Hơn ba tháng, bà lão chỉ an toàn bánh đúc Đọc hiểu

Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân gồm dàn ý chi tiết kèm theo 7 bài văn mẫu hay nhất. Qua đó giúp các em học sinh lớp 12 có thêm nhiêu tư liệu tham khảo, củng cố kiến thức để biết làm bài văn phân tích nhân vật ngày một hay hơn.

Hơn ba tháng, bà lão chỉ an toàn bánh đúc Đọc hiểu
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ

Phân tích bà cụ Tứ giúp chúng ta cảm nhận được những đức tính cao đẹp của người phụ nữ, người mẹ Việt Nam. Đó là sự đảm đang, lòng nhân hậu, vị tha, tình thương yêu con vô bờ bên và sự kiên cường trong ý chí. Ngoài ra các bạn tham khảo thêm nhiều bài văn hay khác tại chuyên mục Văn 12. Chúc các bạn học tốt.

Bạn đang xem: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt

Dàn ý phân tích nhân vật bà cụ tứ

I. Mở bài

  • Kim Lân là một cây bút có tài, các sáng tác của ông hướng vào chủ đề chính là nhưng người nông dân và cuộc sống ở nông thôn Việt Nam.
  • Tác phẩm Vợ nhặt: nằm trong tập truyện Con chó xấu xí, là bức tranh chân thực về nạn đói năm 1945, là sự ngợi ca tình người, tình mẫu tử, khát vọng sống.
  • Bà cụ Tứ là đại diện cho vẻ đẹp của những người nông dân, người mẹ Việt Nam.

II. Thân bài

1. Giới thiệu nhân vật

  • Là một bà mẹ nghèo, già nua (lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già), là dân ngụ cư.
  • Ngoại hình: dáng đi lọng khọng, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho húng hắng, lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già.

2. Diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ

– Trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch “bà lão phấp phỏng”.

– Bà không hề hay biết chuyện anh con trai đã nhặt một người vợ về, thấy người đàn bà lạ trong nhà, bà rất ngạc nhiên: “quái, sao lại có một người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?” “người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia?”, “sao lại chào mình bằng u?”

– Sau tất cả sự ngạc nhiên, bà đã hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, “mắt bà nhoèn đi”:

  • Bà thương, buồn tủi cho con trai phải lấy vợ nhặt, mà trong cảnh đói khát mới lấy được vợ “Chao ôi”, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm làm nồi … còn con mình thì …”.
  • Bà cũng thấy hờn tủi cho chính mình, có lỗi với con trai bởi không thể lo được chuyện dựng vợ gả chồng cho con chu đáo.
  • Bà cảm thương cho người đàn bà khốn khổ cùng đường mới phải lấy con trai bà, thương cho cả sự ngờ nghệch của đứa con trai: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được … ”

– Bà mừng vì con trai đã yên bề gia thất: “các con đã phải duyên … u cũng mừng lòng”, “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên” chấp nhận đứa con dâu vừa được nhặt về.

– Bà cụ Tứ dần lo lắng cho cuộc sống các con sau này: “chúng nó có nuôi nhau sống qua được cơn đói khát này không”, “vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không”

– Bà đối xử tốt với nàng dâu mới bằng sự cảm thông, trân trọng:

  • Ân cần quan tâm con: “Con ngồi đây … đỡ mỏi chân”,
  • Nói về tương lai với niềm lạc quan “biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời”
  • Bảo ban các con làm ăn: “khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có đàn gà cho xem”.

– Nhận xét: bà cụ Tứ là người mẹ nghèo hiền từ, chất phác, vị tha, nhân hậu, âm thầm hi sinh vì hạnh phúc của con. Bà là nhân vật tiêu biểu cho những phẩm chất tốt đẹp của người mẹ nghèo Việt Nam.

III. Kết bài

  • Cảm nhận riêng về nhân vật bà cụ Tứ.
  • Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện độc đáo, miêu tả tâm lí nhân vật nhuần nhuyễn, ngôn ngữ giản dị, gần gũi.
  • Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực tình cảnh người nông dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của họ.

Phân tích bà cụ Tứ – Mẫu 1

Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân. Trong tác phẩm ta không chỉ nhớ về anh cu Tràng và chị vợ nhặt mà còn nhớ đến bà mẹ tần tảo, chịu nhiều vất vả. Bà cụ Tứ là hình ảnh bà mẹ nông dân Việt Nam trước 1945. Ở nhân vật này, Kim Lân không chú ý vào hành động mà đi sâu vào khai thác tâm trạng nhân vật, qua đó khẳng định tài năng miêu tả tâm lí nhân vật của ông.

Diện mạo của bà cụ Tứ chỉ được tác giả phác họa bằng vài chi tiết “dáng đi lọng khọng, vừa đi vừa húng hắng ho”. Nhưng chừng ấy cũng đã đủ để cho người đọc hình dung về một bà mẹ nhân dân lam lũ, vất vả đã bị cái đói cái nghèo đeo bám suốt cả cuộc đời.

Nhưng dưới ngòi bút tập trung đi sâu miêu tả tâm lí bà cụ Tứ, đặc biệt là ở hai thời điểm: trong buổi tối cô vợ nhặt về nhà và buổi sáng hôm sau. Qua hai thời điểm đó đã cho thấy tài năng miêu tả tâm lí bậc thầy của Kim Lân.

Khi bà cụ Tứ nhìn thấy cô con dâu, bà ngạc nhiên đến mức ngỡ ngàng vì chưa bao giờ bà thấy con trai bà mong ngóng bà về đến vậy. Sự ngạc nhiên tạo nên tâm lí phấp phỏng khi bà theo anh cu Tràng vào nhà và thấy một người đàn bà lạ ngồi trong nhà. Đến lúc này sự ngạc nhiên của bà đã lên đến đỉnh điểm, bà tự hỏi: “Quái, sao lại có người đàn bà ngồi trong ý nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u”. Sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng đến mức bà không tin nổi vào mắt mình, phải dụi mắt để cho đỡ nhoèn.

Sau khi được anh con trai giải thích, tâm trạng bà ngổn ngang, rối bời. Bằng trái tim yêu thương của người mẹ, lòng bà dâng lên tình yêu thương con sâu sắc. Bởi bà hiểu người ta chỉ lấy vợ lấy chồng khi cuộc sống yên ổn, nhưng con bà lại lấy vợ vào thời điểm cái đói diễn ra ác liệt nhất. Cùng với đó bà nghĩ tủi cho phận người mẹ nghèo khi không làm tròn trách nhiệm lo lắng cho hạnh phúc của con. Tất cả những nỗi lòng ấy được dồn trong cái cúi đầu nín lặng. Sau tình yêu thương bà chuyển sang xót xa, lo lắng “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau vượt qua cơn đói khát này được không?”. Nạn đói đang hoành hành, những lo lắng của bà là hoàn toàn hợp lí. Từ lòng yêu thương, lo lắng cho con, tấm lòng nhân hậu của người mẹ còn chuyển sang người vợ nhặt. Dù Tràng không giới thiệu chi tiết, tỉ mỉ nhưng với kinh nghiệm sống của mình và hiểu đám cưới vội vã của người con dâu. Bà nhìn cô với ánh mắt đầy cảm thông, yêu thương: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có được vợ”. Như vậy bà không chỉ là hiện thân của tình mẫu tử thiêng liêng mà còn là hiện thân của tấm lòng bao dung, vị tha, sẵn sàng giúp đỡ những người có số phận bất hạnh, éo le.

Dù trong lòng ngập tràn nỗi xót xa, nhưng bà vẫn luôn nói những điều vui vẻ, hạnh phúc với người con dâu mới: “ừ, thôi thì các con đã phải duyên, phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Câu nói vừa xóa đi cái ngượng ngùng cho người con dâu vừa là sự chào đón đầy ấm áp, nhân từ bà dành cho thành viên mới của gia đình. Dù miệng nói ra những điều phấn khởi, vui vẻ nhưng ám ảnh về cái đói, cái chết vẫn là quá lớn. Bởi vậy, khi chìm vào thế giới của riêng mình bà vẫn không khỏi lo lắng, xót xa, và không nén nổi thành dòng nước mắt chảy ròng ròng.

Trong buổi sáng hôm sau, Kim Lân tiếp tục đi sâu khai thác tâm lí bà cụ Tứ, đặc biệt nhấn mạnh vào niềm tin, khát vọng tương lai. Cùng với sự thay đổi của Tràng và cô vợ nhặt, bà cụ Tứ cũng có sự thay đổi rõ ràng. Tràng đã cảm nhận thấy người mẹ của mình có dáng vẻ khác hẳn mọi khi, không phải sự nhếch nhác, khổ sở mà thay vào đó là dáng điệu nhẹ nhõm, tươi tỉnh. Bà dậy sớm cùng con dâu quét dọn nhà cửa. Những hành động tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn lao, nó thể hiện sự vun đắp, chăm lo của người mẹ cho hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ.

Để tạo niềm tin và hi vọng vào tương lai cho vợ chồng Tràng, trong bữa cơm ngày đói bà lão toàn nói những chuyện sung sướng sau này. Sự tính toán của bà về việc mua lấy đôi gà để ngoảnh đi ngoảnh lại đã có đàn gà, khiến cho đôi vợ chồng có niềm tin vào tương lai. Nhưng dù dùng những câu chuyện vui, lạc quan thì bà lão vẫn không thay đổi được hiện thực là nồi cháo kia chỉ đủ cho mỗi người ăn hai lưng là hết. Và để vượt qua cái đói, bữa cơm đón cô dâu mới có thêm cả nồi cháo cám. Bưng nồi cháo cám ra, phản ứng tâm lí của bà vô cùng đáng thương, bà lật đật, lễ mễ, khuấy khuấy cùng với giọng nói đầy phấn khởi, để giấu bớt đi phần khắc nghiệt của hiện thực là bát cháo cám nghẹn ứ ở cổ. Những hành động đó của bà thật cảm động và đáng trân trọng.

Không phải ngẫu nhiên mà trong ba nhân vật, Kim Lân lại để một bà cụ gần đất xa trời nói về tương lai, nhưng điều tốt đẹp, sau đó còn ẩn chứa thông điệp: Dù thế nào cũng phải giữ lấy niềm tin và hi vọng. Đồng thời cũng là sự ngợi ca của tác giả trước sức sống khỏe khoắn, mãnh liệt của tâm hồn Việt. Người mẹ nghèo nhưng tính cách bao dung, nhân từ đã gieo mầm sự sống, hạnh phúc lứa đôi. Có thể coi bà cụ Tứ là điểm kết tinh của tác phẩm, thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc.

Bằng nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Kim Lân đã lách sâu ngòi bút của mình để thấy được vẻ đẹp tâm hồn, tấm lòng bao dung nhân hậu của bà cụ Tứ với đôi vợ chồng trẻ. Bà cụ Tứ chính là hình ảnh đẹp đẽ nhất, đại diện tiêu biểu cho hàng triệu bà mẹ Việt Nam. Đồng thời qua nhân vật này cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Kim Lân.

Phân tích bà cụ Tứ – Mẫu 2

Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn xuất sắc. Ông viết rất hay về thú “phong lưu đồng ruộng”. “Nên vợ nên chồng” và “Con chó xấu xí” là hai tập truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn. “Vợ nhặt” – một truyện ngắn độc đáo rút trong tập “Con chó xấu xí” xuất bản năm 1962. Truyện thấm đẫm tinh thần nhân đạo đã phản ánh cuộc đời nghèo khổ, cơ cực và khát vọng về hạnh phúc gia đình của người nông dân Việt Nam trong thời Pháp thuộc. Nhà văn kể về chuyện anh cu Tràng “nhặt” được vợ khi cả xóm ngụ cư người chết đói như ngả rạ. Trong ba nhân vật của truyện, hình ảnh bà cụ Tứ – mẹ của Tràng để lại cho người đọc nhiều ấn tượng.

Cuộc đời bà cụ Tứ thật đáng thương: tuổi già, nhà nghèo, góa bụa, hiền lành và thầm lặng… Bà cụ lần đầu xuất hiện trong bóng hoàng hôn tê tái, khi người con trai làm nghề kéo xe dẫn người đàn bà xa lạ về gia đình bà. Một mái nhà tranh “đứng rúm ró trên mảnh vườn cỏ mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”. Sau tấm phên rách nát là những “niêu bát, xống áo vứt bừa bãi cả trên giường dưới đất”. Người mẹ già nghèo khổ “húng hắng ho” chẳng khác nào một chiếc bóng “lọng khọng” đi vào ngõ. Bà cụ ngạc nhiên khi chợt thấy một người đàn bà xa lạ đứng ngay đầu giường thằng con mình. Bà lão “đứng sững lại”, càng ngạc nhiên hơn. Bà băn khoăn tự hỏi: “Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?”. Bà hấp háy mắt, thấy mắt mình “nhoèn ra”, … rồi “lập cập” bước vào nhà. Lại nghe một tiếng chào nữa, bà lão “băn khoăn” ngồi xuống giường, lòng bà phân vân không kể xiết! Sau khi nghe Tràng “giới thiệu” người khách lạ, bà cụ Tứ vừa mừng vừa lo lại tủi thân. Lòng bà xáo trộn bao nỗi niềm. Một đời người trải qua nhiều đau khổ, mất mát, cay đắng, bà lấy làm xót xa, thấy mình làm mẹ mà không tròn bổn phận với con. Bà khóc. Tâm trạng cay đắng, chua xót: “Lòng người mẹ già nghèo khổ ấy… vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”. Bà cụ Tứ nghĩ đến gia cảnh mà thêm buồn tủi. Tiếng than, tiếng thở dài như tràn qua dòng nước mắt. Thương con, thương cho số phận mình, những tháng năm dài dằng dặc với bao chuyện buồn. Bà thương mình trải qua một cuộc đời đầy cay đắng: “Chao ôi! Người ta dựng vợ gả chồng con lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…”.

Nạn đói đang đe dọa. Bà phấp phỏng lo âu: “Chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”. Góa bụa, nghèo khổ, cô đơn. Chồng chết rồi mụn con gái chết con. Bà sống với đứa con trai thô kệch “mắt nhỏ tí, quai hàm bạnh ra” lại có tật vừa đi vừa nói lẩm bẩm như người dở hơi. Bà mỗi ngày một già mà Tràng vẫn sống độc thân. Tục ngữ có câu: “Trẻ cậy cha, già cậy con”. Bà mẹ càng thấy buồn, lo vô hạn. Tuy mặc cảm cho số phận, bà chợt nghĩ đến cái may của gia đình mình: Người có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ được”. Hạnh phúc đến với tuổi già quá lớn lao và đột ngột! Niềm vui xôn xao dậy lên trong lòng người mẹ già nghèo khổ. Bà vui sướng nhận nàng dâu mới. Chẳng cần phải cưới cheo. Cũng chẳng tìm đâu ra cỗ bàn để đón mừng người con dâu mới, cử chỉ bà rất dịu dàng, âu yếm. Bà gọi người đàn bà xa lạ là “con” rồi sưng “u” một cách thân tình, ruột thịt: “Ừ! Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp nhau, u cũng mừng lòng”. Bà nhìn nàng dâu mà lòng đầy thương cảm. Vượt qua mọi tục lệ, bà vui mừng vì từ nay con trai bà đã có vợ. Bà sung sướng về hạnh phúc của con. Mừng mừng tủi tủi, nước mắt chảy ra ròng ròng.

Mẫu tử tình thâm! Lòng mẹ già đối với con trai và nàng dâu thật là mênh mông. Bà hạ thấp giọng xuống thân mật, vừa khuyên con vừa an ủi: “…Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”.

Bà nhắc con trai đủ chuyện, từ việc đan tấm liếp để che chắn gian buồng, đến chuyện làm chuồng gà, chuyện làm ăn, chứa chan hi vọng.

Kim Lân rất tinh tế khi miêu tả những biến thái trong tâm hồn bà cụ Tứ. Cảnh mẹ chồng đón nàng dâu mới, đơn sơ nghèo nàn mà cảm động. Tâm trạng người mẹ già lúc thì ngạc nhiên lo lắng, lúc thì vui buồn lẫn lộn. Mặc cảm về phận nghèo, nhưng lòng bà vẫn ít nhiều hi vọng về cuộc đời của con: “Rồi may ra ông trời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng về sau”…

Bữa cơm đón nàng dâu mới sau “tối tân hôn” của Tràng là một nét vẽ rất tài tình, giàu tính nhân bản. Trên cái mẹt rách làm mâm là một đĩa muối, một lùm rau chuối thái rối và một nồi cháo cám. Mỗi người được hai bát cháo lõng bõng. Thế mà bà cụ Tứ rất vui. Trong bữa ăn bà nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này. Bà gọi nồi cháo cám “đắng chát” là “chè khoán” rối rít khen “ngon đáo để”, ít nhiều tự hào, an ủi động viên con trai và nàng dâu: “Cám đấy mày ạ! Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy!”. Sau này, vợ chồng con cái Tràng có thể có những bữa cơm no, nhiều thịt cá ngon lành, nhưng họ có bao giờ quên được mùi vị “đắng chát” của nồi cháo cám ấy. Vì trong bát cháo cám ấy đã chứa đựng biết bao tình thương của mẹ già.

Mượn ngoại cảnh, sự việc để phô diễn tâm trạng nhân vật cũng là một thành công của Kim Lân trong việc khắc hoạ tâm trạng bà cụ Tứ khi cuộc đời mới đang hé mở. Cảnh tượng mới mẻ, đổi thay trong nhà ngoài sân: hai cái ang đầy nước, đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã được hót sạch. Mấy chiếc áo quần rách bươm được đem ra phơi… Nhà cửa, sân ngõ được quét dọn sạch sẽ, quang quẻ. Bà cụ Tứ cùng con dâu giẫy cỏ… Cuộc đời của bà, của con bà, gia đình bà đã bắt đầu đổi thay. Mặc dầu còn nhiều thử thách cam go. Tiếng quạ kêu. Tiếng trống thúc thuế. Tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người thân mới chết đói. Nước mắt bà cụ Tứ lại chảy ra, nhưng bà “không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc”. Trên cái nền đen tối ấy là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đi phá kho thóc của Nhật. Trong lo âu có niềm vui phấp phỏng, thoáng hiện mơ hồ. Nạn đói chưa thể vượt qua, nhưng người mẹ già phúc hậu, từng trải là chỗ dựa cho hai vợ chồng Tràng đi tới… để khẳng định niềm tin: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời…”.

