ra những hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước Nga lúc bấy giờ như: tô nhượng, hợp tác xã, đại lý, hợp đồng cho thuê. Tuy khác nhau, song các hình thức này đều nhằm khôi phục và phát triển nền kinh tế hàng hoá của Nhà nước chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ, bảo đảm sự thắng lợi của CNXH một cách vững chắc. Rõ ràng, cơ chế kinh tế của thời kỳ Chính sách kinh tế mới mang tính chất quá độ, gián tiếp, theo hướng "không đập tan cơ cấu kinh tế và xã hội cũ, thương nghiệp, tiểu nông, công nghiệp nhỏ, chủ nghĩa tư bản, mà là chấn hưng thương nghiệp bằng cách Nhà nước điều tiết những cái đó nhưng chỉ trong chừng mực chúng sẽ được phục hồi lại"[3]. Cơ chế này hoàn toàn khác với cơ chế kinh tế có tính chất mệnh lệnh trực tiếp của chính sách cộng sản thời chiến được thi hành trước đó. Trong thời Lênin, các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước gồm có: - Hình thức thứ nhất là tô nhượng, theo Lênin "là sự liên minh, một hợp đồng kinh tế với tư bản tài chính ở các nước tiên tiến"[4]. Ý nghĩa chính trị được Lênin xem xét trong hình thức tô nhợng - hình thức quan trọng nhất của chủ nghĩa tư bản nhà nước: Tô nhượng là một sự liên minh do một bên này ký kết để chống lại bên kia và chừng nào mà chúng ta chưa đủ mạnh thì phải lợi dụng sự thù địch giữa chúng với nhau để đứng vững được.Vì vậy, "tô nhượng tức là tiếp tục chiến tranh trên lĩnh vực kinh tế, nhưng ở đây chúng ta không làm cho lực lượng sản xuất của chúng ta bị phá hoại, mà lại làm cho lực lượng đó phát triển lên"[5]. - Hình thức thứ hai là hợp tác xã (HTX) của người tiểu nông, đây là một hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước, vì thông qua hình thức này, tạo điều kiện cho việc kiểm kê kiểm soát, nhưng nó khác với hình thức tô nhượng ở chỗ: tô nhượng dựa trên cơ sở đại công nghiệp, còn chế độ HTX dựa trên cơ sở tiểu công nghiệp sản xuất thủ công. Theo Lênin việc chuyển từ tiểu sản xuất hàng hoá nhỏ sang sản xuất lớn là bước quá độ phức tạp, bởi vì giám sát một kẻ được tô nhượng là việc dễ, nhưng giám sát các xã viên HTX là việc khó, đó là quá trình lâu dài dựa trên nguyên tắc tự nguyện. - Hình thức thứ ba của chủ nghĩa tư bản nhà nước trong lĩnh vực thương mại, Nhà nước thu hút tư bản thương mại, trả hoa hồng để họ bán sản phẩm của Nhà nước và mua sản phẩm của người sản xuất nhỏ. - Hình thức thứ tư là Nhà nước cho nhà tư bản thuê xí nghiệp, vùng mỏ khu rừng, đất đai . Lênin đánh giá cao vai trò của chủ nghĩa tư bản nhà nước trong điều kiện một nước còn tồn tại phổ biến nền sản xuất hàng hoá nhỏ, khẳng định "ở đây không phải là CNTB nhà nước đấu tranh với CNXH mà là giai cấp tiểu tư sản cộng với chủ nghĩa tư bản tư nhân cùng đấu tranh chống lại cả chủ nghĩa tư bản Nhà nước với chủ nghĩa xã hội"[6]; "chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bước tiến to lớn dù phải trả học phí, là một việc làm đáng giá, điều ấy không những không làm cho chúng ta bị diệt vong, trái lại có thể đưa chúng ta đến CNXH bằng con đường chắc chắn nhất"[7]. Như vậy, trong tư duy kinh tế của Lênin thì Chính sách kinh tế mới gắn liền với sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước, Lênin đã phát hiện tính quy luật của việc chuyển hoá kinh tế tư nhân, tư bản tư nhân lên chủ nghĩa xã hội thông qua hình thức kinh tế tư bản nhà nước. V.I.Lênin đã nêu chức năng mới của Nhà nước vô sản trong phát triển kinh tế như: điều tiết việc mua bán hàng hoá và luư thông tiền tệ, tổ chức thương nghiệp nhà nước bán buôn, bán lẻ, phát triển các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, các quan hệ tín dụng, coi thương nghiệp là mắt xích quan trọng trong việc triển khai NEP. Sở dĩ Lênin coi thương nghiệp là mắt xích trong triển khai NEP bởi vì mục tiêu quan trọng của NEP là thiết lập sự liên minh kinh tế giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân, trong điều kiện kinh tế lạc hậu phân tán thì thương nghiệp là mối liên hệ kinh tế duy nhất giữa chúng. 