Ngân hàng có tài sản lớn nhất Việt Nam
Năm 2020 đang đến gần, đây được xem là mốc thời gian có ý nghĩa lớn với hệ thống ngân hàng. Với nhiều nhà băng, đây là năm cuối cùng kết thúc giai đoạn tái cơ cấu xử lý nợ xấu được đề ra từ cách đây 5 năm. Năm 2020 cũng là hạn cuối cùng để 10 ngân hàng thuộc diện thí điểm phải đáp ứng được tiêu chuẩn Basel II tại Thông tư 41/2016-TT-NHNN. 2020 cũng là thời điểm để các ngân hàng bước vào cuộc đua mới, với những mục tiêu xa hơn như niêm yết tại thị trường quốc tế. Nhìn lại suốt gần 1 thập kỷ qua, từ giai đoạn hoạt động ngân hàng phát triển mạnh mẽ, lao dốc vì nợ xấu cho đến quá trình bắt tay tái cơ cấu; vị thế của các ngân hàng trong hệ thống đã có nhiều sự thay đổi lớn. Khi xét đến quy mô, theo thống kê của NHNN, tổng tài sản của hệ thống TCTD cuối tháng 4/2019 đã lên tới 11,21 triệu tỷ đồng. Con số này so với cách đây 10 năm ước tính đã tăng hơn 4 lần. Còn theo thống kê của chúng tôi đến thời điểm 30/6/2019, tổng tài sản của 29 ngân hàng thương mại (chưa kể 3 ngân hàng “0 đồng” và DongABank, PVcombank, BaoVietBank) đạt hơn 9,6 triệu tỷ đồng. 11 ngân hàng có tổng tài sản trên 10 tỷ USD Trong đó, 4 ngân hàng thương mại nhà nước (BIDV, Agribank, Vietcombank, VietinBank) đều đã vượt 1 triệu tỷ. Riêng BIDV, Agribank đã cán mốc này từ năm 2016; VietinBank năm 2017 và Vietcombank là vừa mới năm 2018. Tổng tài sản của 4 ngân hàng này đạt trên 5 triệu tỷ đồng, tăng gần 4 lần trong vòng 10 năm và chiếm đến gần 45% tổng tài sản của cả hệ thống TCTD. So với cách đây chục năm, sự ảnh hưởng của 4 nhà băng này tới quy mô tín dụng, quy mô tiền gửi của nền kinh tế vẫn ở một vị thế mà các ngân hàng tư nhân khó có thể thay thế được. Ngoài 4 ngân hàng nói trên, có 7 ngân hàng khác cũng đã có tài sản đạt trên 10 tỷ USD (tương đương trên 232.000 tỷ đồng), lần lượt là SCB, Sacombank, MBBank, Techcombank, ACB, SHB và VPBank. Trong đó, SCB tuy là ngân hàng tư nhân có tổng tài sản lớn nhất, đạt trên 530 nghìn tỷ đồng nhưng cũng mới chỉ bằng khoảng một nửa so với 4 “ông lớn”. Theo sau, