Lợi thế so sánh kinh tế vĩ mô

Lợi thế tuyệt đối là lợi thế đạt được khi một quốc gia tập trung chuyên môn hóa vào sản xuất và trao đổi những sản phẩm có chi phí sản xuất thấp hơn các quốc gia khác thì tất cả các quốc gia đều có lợi. Ngược lại, nếu không gia không thu được gì hoặc bị lỗ họ sẽ từ chối trao đổi. Hay nói cách khác, khi một quốc gia sản xuất một loại hàng hóa có hiệu quả hơn quốc gia khác thì hai quốc gia này có thể thu được lợi ích bằng cách mỗi quốc gia chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu hàng hóa có lợi thế tuyệt đối . Thông qua quá trình này, các nguồn lực được sử dụng có hiệu quả à sản lượng hàng hóa cả hai quốc gia sẽ tăng lên.

Lợi thế so sánh hay là một nguyên tắc trong kinh tế học phát biểu rằng mỗi quốc gia sẽ được lợi khi nó chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu những hàng hóa mà mình có thể sản xuất với chi phí tương đối thấp (hay tương đối có hiệu quả hơn các nước khác); ngược lại, mỗi quốc gia sẽ được lợi nếu nó nhập khẩu những hàng hóa mà mình có thể sản xuất với chi phí tương đối cao (hay tương đối không hiệu quả bằng các nước khác). Nguyên tắc lợi thế so sánh cho rằng một nước có thể thu được lợi từ thương mại bất kể nó tuyệt đối có hiệu quả hơn hay tuyệt đối không hiệu quả bằng các nước khác trong việc sản xuất mọi hàng hóa. Nguyên tắc lợi thế so sánh là khái niệm trọng yếu trong nghiên cứu thương mại quốc tế. Nhà kinh tế học được giải thưởng Nobel năm 1970 Paul Samuelson đã viết: "Mặc dù có những hạn chế, lý thuyết lợi thế so sánh vẫn là một trong những chân lý sâu sắc nhất của mọi môn kinh tế học. Các quốc gia không quan tâm đến lợi thế so sánh đều phải trả một cái giá rất đắt bằng mức sống và tăng trưởng kinh tế của chính mình."

2. Sự giống nhau và khác nhau giữa lợi thế so sánh và lợi thế tuyệt đối

+ Sự giống nhau:

- Đề cao vai trò của cá nhân, doanh nghiệp, ủng hộ một nền thương mại tự do.

- Các quốc gia đều đạt được lợi ích từ việc trao đổi

- Nhận thấy được tính ưu việt của chuyên môn hóa.

+ Sự khác nhau :

Lợi thế tuyệt đối sử dụng yếu tố chi phí sản xuất trong quá trình tạo ra một sản phẩm để so sánh lợi thế giữa các quốc gia trong quá trình tham gia thương mại quốc tế. Mỗi quốc gia tập trung chuyên môn hoá vào sản xuất và trao đổi những sản phẩm có mức chi phí sản xuất thấp hơn hẳn so với các quốc gia khác. Xét theo chi phí sản xuất thì trong ví dụ dưới đây, Việt Nam sản xuất thép và quần áo đều có chi phí cao hơn Nga. Lợi thế tuyệt đối chỉ ra rằng Việt Nam không có khả năng xuất khẩu sản phẩm nào sang Nga.

Lợi thế tương đối sử dụng yếu tố chi phí cơ hội trong quá trình tạo ra một sản phẩm để so sánh lợi thế giữa các quốc gia trong quá trình tham gia thương mại quốc tế. Xét ví dụ ở trên ta thấy, để sản xuất 1 đơn vị thép ở Việt Nam cần 5 đơn vị quần áo trong khi ở Nga chỉ cần 4 đơn vị. Nhưng ngược lại chi phí sản xuất quần áo ở Việt Nam lại thấp hơn ở Nga, để sản xuất ra 1 đơn vị quần áo ở Việt Nam cần 1/5 đơn vị thép, trong khi ở Nga cần 1/ 4 đơn vị. Điều này chỉ ra rằng Việt Nam và Nga có thể trao đổi sản phẩm cho nhau. Nga xuất khẩu thép sang Việt Nam và Việt Nam xuất khẩu quần áo sang Nga.