3. Ý nghĩa của việc vận dụng Chính sách kinh tế mới. V.I Lênin đã bảo vệ và phát triển học thuyết của Mác - Ăngghen, nâng lên trình độ cao mới trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản phát triển lên giai đoạn cao là chủ nghĩa đế quốc trong hoàn cảnh lịch sử cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Kế thừa học thuyết của C.Mác trong điều kiện mới, V.I Lênin đã sáng tạo ra lý luận khoa học về chủ nghĩa đế quốc, khởi thảo lý luận mới về cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người đã xác định kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội, đề ra Chính sách kinh tế mới (NEP), phác hoạ những đường nét cơ bản của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước kinh tế chậm phát triển. Khi vạch ra chính sách kinh tế mới, Lênin đã khẳng định: "Chúng ta buộc phải thừa nhận toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi căn bản"[8]. Những quan điểm của Lênin trong chính sách kinh tế mới về phát triển kinh tế nhiều thành phần, phát triển quan hệ hàng hoá tiền tệ kinh tế thị trường, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước dường như mâu thuẫn với quan niệm của Mác và Ăngghen khi cho rằng chủ nghĩa cộng sản xoá bỏ buôn bán, cùng với việc xã hội nắm lấy tư liệu sản xuất thì sản xuất hàng hoá cũng bị loại trừ. Thực ra phải hiểu điều kiện lịch sử cụ thể của những quan điểm của các nhà kinh điển, điều khẳng định ở trên của Mác và Ăngghen là những dự đoán về giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản chứ không phải nói về giai đoạn thấp của nó, tức là chủ nghĩa xã hội. Điều này Mác đã khẳng định: Đó là một xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội về mọi phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần - còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra... Các nhà kinh điển đã chỉ ra một cách đúng đắn về mặt phương pháp luận khi cho rằng cơ sở để xoá bỏ chế độ tư hữu là lực lượng sản xuất phải được phát triển đến một trình độ nhất định với trình độ xã hội hoá cao, chứ không phải chỉ bằng quyết định mệnh lệnh hành chính hay mong muốn chủ quan. Biện chứng của lịch sử là ở chỗ để thủ tiêu chế độ tư hữu thì phải phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường và như vậy phải trải qua chế độ tư hữu trong một thời gian dài. Đây là quy luật khách quan, biện chứng của sự phát triển mà Lênin đã vận dụng sáng tạo trong NEP. Chính vì không nhận thức và vận dụng được quy luật này, nhiều nước xã hội chủ nghĩa cũ như Liên Xô và Đông Âu trước đây đã chủ trương nhanh chóng xoá bỏ chế độ tư hữu, thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao độ, không thừa nhận nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, không phát triển quan hệ hàng hoá - tiền tệ và kinh tế thị trường, thực hiện chiến lược công nghiệp hoá theo hướng nội là chủ yếu, không tích cực tham gia vào phân công hợp tác quốc tế, coi nhẹ vai trò của dịch vụ trong nền kinh tế. Tư duy này đã kìm hãm sự phát triển dẫn đến khủng hoảng trầm trọng. Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) với quan điểm nhìn thẳng sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật đã đánh dấu bước ngoặt của quá trình Đổi mới, nhất là đổi mới tư duy kinh tế của Đảng ta, khẳng định quá trình chuyển từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn của nước ta là quá trình chuyển hoá nền kinh tế còn mang nhiều tính tự túc cấp thành nền kinh tế hàng hoá, khẳng định sự cần thiết của việc sử dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ dưới chủ nghĩa xã hội, coi tính kế hoạch là đặc trưng số một, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ là đặc trưng thứ hai của cơ chế quản lý kinh tế mới. Như vậy nhận thức của Đại hôi VI mặc dù chưa đạt tới nhận thức về kinh tế thị trường, song đã đặt nền tảng cho sự phát triển của Đảng ta ở các đại hội sau. Đảng ta đã nhận thức đầy đủ hơn về mối quan hệ giữa mục tiêu và phương tiện, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: "sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng"[9] Chỉ đến Đại hội IX (tháng 4/2001) Đảng ta mới chính thức đưa ra khái niệm kinh tế thị trường định hướng XHCN, khẳng định phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là mô hình kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển, vừa có những đặc điểm chung của kinh tế thị trường hiện đại, vừa có những đặc điểm riêng phù hợp với những điều kiện đặc thù của Việt Nam. Sự khẳng định của Nghị quyết Đại hội IX về mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là một bước phát triển mới về nhận thức lý luận so với mô hình nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước được xác định tại Đại hội VIII. Đại hội XI đã đưa vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung phát triển năm 2011) quan điểm về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, lý luận về phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam qua 30 năm Đổi mới, tham khảo kinh nghiêm quốc tế, Đại hội XII của Đảng đã bổ sung hoàn thiện và xác định cụ thể hơn khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phù hợp với bối cảnh mới. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giũ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật, thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định mục tiêu “Đến năm 2020, phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; đảm bảo tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và thị trường ”[10]. Rõ ràng, C. Mác và Ph. Ăng ghen mới chỉ nêu ra những dự báo khoa học về xã hội cộng sản thông qua sự phân tích hiện thực của chủ nghĩa tư bản, điều này đòi hỏi các đảng cộng sản phải vận dụng phát triển sáng tạo học thuyết của Mác, Ăngghen trong điều kiện cụ thể của nước mình. ChínhV.I Lênin xuất phát từ thực tiễn nước Nga đã tổng kết: "Chúng ta không hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở tất cả những bài học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư bản đã thu được" [11] Trong việc vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của mỗi nước cần tránh khắc phục quan điểm chủ quan duy ý chí, giáo điều, tả khuynh làm cho học thuyết tư tưởng của các nhà kinh điển bị méo mó. Thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu và Liên Xô cũ và thực tiễn Việt Nam thời kỳ trước đổi mới đã cho thấy rõ điều đó. Cuộc sống cho thấy mô hình chủ nghĩa xã hội cũ với tính kế hoạch hoá tập trung cao độ, tập trung đẩy mạnh cải tạo, phát triển quan hệ sản xuất mà không chú trọng đầy đủ đến vai trò của lực lượng sản xuất, coi nhẹ yếu tố khuyến khích vật chất gắn với sử dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ và kinh tế thị trường đã làm cho mô hình này không có sức sống và lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã nhận định bài học đầu tiên qua tổng kết 30 năm Đổi mới là “Trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại,vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam”[12]. Trong 35 năm Đổi mới, Đảng ta đã vận dụng, phát triển sáng tạo Chính sách kinh tế mới của Lênin trong việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta, do vậy đã đạt được những kết quả quan trọng trong phát triển kinh tế và xã hội, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế; tạo ra các tiển đề quan trọng để tiếp tục phát triển đất nước trong thời gian tới. Trước những yêu cầu, đòi hỏi mới của thực tiễn, Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung nhiều nhận thức định hướng mới trong quan điểm về thể chế phát triển, nhấn mạnh yêu cầu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, hình thành các mô hình kinh tế mới, phát triển các thành phần kinh tế nhất là kinh tế tư nhân được coi là động lực quan trọng. Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 – 2030 đã xác định “Lấy cải cách, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập và thực thi pháp luật hiệu lực, hiệu quả là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy phát triển đất nước...Phát triển nhanh, hài hòa các khu vực kinh tế và các loại hình doanh nghiệp; phát triển kinh tế tư nhân thực sự là một động lực quan trọng của nền kinh tế”[13]. Trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường tháo gỡ kịp thời những khó khăn vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, là động mới cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước”. Đồng thời chủ trương cần tiếp tục “Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo môi trường thuận lợi để huy động phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh; nâng cao năng suất chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”[14].,. PGS.TS Trần Nguyễn Tuyên Hội đồng Lý luận TW
[1] V.I. Lênin toàn tập, tập 43, NXB Tiến bộ M. 1978, tr. 244
[2] V.I. Lênin, Toàn tập, T43, NXB Tiến bộ, M. 1978, tr.262 - 263
[3] V.I. Lênin, Toàn tập, T.44, tr.275
[4] Sđd, Toàn tập, T.43, tr.99
[5] Sđd, T42, tr.54
[6] Lênin, Toàn tập, NXb Tiến Bộ M. 1978, t.36, tr. 363
[7] Sđd, T.36, tr.366
[8] Lênin, Toàn tập, NXB Tiến bộ. Matxcơva, 1976, T.45, tr. 428.
[9] Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1996, trang 97
[10] Đảng CSVN, Văn kiện Đại hội lần thứ XII, Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2016, tr.104.
[11] V.I. Lênin toàn tập, NXB Tiến bộ, Matxcơva, 1978, tập 36, trang 334.
[12] Đảng CSVN, Văn kiện Đại hội lần thứ XII, Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2016, tr.69.
[13] ảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật. Hà Nội 2021. Tập 1, trang 215.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật. Hà Nội 2021. Tập 1, trang 114-115. |