Hạnh phúc cầm tay. Con trai đã có vợ. Bà cụ Tứ lo chết đói nhưng lòng vẫn vui và hi vọng. Có một chi tiết đầy ý nghĩa. Có lẽ lần đầu tiên trong nhà người mẹ nghèo khổ đã có hai hào dầu thắp đèn, bóng tối đang bị xua tan dần. Đó là ánh sáng của hạnh phúc, ánh sáng của hi vọng.

Trong bài thơ “Ba mươi năm đời ta có Đảng”, Tố Hữu viết:

“Đời ta gương vỡ lại lành,
Cây khô cây lại đâm cành nở hoa”.

Cuộc đời mẹ con Tràng nhất định sẽ “đâm cành nở hoa”. Có biết trận đói năm Ất Dậu 1945, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói mới thấy hết lòng mẹ được miêu tả, mới cảm nhận được giá trị nhân đạo của truyện ngắn “Vợ nhặt” này. Giọt nước mắt, tiếng thở dài, nụ cười của bà cụ Tứ khi nhận nàng dâu mới làm ta cảm động khi khép trang văn “Vợ nhặt” của Kim Lân với nhiều bâng khuâng.

Phân tích bà cụ Tứ – Mẫu 3

Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân. Trong tác phẩm ta không chỉ nhớ về anh cu Tràng và chị vợ nhặt mà còn nhớ đến bà mẹ tần tần, chịu nhiều vất vả. Bà cụ Tứ là hình ảnh bà mẹ nông dân Việt Nam trước 1945. Ở nhân vật này, Kim Lân không chú ý vào hành động mà đi sâu vào khai thác tâm trạng nhân vật, qua đó khẳng định tài năng miêu tả tâm lí nhân vật của ông.

Diện mạo của bà cụ Tứ chỉ được tác giả phác họa bằng vài chi tiết “dáng đi lọng khọng, đôi mắt ghèn dử, vừa đi vừa húng hắng ho”. Nhưng chừng ấy cũng đã đủ để cho người đọc hình dung về một bà mẹ nhân dân lam lũ, vất vả đã bị cái đói cái nghèo đeo bám suốt cả cuộc đời.

Nhưng ngòi bút tập trung đi sâu miêu tả tâm lí bà cụ Tứ, đặc biệt là ở hai thời điểm: trong buổi tối cô vợ nhặt về nhà và buổi sáng hôm sau. Qua hai thời điểm đó đã cho thấy tài năng miêu tả tâm lí bậc thầy của Kim Lân.

Khi bà cụ Tứ nhìn thấy cô con dâu, bà ngạc nhiên đến mức ngỡ ngàng vì chưa bao giờ bà thấy con trai bà mong ngóng bà về đến vậy. Sự ngạc nhiên tạo nên tâm lí phấp phỏng khi bà theo anh cu Tràng vào nhà và thấy một người đàn bà lạ ngồi trong nhà. Đến lúc này sự ngạc nhiên của bà đã lên đến đỉnh điểm, bà tự hỏi: “Quái, sao lại có người đàn bà ngồi trong ý nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u”. Sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng đến mức bà không tin nổi vào mắt mình, phải dụi mắt để cho đỡ nhoèn.

Sau khi được anh con trai giải thích, tâm trạng bà ngổn ngang, rối bời. Bằng trái tim yêu thương của người mẹ, lòng bà dâng lên tình yêu thương con sâu sắc. Bởi bà hiểu người ta chỉ lấy vợ lấy chồng khi cuộc sống yên ổn, nhưng con bà lại lấy vợ vào thời điểm cái đói diễn ra ác liệt nhất. Cùng với đó bà nghĩ tủi cho phận người mẹ nghèo khi không làm tròn trách nhiệm lo lắng cho hạnh phúc của con. Tất cả những nỗi lòng ấy được dồn trong cái cúi đầu nín lặng. Sau tình yêu thương bà chuyển sang xót xa, lo lắng “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau vượt qua cơn đói khát này được không?”. Nạn đói đang hoành hành, những lo lắng của bà là hoàn toàn hợp lí. Từ lòng yêu thương, lo lắng cho con, tấm lòng nhân hậu của người mẹ còn chuyển sang người vợ nhặt. Dù Tràng không giới thiệu chi tiết, tỉ mỉ nhưng với kinh nghiệm sống của mình và hiểu đám cưới vội vã của người con dâu. Bà nhìn cô với ánh mắt đầy cảm thông, yêu thương: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có được vợ”. Như vậy bà không chỉ là hiện thân của tình mẫu tử thiêng liêng mà còn là hiện thân của tấm lòng bao dung, vị tha, sẵn sàng giúp đỡ những người có số phận bất hạnh, éo le.

Dù trong lòng ngập tràn nỗi xót xa, nhưng bà vẫn luôn nói nhưng điều vui vẻ, hạnh phúc với người con dâu mới: “ừ, thôi thì các con đã phải duyên, phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Câu nói vừa xóa đi cái ngượng ngùng cho người con dâu vừa là sự chào đón đầy ấm áp, nhân từ bà dành cho thành viên mới của gia đình. Dù miệng nói ra những điều phấn khởi, vui vẻ nhưng ám ảnh về cái đói, cái chết vẫn là quá lớn. Bởi vậy, khi chìm vào thế giới của riêng mình bà vẫn không khỏi lo lắng, xót xa, và không nén nổi thành dòng nước mắt chảy ròng ròng.

Trong buổi sáng hôm sau, Kim Lân tiếp tục đi sâu khai thác tâm lí bà cụ Tứ, đặc biệt nhấn mạnh vào niềm tin, khát vọng tương lai. Cùng với sự thay đổi của Tràng và cô vợ nhặt, bà cụ Tứ cũng có sự thay đổi rõ ràng. Tràng đã cảm nhận thấy người mẹ của mình có dáng vẻ khác hẳn mọi khi, không phải sự nhếch nhác, khổ sở mà thay vào đó là dáng điệu nhẹ nhõm, tươi tỉnh. Bà dậy sớm cùng con dâu quét dọn nhà cửa. Những hành động tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn lao, nó thể hiện sự vun đắp, chăm lo của người mẹ cho hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ.

Để tạo niềm tin và hi vọng vào tương lai cho vợ chồng Tràng, trong bữa cơm ngày đói bà lão toàn nói những chuyện sung sướng sau này. Sự tính toán của bà về việc mua lấy đôi gà để ngoảnh đi ngoảnh lại đã có đàn gà, khiến cho đôi vợ chồng có niềm tin vào tương lai. Nhưng dù dùng những câu chuyện vui, lạc quan thì bà lão vẫn không thay đổi được hiện thực là nồi cháo kia chỉ đủ cho mỗi người ăn hai lưng là hết. Và để vượt qua cái đói, bữa cơm đón cô dâu mới có thêm cả nồi cháo cám. Bưng nồi cháo cám ra, phản ứng tâm lí của bà vô cùng đáng thương, bà lật đật, lễ mễ, khuấy khuấy cùng với giọng nói đầy phấn khởi, để giấu bớt đi phần khắc nghiệt của hiện thực là bát cháo cám nghẹn ứ ở cổ. Những hành động đó của bà thật cảm động và đáng trân trọng.

Không phải ngẫu nhiên mà trong ba nhân vật, Kim Lân lại để một bà cụ gần đất xa trời nói về tương lai, những điều tốt đẹp, sau đó còn ẩn chứa thông điệp: Dù thế nào cũng phải giữ lấy niềm tin và hi vọng. Đồng thời cũng là sự ngợi ca của tác giả trước sức sống khỏe khoắn, mãnh liệt của tâm hồn Việt. Người mẹ nghèo nhưng tính cách bao dung, nhân từ đã gieo mầm sự sống, hạnh phúc lứa đôi. Có thể coi bà cụ Tứ là điểm kết tinh của tác phẩm, thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc.

Bằng nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Kim Lân đã lách sâu ngòi bút của mình để thấy được vẻ đẹp tâm hồn, tấm lòng bao dung nhân hậu của bà cụ Tứ với đôi vợ chồng trẻ. Bà cụ Tứ chính là hình ảnh đẹp đẽ nhất, đại diện tiêu biểu cho hàng triệu bà mẹ Việt Nam. Đồng thời qua nhân vật này cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Kim Lân.

Phân tích bà cụ Tứ – Mẫu 4

Có một lí do khiến người đọc “rất mệt” khi đọc các tác phẩm của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Kim Lân… bởi họ viết hay quá, cuốn quá, đời quá và “gắt” quá. Mỗi khi đọc một trang văn, ta lại như sống cùng nhân vật, cùng nhân vật đi qua những niềm vui, niềm hạnh phúc và cả nỗi đau đáu, bi ai. Đọc truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân, nhân vật bà cụ Tứ hiện lên như một điển hình về người đàn bà tuy sống trong cảnh nghèo khổ đến cùng cực nhưng có tình yêu thương con vô bờ bến.

Kim Lân Kim Lân (sinh 1 tháng 8 năm 1920 – mất 20 tháng 7 năm 2007), tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Văn Kim Lân mang đậm dấu ấn cá nhân. Kim Lân đặc biệt thành công trong việc tái hiện không khí tiêu điều, ảm đạm của nông thôn Việt Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả của người nông dân thời kỳ đó. Các tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân gồm có “Nên vợ nên chồng” (1955), “Làng” (1948), “Vợ nhặt” (in trong tập truyện ngắn “Con chó xấu xí” năm 1962)…

Truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nói về tác phẩm, Kim Lân viết: “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người.” Nhân vật bà cụ Tứ chính là điển hình cho “những con người ấy”.

Trước hết, nhân vật bà cụ Tứ hiện lên là một người phụ nữ tuy nghèo hèn, tuy lớn tuổi vẫn phải nhọc nhằn suy tính mưu sinh. Ta nhận biết được điều này thông qua một vài chi tiết rất nhỏ: “Từ ngoài rặng tre, bà lọng khọng đi vào. Tính bà vẫn thế, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng…”. Từ “lọng khọng” khiến người đọc có cảm giác như một bà lão dáng dấp nhỏ bé, không còn nhanh nhẹn, bước từng bước chậm chạp, nhọc nhằn đang bước ra từ bóng tối mịt mùng. Giữa không gian xóm ngụ cư tồi tàn, con người “tối sầm” vì đói khát, không khí “vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người chết đói” cộng hưởng với cái “lầm bầm tính toán” khiến ta rợn người. Có thể tính toán gì nữa đây trong cái cảnh “không còn gì để mất” này? Do đó, bà cụ Tứ bước tới mang theo cả “bầu trời” thê lương đến não lòng.

Tiếp theo, Kim Lân còn xây dựng lên nhân vật bà cụ Tứ giàu tình thương, đức hi sinh, luôn mong muốn có một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn. Bà cụ Tứ là người mẹ luôn biết thấu hiểu cho đưa con trai – cu Tràng, hết lòng mong cho con được hạnh phúc. Điều này thể hiện rõ qua diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ trong suốt câu chuyện. Lúc đầu, thấy anh Tràng dắt về một người đàn bà lại, cụ Tứ “đứng sững lại”, “ngạc nhiên”. Rồi càng ngạc nhiên hơn, khi người đàn bà kia “chào mình bằng u”. Sống quá nửa đời người, chỉ giây lát bà cụ Tứ như dần hiểu ra mọi chuyện, mắt bà nhoè đi. Một câu hỏi lớn xuất hiện trong đầu bà cụ Tứ: giữa nạn đói khủng khiếp này, ăn còn chẳng đủ làm sao mà nuôi nổi nhau đây? Bà hiểu cả, hiểu khao khát có một mái ấm gia đình của cu Tràng, nhưng hiện thực phũ phàng không cho Tràng có cơ hội có một đám cưới đàng hoàng như bao người. Của hồi môn là vài câu hò với mấy bát bánh đúc, cô vợ là người đàn bà “nhặt” về, thế nhưng, sau những giây phút ngập ngừng suy tính, bà cụ Tứ cũng “mừng lòng” đón nhận. Đó chẳng phải minh chứng cho khao khát hạnh phúc gia đình của bà cụ Tứ đó sao? Bà cụ Tứ không chỉ thương con, mà còn là người giàu lòng nhân ái, thương người cùng cảnh. Bà đón nhận một người đàn bà dưng về dù “không biết có nuôi nổi nhau không”.