Lý thuyết thương mại quốc tế là một hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh, phát triển từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp. Trong các lýthuyết kinh tế thì lý thuyết thương mại được coi là phát triển nhất và có tính hệ thống lô gíc với nhau. Lý thuyết sau bao giờ cũng có sự kế thừa và phát triển của lý thuyết trước và mang tính khoa học ngày càng cao, ngày càng sát với thực tiễn. Trải qua nhiều thế kỷ, thực tiễn thường xuyên biến đổi, xã hội ngày càng hiện đại văn minh; nhưng các tư tưởng của Chủ nghĩa Trọng thương, lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith, đặc biệt là lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo vẫn còn sống mãi, vẫn được những con người của xã hội hiện đại tiếp tục nghiên cứu và vận dụng vào đời sống thực tiễn của mỗi quốc gia. Vậy lợi thế so sánh là gì? Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo đã được phát triển như thế nào? Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này không thể trình bày và phân tích hết sự phát triển của lý thuyết lợi thế so sánh. Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam vận dụng lý thuyết lợi thế so sánh như thế nào?

Bài viết này sẽ góp phần làm rõ những câu hỏi nêu ra ở trên và đưa ra một số gợi ý đối với Việt Nam nhằm vận dụng lý thuyết lợi thế so sánh trong bối cảnh phát triển hiện nay.

1. Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo

Năm1817, Ricardo đã cho ra đời tác phẩm Nguyên lý của Kinh tế chính trị và thuế khoá , trong đó ông đã đề cập tới lợi thế so sánh (Comparative advantage). Khái niệm này chỉ khả năng sản xuất của một sản phẩm với chi phí thấp hơn so với sản xuất các sản phẩm khác. Lý thuyết của Ricardo được xây dựng trên một số giả thiết, nhằm làm cho vấn đề nghiên cứu trở nên đơn giản và trực tiếp hơn.

Các giả thiết của Ricardo  Mọi nước có lợi về một loại tài nguyên và tất cả các tài nguyên đã được xác định.  Các yếu tố sản xuất dịch chuyển trong phạm vi 1 quốc gia  Các yếu tố sản xuất không được dịch chuyển ra bên ngoài  Mô hình của Ricardo dựa trên họcthuyết về giá trị lao động  Công nghệ của hai quốc gia nhưnhau  Chi phí sản xuất là cố định  Sử dụng hết lao động (lao động được thuê mướn toàn bộ)  Nền kinh tế cạnh tranh hoàn hảo  Chính phủ không can thiệp vào nền kinh tế  Chi phí vận chuyển bằng không  Phân tích mô hình thương mại có hai quốc gia và hai hàng hoá

Quy luật lợi thế so sánh Quy luật lợi thế so sánh mà Ricardo rút ra là: mỗi quốc gia nên chuyên môn hoá vào sản xuất và xuất khẩu sản phẩm mà quốc gia đó có lợi thế so sánh và nhập khẩu sản phẩm mà quốc gia đó không có lợi thế so sánh.

Kế thừa và phát triển lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith, Ricardo đã nhấn mạnh: Những nước có lợi thế tuyệt đối hoàn toàn hơn hẳn các nước khác, hoặc bị kém lợi thế tuyệt đối so với các nước khác trong sản xuấtmọi sản phẩm, thì vẫn có thể và vẫn có lợi khi tham gia vào phân công lao động và thương mại quốc tế bởi vì mỗi nước có một lợi thế so sánh nhất định về sản xuất một số sản phẩm và kém lợi thế so sánh nhất định về sản xuất các sản phẩm khác. Bằng việc chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu sản phẩm mà nước đó có lợi thế so sánh, tổng sản lượng về sản phẩm trên thế giới sẽ tăng lên, kết quả là mỗi nước đều có lợi ích từ thương mại. Như vậy lợi thế so sánh là cơ sở để các nước buôn bán với nhau và là cơ sở để thực hiện phân công lao động quốc tế.

Quy luật này có thể làm sáng tỏ bằng cách xem xét trên bảng 1.