Cuối cùng, bà cụ Tứ còn là một người luôn sống lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng. Cảnh buổi sáng hôm sau rực nắng vàng xua tan mọi âm u, chết chóc. Cả gia đình cùng nhau sửa sang ngôi nhà, rọn vườn, quét sân… Trong bữa ăn ngày đói, mâm cháo cám “đắng chát” mừng con dâu mới phơi bày hiện thực “cái đói ngay trước mắt”. Ba con người, ba mảnh đời. Một kẻ ngờ nghệch. Một người rẻ rúng được “nhặt” về. Một bà lão “gần đất xa trời”. Thế nhưng, họ say sưa nói chuyện tương lai. Bà cụ Tứ hào hứng kể những dự tính sắp tới

Như vậy, thông qua nhân vật bà cụ Tứ, Kim Lân đã nói lên khát vọng, ước mơ cao đẹp từ đó bày tỏ lòng trân trọng những phẩm chất tốt đẹp ở con người. Đó cũng chính là biểu hiện của tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Một lần nữa, Nam Cao lại thành công trong xây dựng diễn biến tâm lí nhân vật sinh động, chân thực, nói lên phong cách văn chương độc đáo của riêng mình.

Tôi chợt nhớ tới câu nói trong tác phẩm “Cố hương” của Lỗ Tấn: “Trên thế gian này làm gì có đường mòn. Người ta đi mãi thì thành đường thôi…” Cũng đi trên “con đường mòn” phê phán hiện thực, viết về thể tài người nông dân như Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan… nhưng Kim Lân lại có bước đi của riêng mình.

Phân tích bà cụ Tứ – Mẫu 5

“Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Kim Lân. Truyện đã miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đồng thời tác giả còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kỳ diệu của họ. Nổi bật trong tác phẩm là nhân vật bà cụ Tứ.

Bà cụ Tứ được Kim Lân miêu tả không nhiều, nhưng cũng đủ để người đọc có thể hình dung về nhân vật. Đầu tiên là cách gọi “bà cụ Tứ” gợi cho người đọc biết được nhiều thông tin về nhân vật. “Bà cụ” gợi về tuổi tác, giới tính của nhân vật. Còn “Tứ” là cách đọc chệch của “Tư” – một cách đặt tên quen thuộc trong xã hội Việt Nam xưa. Thông qua tên gọi này, Kim Lân còn thấy được xuất thân của nhân vật. Bà cụ Tứ là một người phụ nữ sinh ra trong một gia đình nông dân đông con, nghèo khổ. Cuộc đời của bà cũng chính là cuộc đời của biết bao người phụ nữ khác trong xã hội Việt Nam thời xưa.

Tuy là một trong những nhân vật chính của tác phẩm. Nhưng bà cụ Tứ không xuất hiện từ đầu tác phẩm, mà chỉ đến khi Tràng đưa cô vợ nhặt về nhà, Kim Lân mới để cho nhân vật xuất hiện: “Ngoài ngõ có tiếng người húng hắng ho, một bà lão từ ngoài rặng tre lọng khọng đi vào ngõ. Bà lão vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Chỉ với vài nét phác họa đơn giản, Kim Lân đã cho người đọc hình dung ra được về ngoại hình nhân vật. Đó là một bà lão đã già cả, với cái lưng đã còng xuống in hằn những gánh nặng của cuộc đời cực nhọc. Dáng đi thì lọng khọng, chậm chạp. Đôi mắt đã kèm nhèm vì dấu vết của thời gian. Bà lão vừa đi vừa ho húng hắng, miệng còn lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già. Không ai biết bà tính toán những gì, nhưng qua đó ta thấy sự lo toan của bà trong cuộc sống. Như vậy, Kim Lân đã khắc họa hình ảnh một người mẹ đã vô cùng quen thuộc mà ta có thể bắt gặp ở bất kì đâu trên đất nước Việt Nam này.

Đặc biệt nhất, phải kể đến diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ khi Tràng đưa cô vợ nhặt về “ra mắt”. Kim Lẫn đã khéo léo qua đó khắc họa được những nét phẩm chất tốt đẹp của nhân vật này. Trước sự sốt sắng của anh con trai, bà lão cảm thấy phấp phỏng nhưng vẫn bước theo con vào nhà. Rồi khi nghe có tiếng ai đó chào mình, bà cảm thấy kì lạ. Kim Lân đã sử dụng những dòng độc thoại nội tâm để khắc họa tâm trạng của nhân vật: “Quái, sao lại có một người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?” “Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia?”, “Sao lại chào mình bằng u?”. Từ sự ngạc nhiên đến ngỡ ngàng, bà cụ Tứ không tin nổi vào mắt mình. Điều ấy dẫn đến hành động: “Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải. Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lẫn nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu”. Đến khi Tràng giải thích, bà cụ Tứ mới hiểu ra tất cả. Nhưng khi hiểu ra rồi, bà lại cảm thấy xót xa, buồn tủi cho con trai phải lấy vợ trong cảnh đói khát. Tiếp tục lại là những dòng độc thoại nội tâm: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…”. Đó là sự mặc cảm của lòng người mẹ hết lòng yêu thương, lo lắng cho đứa con trai tội nghiệp. Đặc biệt nhất là chi tiết “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt…”. Chi tiết giọt nước mặt vốn đã quen thuộc trong các tác phẩm văn học. Đó có thể là giọt nước mắt giả dối trong “Hạnh phúc một tang gia” – một đoạn trích trong tác phẩm hiện thực châm biếm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng. Hay giọt nước mắt đau đớn đến xé lòng của lão Hạc – người nông dân nghèo khi ông bán đi đứa con tinh thần, người bạn thân thiết của cuộc đời mình – cậu Vàng. Còn trong Vợ nhặt, giọt nước mắt của bà cụ Tứ thể hiện nỗi niềm đau xót khi con mình có được vợ trong hoàn cảnh trớ trêu. Cũng như sự lo lắng về cuộc sống tương lai của con mình: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”. Càng thương con bao nhiêu, bà cụ Tứ lại càng tự trách bản thân bấy nhiêu vì đã không thể lo lắng cho con mình.

Nhưng không dừng lại ở đó, cái nhân văn của Kim Lân là đã xây dựng được ở bà cụ Tứ một tấm lòng bao dung cao cả. Thương con là vậy, nhưng bà cũng cảm thương cho người người nhặt: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…”. Tấm lòng của người mẹ thật vĩ đại biết bao. Không chỉ thương con trai mà còn thương cả con dâu, đồng cảm với cảnh ngộ của người vợ nhặt. Để từ đó bà cảm thấy mừng vì con trai đã yên bề gia thất: “Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau cũng mừng lòng”. Bà lão đã vui vẻ chấp nhận người con dâu mới: “Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Bà đã không ghét bỏ cô vợ nhặt, mà còn ân cần hỏi han: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ chân”. Rồi còn nhẹ nhàng giải thích để con dâu không cảm thấy tủi thân: “Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chỉ cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”. Tình yêu thương của bà cụ Tứ đã xóa đi những định kiến trong xã hội xưa cũ về mối quan hệ mẹ chồng – nàng dâu. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn lo lắng cho các con sau này: “Chúng nó có nuôi nhau sống qua được cơn đói khát này không”, “Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không”.

Đặc biệt nhất, bà cụ Tứ chính là người đã truyền cho các con niềm tin về một tương lai tương sáng. Bà lão đã nói về tương lai với niềm lạc quan: “Nhà ta nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”. Bà bảo ban các con kiên trí làm ăn. Đặc biệt là vào buổi sáng hôm sau, trong bữa ăn đầu tiên của cô vợ nhặt khi về nhà Tràng. Bà cụ Tứ toàn nói chuyện vui vẻ, chuyền tương lai: “Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có đàn gà cho xem”. Bà mong ước cuộc sống của vợ chồng Tràng sẽ tốt đẹp hơn. Ở cuối truyện, khi bà cụ Tứ bưng ra một nồi cháo cám. Trong khi Tràng thì “chum ngay lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”, còn cô vợ nhặt thì “đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại”. Thì bà cụ Tứ vẫn tươi cười vẫn tươi cười, đon đả: “Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”.

Kim Lân đã xây dựng tình huống truyện độc đáo, cùng với ngòi bút khắc họa tâm lí nhân vật thông qua những đối thoại, độc thoại nội tâm. Từ đó nhà văn đã khắc họa hình ảnh bà cụ Tứ là người mẹ nghèo hiền từ, chất phác, vị tha, nhân hậu, âm thầm hi sinh vì hạnh phúc của con.

Như vậy, Kim Lân đã thật thành công khi khắc họa hình ảnh bà cụ Tứ. Bà là nhân vật tiêu biểu cho những phẩm chất tốt đẹp của người mẹ nghèo Việt Nam.

Phân tích bà cụ Tứ – Mẫu 6

Truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân đã miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đồng thời tác giả còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kỳ diệu của họ. Nổi bật trong tác phẩm là hình ảnh bà cụ Tứ.

Bà cụ Tứ được Kim Lân khắc họa trong tác phẩm là một phụ nữ nông dân nghèo khổ. Ngay từ cái tên, người đọc đã thấy được về xuất thân của nhân vật. Sống trong xã hội Việt Nam xưa cuộc đời bà đã phải chịu nhiều đắng cay vất vả. Cả cuộc đời bà mưu sinh cực nhọc để nuôi con. Đến khi già cả vẫn không được hưởng cuộc sống sung sướng, mà lại phải chịu cảnh đói kém hoành hành. Nhân vật không xuất hiện từ đầu tác phẩm mà chỉ đến khi Tràng đưa người vợ nhặt về nhà, nhà văn mới khắc họa hình ảnh bà cụ Tứ: “Ngoài ngõ có tiếng người húng hắng ho, một bà lão từ ngoài rặng tre lọng khọng đi vào ngõ. Bà lão vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Đó là hình ảnh của một bà lão, dáng đi thì chậm chạp, đôi mắt kèm nhèm. Bà lão vừa đi vừa ho húng hắng, miệng còn lẩm nhẩm tính toán một cái gì đó.

Nhưng đặc biệt hơn cả là tình mẫu tử thiêng liêng của bà cụ Tứ. Điều đó được thể hiện qua tình huống Tràng dẫn một người phụ nữ lạ mặt về nhà. Khi nhìn thấy có người lạ mặt trong nhà, tong lòng bà cụ nổi lên biết bao nhiêu là cớ sự thắc mắc. Những câu hỏi liên tiếp vang lên trong suy nghĩ của bà: Quái, sao lại có một người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?” “Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia?”, “Sao lại chào mình bằng u?”. Rồi bà quay sang nhìn con tỏ ý không hiểu, để chờ Tràng giải thích. Đến khi bà cụ “hiểu ra bao nhiêu là cớ sự” rồi thì bà im lặng. Những dòng suy nghĩ chảy trôi, quẩn quanh liên tục bên ngoài cái sự việc con bà lấy vợ. Nhưng đứng trên vai trò là một người mẹ có tấm lòng thương con sâu sắc, bà hiểu được chuyện anh Tràng lấy vợ âu cũng là chuyện hợp tình hợp lý, bởi Tràng cũng đã đến tuổi dựng vợ. Thương con, bà lại càng xót xa: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì…”. Việc lấy vợ trọng đại cả đời, lẽ ra “làm được dăm ba mâm cơm mới phải”, nhưng “nhà mình nghèo quá” – đó phải chăng là sự mặc cảm của người mẹ khi không thể lo cho con tử tế.

Không chỉ thương con trai, bà cụ Tứ lại còn thương cả con dâu. Điều đó đã thể hiện một tấm lòng nhân văn sâu sắc. Bà đồng cảm với hoàn cảnh của cô vợ nhặt: “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…”. Bà lão đã vui vẻ chấp nhận người con dâu mới: “Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Bà đã không ghét bỏ cô vợ nhặt, mà còn ân cần hỏi han: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ chân”. Bà còn an ủi con dâu: “Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chỉ cái lúc này…”.

Nhưng hiện thực cuộc sống khiến bà không khỏi lo lắng: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khái này không?”. Nén nỗi lo trong lòng, bà cụ động viên con tin tưởng vào tương lại “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?”. Bà nói với con dâu bằng giọng của người từng trải – vừa lo lắng, vừa thương xót: “Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”, “bà nghẹn lời không nói được nữa”. Đặc biệt là chi tiết giọt nước mắt của bà cụ Tứ. Bà khóc “Nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Những giọt nước mắt ấy đã nói lên tất cả tấm lòng chân thật của một người mẹ.