Bảng 1. Ví dụ minh hoạ lợi thế so sánh của 2 quốc gia

Sản phẩm

Quốc gia Mỹ Anh Lúa mì: Kg/người/h ( W ) 6 1 Vải: mét/người/h (C ) 4 2

Trong trường hợp này, nước Anh không có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất cả hai loại hàng hoá là lúa mỳ và vải so với Mỹ.

Tuy nhiên, vì lao động ở nước Anh có năng suất lao động trong việc sản xuất vải bằng 1/ của Mỹ và có năng suất trong việc sản xuất lúa mì bằng 1/6 của Mỹ. Do đó, nước Anh có lợi thế so sánh trong việc sản xuất vải. Ngược lại, dù nước Mỹ có lợi thế tuyệt đối trong cả hai loại hàng hoá là vải và lúa mì nhưng vì lợi thế tuyệt đối trong sản xuất lúa mì của Mỹ (6:1) lớn hơn lợi thế tuyệt đối trong sản xuất vải (4:2) nên Mỹ có lợi thế so sánh trong việc sản xuất lúa mì. Tóm lại, nước Mỹ có cả lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh trong việc sản xuất lúa mì. Nước Anh tuy không có lợi thế tuyệt đối về sản xuất sản phẩm nào, nhưng vẫn có lợi thế so sánh trong việc sản xuất vải. Theo quy luật lợi thế so sánh, cả hai quốc gia sẽ có lợi từ thương mại quốc tế nếu nước Mỹ chuyên môn hóa sản xuất lúa mì và xuất khẩu một phần để đổi lấy vải được sản xuất tại Anh (cùng lúc đó, nước Anh sẽ chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu vải).

Lợi ích từ thương mại Vừa rồi, chúng ta mới phân tích giản đơn về lợi thế so sánh và chưa chứng minh được quy luật này. Để làm được điều này, chúng ta phải xem Anh và Mỹ có lợi như thế nào từ việc sản xuất và xuất khẩu những hàng hoá chúng có lợi thế so sánh.

Để bắt đầu chứng minh, chúng ta cần hiểu rằng Mỹ sẽ bàng quan với việc tham gia thương mại quốc tế nếu nó chỉ trao đổi được 6W lấy 4C. Lý do là Mỹ có thể sản xuất chính xác 4C bằng cách không sản xuất 6W (xem bảng 1) và Mỹ sẽ không tham gia thương mại quốc tế nếu nó trao đổi 6W được ít hơn 4C. Tương tự, nước Anh sẽ bàng quan với việc tham gia thương mại quốc tế nếu nó chỉ trao đổi được 2C lấy 1W và nó sẽ không tham gia thương mại quốc tế nếu nó trao đổi 2C được ít hơn 1W.

Để cho thấycả hai quốc gia đều có lợi từ thương mại quốc tế, có thể giả sử rằng Mỹ có thể đổi 6W lấy 6C của Anh. Nước Mỹ sẽ có lợi 2C (tương đương 1/2h lao động) vì nếu không tham gia thương mại quốc tế Mỹ chỉ có thể đổi 6W lấy 4C ở trong nước. Để thấy được việc nước Anh cũng có lợi từ thương mại, chúng ta thấy rằng với 6W mà Anh nhận được từ việc trao đổi với Mỹ, Anh sẽ cần phải bỏ ra 6h lao động để sản xuất ra nó. Nước Anh sẽ dùng 6h

Cụ thể hơn, lao động không phải là yếu tố sản xuất duy nhất và nó cũng không thể được sử dụng với một tỷ lệ nhất định như nhau ở tất cả các loại hàng hoá. Ví dụ, tỷ lệ vốn trên lao động ở một số ngành (như thép) sẽ lớn hơn một số ngành khác (như dệt may). Hơn thế nữa, luôn tồn tại khả năng thay thế giữa vốn, lao động và các yếu tố sản xuất khác trong việc sản xuất hàng hoá. Ngoài ra, rõ ràng lao động không thể đồng nhất mà nó luôn khác biệt do đào tạo, do năng suất và mức lương. Cuối cùng, năng suất lao động luôn luôn khác nhau. Do đó, lý thuyết lợi thế so sánh không thể được giải thích dựa trên lý thuyết giá trị của lao động nhưng có thể được giải thích dựa trên lý thuyết về chi phí cơ hội (điều này có thể dễ chấp nhận hơn).

2. Sự phát triển lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo

Những nhà kinh tế thế hệ sau và theo trường phái Ricardo (còn gọi là Ricardian) tiếp tục nghiên cứu về lợi thế so sánh dựa trên cách tiếp cận khác hơn và mở rộng mô hình nghiên cứu so với Ricardo. Tiêu biểu như Haberler, Heckscher -Ohlin và Paul Krugman. Haberler đã vận dụng lý thuyết chi phí cơ hội để nghiên cứu giải thích lợi thế so sánh. Mô hình nghiên cứu của Ricardo với một yếu tố sản xuất đó là lao động, nhưng đối với Heckscher - Ohlin nghiên cứu lợi thế so sánh với mô hình 2 yếu tố sản xuất, đó là lao động và vốn trong điều kiện chi phí cơ hội tăng. Mô hình thương mại của Heckscher - Ohlin còn gọi là 2 x 2 x 2 (2 quốc gia, 2 sản phẩm và 2 yếu tố sản xuất). Paul R xem xét lợi thế so sánh trong trường hợp nhiều hàng hoá...

Thương mại trong thế giới có một yếu tố sản xuất - Khả năng sản xuất Mọi nền kinh tế đều có những nguồn lực hạn chế, do đó có những giới hạn về năng lực sản xuất và luôn luôn có sự bù trừ. Để sản xuất một mặt hàng nhiều hơn, nền kinh tế phải hy sinh một phần việc sản xuất một mặt hàng khác. Điều này được minh hoạ bằng đường giới hạn khả năng sản xuất. Khi chi phí cơ hội không đổi thì đường giới hạn khả năng sản xuất là một đường thẳng.

-Thương mại trong thế giới có một yếu tố sản xuất đó là lao động

Bảng 2. Yêu cầu lao động theo đơn vị

Sản phẩm Quốc gia A B Vải (X) 1h/m 2h/m Rượu vang (Y) 3h/lít 4h/lít

Tỷ lệ giá nội bộ 1r = 3v 1r = 2v Một điểm nổi bật của bảng này là quốc gia A có yêu cầu lao động theo đơn vị sảnphẩm thấp hơn và do đó có năng suất lao động cao hơn trong sản xuất hai sản phẩm.

Trước hết xác định lợi thế so sánh của từng quốc gia.

Bảng 3. Lợi thế so sánh của từng quốc gia

Chi phí cơ hội Quốc gia

A

B

Chi phí cơ hội sản phẩm X 1/3Y 1/2Y Chi phí cơ hội sản phẩm Y 3X 2X

So sánh chi phí cơ hội, cho thấy quốc gia A có lợi thế so sánh trong sản xuất sản phẩm X, quốc gia B có lợi thế so sánh trong sản xuất sản phẩm Y.

Từ kết quả ở trên có thể rút ra khái niệm: Lợi thế so sánh của một quốc gia về sản xuất một sản phẩm nếu như việc sản xuất ra sản phẩm đó có năng suất lao động tương đối cao hơn hay chi phí cơ hội thấp hơn so với quốc gia khác.

- Phân tích lợi ích của thương mại Khi chưa có thương mại, tỷ lệ giá trao đổi nội bộ: quốc gia A, 1Y = 3X (1 sản phẩm Y trao đổi được 3 sản phẩm X); quốc gia B, 1Y = 2X (1 sản phẩm Y trao đổi được 2 sản phẩm X). Ở trạng thái cân bằng trên thế giới giá tương đối của sản phẩm Yphải nằm giữa hai giá trị này. Hàng hoá trao đổi giữa hai quốc gia theo tỷ lệ thương mại: 1Y tương ứng 2,5X. Với tỷ lệ trao đổi này cả hai quốc gia đều cùng có lợi.

- Ảnh hưởng của thương mại đối với tỷ lệ lương giữa hai nước Để xác định tỷ lệ lương, trước hết lưu ý rằng mức lương của mỗi nước sẽ phải là bao nhiêu khi tính theo mặt hàng mà nước đó sản xuất. Sau khi có thương mại, quốc gia A sản xuất vải (sản phẩm X); do phải mất một giờ công lao động để sản xuất 1 mét vải, mức lương ở quốc gia A là 1 mét vải trên một giờ lao động. Tương tự, quốc gia B khi sản xuất rượu vang, sẽ cần 4 giờ lao động để có 1 lít rượu; do đó mức lương ở quốc gia B là ¼ lít rượu trên 1 giờ lao động.