Không chỉ vậy, bà cụ Tứ còn là người truyền ngọn lửa niềm tin vào tương lai đến các con. Sáng hôm sau, trong bữa cơm đầu tiên sau khi Tràng có vợ. Dẫu rằng mâm cơm ngày đói kém trông thật thảm hại với “mớ rau chuối thái mỏng và cháo loãng” thế nhưng không khí trong nhà vẫn rất vui vẻ đầm ấm. Bà cụ Tứ chỉ toàn nói đến chuyện tương lai, chuyện vui vẻ sau này. Đặc biệt người mẹ nghèo khó còn chiêu đãi con trai và con dâu bằng một nồi “chè khoán”, mà thực tế đó là là cháo cám để mừng tân hôn. Trong khi Tràng thì “chum ngay lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”, còn cô vợ nhặt thì “đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại”. Thì bà cụ Tứ vẫn tươi cười vẫn tươi cười, đon đả: “Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Tấm lòng của một người mẹ cố gắng xua đi cái không khí ảm đạm, cố gắng vượt lên hoàn cảnh bằng sự tươi tỉnh động viên các con. Bên trong cái vẻ tươi tỉnh ấy, ta biết lòng người mẹ đang thổn thức.

Tóm lại, nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm “Vợ nhặt” là một hình tượng tiêu biểu cho những bà mẹ Việt Nam xưa. Cả cuộc đời hy sinh sinh vì con cái, yêu thương con sâu sắc bằng những tình cảm thấu hiểu, bao dung và vị tha. Dù sống trong sự nghèo khó thế nhưng với sự từng trải của mình bà vẫn giành lấy được những sự lạc quan, vui vẻ trong cuộc sống, trở thành điểm sáng tinh thần cho những đứa con.

Phân tích bà cụ Tứ – Mẫu 7

“Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm đặc sắc của nhà văn Kim Lâm. Truyện đã khắc họa hình ảnh bà cụ Tứ – một người mẹ có tấm lòng nhân hậu, vị tha và là điểm sáng tinh thần cho những đứa con.

Nhân vật bà cụ Tứ không xuất hiện ngay từ đầu trong tác phẩm. Kim Lân đã cho nhân vật xuất hiện trong hoàn cảnh Tràng đưa người vợ nhặt về ra mắt mẹ, để từ đó làm nổi bật lên hình ảnh bà cụ Tứ với những phẩm chất tốt đẹp. Đầu tiên, ngoại hình của bà cụ Tứ đã được Kim Lân miêu tả bắt đầu là cái dáng: “lọng khọng đi vào ngõ vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Người đọc như bắt gặp lại dáng hình gầy gầy, còng đi vì sương gió cuộc đời của người bà quen thuộc. Hình ảnh bà cụ Tứ là đại diện mang dáng vẻ chung của những người mẹ nông dân Việt Nam:

“Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh, mái đầu bạc phơ”

(Bên kia sông Đuống, Hoàng Cầm)

Cách dùng từ của nhà văn thật tinh tế, chỉ với từ “lọng khọng” nhưng đã cho thấy cái dáng hình nhỏ bé, chậm chạm và già cả của một bà lão. Cùng với đó là thói quen tính toán chi li, cẩn thận của những bà mẹ Việt Nam. Cuộc đời của bà cụ Tứ cũng giống như biết bao người phụ nữ trong xã hội xưa.

Khi bước vào trong nhà, bà cụ Tứ nhìn thấy một người đàn bà đứng ngay ở đầu giường con mình, bà hết sức ngỡ ngàng, thắc mắc. Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già nua của bà. “Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường thằng con mình thế kia? Không phải cái Đục mà. Ai thế nhỉ? Sao lại chào mình bằng u?”. Từ sự ngạc nhiên đến ngỡ ngàng, bà cụ Tứ không tin nổi vào mắt mình. Điều ấy dẫn đến hành động: “Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải. Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lẫn nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu” để chờ đợi lời giải thích từ anh con trai. Chỉ đến khi nghe Tràng nói: “Nhà tôi nó chào u”, người mẹ ấy mới chợt hiểu ra: “bà lão cúi đầu nín lặng”, vừa “ai oán vừa xót thương cho số kiếp con mình” Để rồi nỗi tủi thân đã hóa thành nước mắt “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Bà vừa mừng, vừa lo, vừa tủi. Tấm lòng của một người mẹ thật bao dung và cũng thật cay đắng, xót xa. Nước mắt mẹ đã lặng lẽ rơi xuống trong mặc cảm thân phận, trong nỗi đau không lo nổi hạnh phúc cho con mình. Bà tủi thân vì cho rằng mình chưa làm tròn bổn phận người mẹ: “chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt…”. Bà cụ Tứ khóc vì thương con, lòng tự trách đã không làm tròn trách nhiệm của một người mẹ.

Không chỉ thương con trai, bà cụ Tứ cũng thương cả con dâu: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”. Tấm lòng bao dung khiến bà đồng cảm với hoàn cảnh của con dâu: “Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau cũng mừng lòng”. Và từ đó mà người mẹ ấy cảm thấy vui vẻ khi con trai có được vợ: “Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Sự ân cần hỏi han “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ chân”, động viên con dâu: “Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chỉ cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”. Tất cả đã cho thấy tấm lòng cao cả của một người mẹ.

Đặc biệt nhất, nhân vật bà cụ Tứ được Kim Lân xây dựng với tình cảm mẫu tử thiêng liêng. Bà đã trở thành điểm sáng tinh thần cho Tràng và người vợ nhặt. Chính bà là người động viên các con: “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?”. Trong bữa ăn ngày đói, người mẹ ấy chỉ toàn nói đến chuyện tương lai, chuyện vui vẻ. Cái ánh sáng kỳ diệu đó tỏa ra từ nồi cháo cám mà bà cụ Tứ gọi là “chè khoán”: Bà lão múc ra một bát. Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Chữ “ngon” này cần phải cảm thụ một cách đặc biệt. Đó không phải là xúc cảm về vật chất, (xúc cảm về cháo cám) mà là xúc cảm về tinh thần. Điều đó cho thấy ở người mẹ này, niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát thành ngọt ngào.

Với ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật thông qua những đối thoại, độc thoại nội tâm, Kim Lân đã khắc họa hình ảnh bà cụ Tứ là người mẹ nghèo khổ nhưng đầy tấm lòng yêu thương, bao dung. Bà chính là chỗ dựa tinh thần cho những đứa con.

Đăng bởi: THPT Nguyễn Đình Chiểu

Chuyên mục: Tài Liệu Lớp 12