Để làm cho mức lương tính theo rượu vang và vải có thể so sánh được, chúng ta phải sử dụng giá tương đối của hai hàng hoá trên. Nếu như 1 lít rượu vang có giá trị bằng 1mét vải thì mức lương của quốc gia B (Nước ngoài) chỉ bằng ¼ mức lương quốc gia A (Nội địa). Vì có mức lương thấp hơn, nước ngoài có lợi thế chi phí trong ngành sản xuất rượu vang mặc dù có năng suất lao động kém hơn. Và mặc dù có mức lương cao hơn, nội địa vẫn có lợi thế chi phí trong ngành sản xuất vải, bởi vì mức lương cao được bù lại bằng năng suất lao động cao hơn.

Hiện nay có một số phương pháp đo lường lợi thế so sánh hoặc cạnh tranh quốc gia. Trong số các phương pháp đó là tính toán lợi thế so sánh trông thấy ( Revealed Comparative Advantage – RCA). Hệ số này do nhà kinh tế học Balassa đề xuất vào năm 1965 để đo lường lợi thế so sánh theo số liệu xuất khẩu như sau:

RCAXik = Xik: Xi/ Xwk: Xw Trong đó: RCAXik = chỉ số lợi thế so sánh trông thấy trong xuất khẩu của nước i đối với sản phẩm k; Xik = kim ngạch xuất khẩu sản phẩm k của nước i; Xi = tổng kim ngạch xuất khẩu của nước i; Xwk = kim ngạch xuất khẩu sản phẩm k toàn cầu;

“Nước nào sản xuất hàng hoá gì phụ thuộc vào tỷ lệ lương giữa Nội địa và Nước ngoài. Nội địa sẽ có lợi thế chi phí ở hàng hoá nào có năng suất lao động tương đối cao hơn mức lương tương đối của nó, và Nước ngoài sẽ có lợi thế ở số hàng hoá khác. Chẳng hạn, nếu mức lương Nội địa cao gấp 5 lần Nước ngoài, thì táo và chuối sẽ được sản xuất ở Nội địa, và cam, chà là và bánh mì sẽ được sản xuất ở Nước ngoài. Nếu như mức lương Nội địa chỉ cao gấp 3 lần Nước ngoài, Nội địa chỉ sản xuất táo, chuối và cam, trong khi Nước ngoài sản xuất chà là và bánh mì.” 2

Theo quy luật lợi thế so sánh, Nội địa sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu táo, chuối và cam ra Nước ngoài và nhập khẩu chà là và bánh mì từ nước ngoài; còn Nước ngoài thì ngược lại. Bằng việc chuyên môn hoá và trao đổi như vậy sẽ đem lại lợi ích cho cả Nội địa và Nước ngoài.

Lợi thế so sánh trong trường hợp nhiều nước Trong quy mô hai nước, mô hình thương mại luôn đúng. Với hai loại hàng hoá, mô hình thương mại được quyết định bởi lợi thế so sánh dựa trên đại lượng tương đối về lao động. Trong mô hình nhiều nước, có sự xuất hiện của tiền, mô hình thương mại được quyết định bởi tiền lương và chi phí lao động tương đối. Tuy nhiên, khi ba nước được đưa ra xem xét, chuyên môn hoá trong mô hình không đúng.

Trở lại với thế giới chỉ có 2 loại hàng hoá, để nhằm đơn giản việc phân tích, chúng ta hãy kiểm nghiệm trong trường hợp trao đổi giữa 3 nước để khái quát hoá mô hình thương mại. Ví dụ sau đây chỉ ra một cơ sở rõ ràng cho việc trao đổi bởi vì giá trị trao đổi khác nhau giữa các nước.

Để làm rõ các nhận xét ở trên, hãy xem xét và phân tích ví dụ sau:

Bảng 5. Mô hình thương mại 3 quốc gia, 2 hàng hoá

Quốc gia Cá (F) Dao kéo (C) Tỷ lệ giá trước TM Thuỵ Điển 4h / 1 đv 10 h / 1đv 1C = 2,5 F

Đức 5h/ 1 đv 15 h / 1đv 1C = 3 F Pháp 5h/ 1 đv 20 h / 1đv 1C = 4 F

Mục tiêu trao đổi chỉ xảy ra giữa 2 nước có giá trị trước thương mại (giá nội bộ) chênh lệch nhất. Ở đây ta thấy lợi ích của thương mại xẩy ra giữa Thuỵ Điển và Pháp. Bởi vì tỷ lệ giá nội bộ giữa hai nước này cách xa nhau nhất. Cân bằng trong trao đổi sẽ nằm đâu đó giữa tỷ lệ 1C : 2,5F và 1C : 4F (dấu : với nghĩa là đổi).

Thuỵ Điển có lợi thế so sánh trong sản xuất dao kéo, do (10/20 < 4/5). Pháp có lợi thế so sánh trong việc sản xuất cá và mô hình thương mại giữa hai nước được quyết định như trong trường hợp mô hình thế giới chỉ có hai nước. Thế còn nước Đức thì sao? Đức có thể thực hiện thương mại hay không? Nếu có thì hàng hoá nào của Đức sẽ có lợi thế?

Giống như hàng hoá trung gian trong ví dụ có nhiều hàng hoá, vai trò thương mại của nước trung gian không có câu trả lời. Việc tham gia thương mại của Đức sẽ phụ thuộc vào

2 Như đã dẫn ra ở 2, tr.

điều kiện trao đổi quốc tế. Ba khả năng tồn tại trong khoảng (1C : 2,5F –1C : 4F). Điều kiện thực hiện trao đổi có thể là: 1C : 3F; 1C: > 3F hay 1C : < 3F.

  • Trong trường hợp đầu tiên, (1C : 3F), điều kiện thực hiện thương mại chính xác bằng với giá nội địa ở Đức. Như vậy, Đức không có lợi khi thực hiện trao đổi.
  • Trong trường hợp thứ hai 1C : > 3F (đổi 1C lấy nhiều hơn 3 F), ví dụ ta đổi 1C = 3,5F. Lúc này, Đức sẽ có lợi khi thực hiện trao đổi bởi vì tỷ lệ trao đổi quốc tế khác với tỷ lệ trao đổi trong nước. Đức sẽ có lợi khi xuất khẩu dao kéo (C) và nhập khẩu cá (F). Đức sẽ đổi được 1C lấy 3,5F trong khi trong nước 1C chỉ đổi được 3F. Mô hình trao đổi trên thế giới lúc này sẽ là Đức và Thuỵ Điển xuất khẩu dao kéo (C) và nhập khẩu cá (F) từ Pháp.
  • Trong trường hợp thứ ba 1C: < 3 F, ví dụ ta cho rằng 1C = 2,8F. Như vậy, Đức lại có thể thực hiện thương mại vì tỷ lệ trao đổi 1C = 2,8F khác với 1C = 3F tại Đức. Tuy nhiên, mô hình trao đổi lúc này không giống như ở trường hợp thứ hai. Đức sẽ xuất khẩu cá (F) và nhập khẩu dao kéo (C) và 1 dao kéo sẽ chỉ đổi được 2,8 cá (F) so với 1 dao kéo đổi được 3 cá (trong nước). Mô hình thương mại của thế giới sẽ là Pháp và Đức xuất khẩucá và nhập khẩu dao kéo từ Thuỵ Điển. Khi tỷ lệ trao đổi thương mại quốc tế được xác định, ta sẽ biết được nước nào là nước trung gian. Và thương mại sẽ xẩy ra chỉ khi tỷ lệ trao đổi trên thế giới lớn hơn hoặc nhỏ hơn tỷ lệ giá trao đổi nội địa.

3. Một số gợi ý đối với Việt Nam trong bối cảnh phát triển hiện nay

Chiến lược phát triển kinh tế theo hướng thị trường mở cửa trong điều kiện khu vực hoá và toàn cầu hoá đang mở ra trước mắt cho Việt Nam nhiều cơ hội và cũng không ít khó khăn thách thức.

Ngoài mục tiêu hợp tác để bảo vệ nền hoà bình và ổn định khu vực nói riêng và phạm vi thế giới nói chung, Việt Nam gia nhập ASEAN và các tổ chức kinh tế quốc tế còn vì những lý do khác, trong đó mục tiêu và các lợi ích kinh tế trong quá trình hợp tác là vấn đề được ưu tiên.

Muốn hợp tác hội nhập có kết quả, Việt Nam cần nhận thấy mình có những lợi thế so sánh gì và sẽ bổ sung cơ cấu trong quá trình hội nhập kinh tế với các nước ASEAN và các nước khác trên thế giới ở những lĩnh vực nào?

Từ việc nghiên cứu lý thuyết lợi thế so sánh và sự phát triển lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo cho phép chúng ta rút ra nhiều gợi ý quan trọng đối với Việt Nam trong bối cảnh mới.

Lợi thế so sánh của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế Thứ nhất, từ sự phân tích và lập luận ở trên cho thấy: lợi thế so sánh của Việt Nam là các lợi thế tĩnh hay còn gọi các lợi thế cấp thấp, nếu các lợi thế này không có khả năng tái sinh thì nó sẽ mất dần đi. Điều này thấy rất rõ ở hai lợi thế mà Việt Nam đang có là tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động dồi dào. Mặc dầu Việt Nam được coi là một đất nước phong phú về các loại khoáng sản, nhưng nếu tính theo mức đầu người thì không phải là nước giàu khoáng sản. Về lao động, Việt Nam có nguồn lao động trẻ dồi dào, tuy nhiên lực lượng này lại chưa quen với lối lao động công nghiệp, việc tiếp cận công nghệ mới còn hạn chế. Do đó chất lượng lao động không cao, thế nhưng tiền công lao động lại quá cao nếu tính theo năng suất.

Thứ hai, so với các nước ASEAN, hoạt động thương mại và đầu tư của Việt Nam vẫn ở trình độ thấp. Theo số liệu thống kê năm 2007 của WTO, trong 50 nền kinh tế của thế giới

kinh tế thứ 16 (Đài Loan) đến nước thứ 40 (Chilê) - những nền kinh tế có lợi thế so sánh trung bình. Nhóm thứ ba từ nền kinh tế thứ 41 (Nigêria) đến thứ 50 (Việt Nam), (xem phụ lục 1).

Năm 2007, Việt Nam với kim ngạch đạt được 48,4 tỷ USD chiếm 0,3% so với thế giới, được xếp hạng trong tốp 50 quốc gia và vùng lãnh thổ của thế giới đứng đầu về xuất khẩu. Ở một khía cạnh nào đấy, nó phản ánh vị thế xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường thế giới. Qua số liệu của WTO có thể dễ dàng nhận thấy tính logic và sự hợp lý về lợi thế so sánh của Việt Nam với kim ngạch đạt được (lợi thế so sánh cấp thấp nên kim ngạch đạt được cũng thấp). Các nước có lợi thế so sánh cấp cao kim ngạch xuất khẩu đạt được rất lớn, tiêu biểu là nhóm nước G7 và một số nước lớn khác. Trong số các nước ở nhóm thứ nhất, ngoài Đức đứng vị trí số 1, đặc biệt là Trung Quốc đứng vị trí thứ 2, Hoa Kỳ thứ 3, Nhật Bản thứ 4 và Pháp là thứ 5. Qua mô hình thương mại nhiều nước, có thể nhận diện Việt Nam sẽ đẩy mạnh buôn bán với các bạn hàng thương mại ở nhóm thứ nhất, vì khoảng cách về trình độ phát triển, quy mô thương mại và cấp độ lợi thế so sánh là chênh lệch lớn nhất. Một nước đang phát triển như Việt Nam cần đẩy mạnh hợp tác buôn bán với nhiều nước đặc biệt là các nước lớn là phát huy lợi thế so sánh của Việt Nam trong phân công lao động quốc tế. Trên thực tế những năm vừa qua, các nước lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và một số nước khác trong nhóm thứ nhất luôn là bạn hàng thương mại hàng đầu của Việt Nam. Theo các số liệu thống kê, năm 2007, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ đạt 10,2 tỷ USD chiếm 21,07% tổng kim ngạch xuất khẩu; riêng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 4,4, tỷ USD, chiếm 43,14% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản đạt 6,069 tỷ USD, chiếm 12,53% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và Nhật Bản tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam sau Hoa Kỳ. Hàng xuất khẩu của Việt Nam ngày càng được chấp nhận tại thị trường Nhật Bản, tuy thị phần còn rất khiêm tốn, hiện mới đạt xấp xỉ 1% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản. Trong khi đó, thị phần của Thái Lan 2,94%, Malaisia 2,8%. Việt Nam cũng đã buôn bán với nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ nhằm phát huy lợi thế so sánh và bổ sung cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên ở đây cũng cần phải nhấn mạnh thêm là: theo Ricardo có thương mại là do có lợi thế so sánh; nhưng nguồn gốc phát sinh ra lợi thế so sánh thì phải đợi đến Heckscher– Ohlin mới giải thích được, đó là sự khác nhau giữa các yếu tố thừa tương đối hay là nguồn lực sản xuất vốn có của mỗi quốc gia. Kết quả đạt được về kim ngạch xuất khẩu của mỗi quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng cái cơ sở của vấn đề là một quốc gia có lợi thế so sánh về sản xuất sản phẩm nào. Bởi vì động lực của thương mại là lợi thế so sánh, chứ không phải là lợi thế tuyệt đối.

Cùng với quá trình phát triển và chuyển đổi lợi thế so sánh, Việt Nam sẽ chuyển từ nhóm nước thứ ba sang nhóm nước thứ hai (nhóm trung gian), trình độ phát triển cao hơn và quy mô thương mại cũng lớn hơn.

4. Kết luận

Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo là lý thuyết cơ sở cơ bản của thương mại quốc tế. Tuy vẫn còn một số hạn chế, nhưng lý thuyết lợi thế so sánh có một ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn đối với mọi quốc gia. Những nhà kinh tế đi sau và theo Ricardo đã bổ sung và hoàn thiện lý thuyết lợi thế so sánh sát với thực tiễn, làm phong phú lý thuyết lợi thế so sánh.

Việc nghiên cứu và vận dụng lý thuyết lợi thế so sánh vào tình hình cụ thể của Việt Nam là việc làm cần thiết, góp phần nhận diện lợi thế so sánh của Việt Nam; trên cơ sở đó có những

định hướng và giải pháp thích hợp nhằm phát huy và phát triển lợi thế so sánh của Việt Nam trong phân công lao động quốc tế góp phần đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại trong bối cảnh mới.

Tài liệu tham khảo

  1. Paul R- Maurice Obstfeld: Kinh tế học quốc tế- lý thuyết và chính sách; tập I (Những vấn đềvề thương mại quốc tế); NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội – 1996.
  2. Appleyard & Field: Trade Theory & Policy - International Economics, IRWIN 1995.
  3. Ngân hàng Thế giới: Sổ tay về: Phát triển, Thương mại và WTO; NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội – 2004.
  4. Dominick Salvator: “International Economics”, Macmillan Publishing Company, New York 2001- Seventh Edition. Part one: International Trade Theory.
  5. Bộ Thương mại: Tài liệu bồi dưỡng về các cam kết gia nhập Tổ chức thương mại thế giới của Việt Nam, Hà Nội, năm 2007.
  6. Davit Ricardo (1817), “Principles of Political Economy and Taxation”, Irwin 1963
  7. Lê Quốc Phương, “Sự chuyển dịch cơ cấu lợi thế so sánh của Việt Nam: phân tích, nhận định và quyến nghị”, Tạp chí quản lý kinh tế, số 23/11+12/2008, CIEM
  8. Võ Thanh Thu, “Quan hệ kinh tế quốc tế”, Nhà xuất bản thống kê, 2008

Nguyễn Xuân Thiên, “Hợp tác kinh tế Việt Nam – ASEAN: Nhìn từ lợi thế so sánh và bổ sung cơ cấu”, Tạp chí thông tin lý luận, số 3/1998, Học viện chính trị quốc gia HCM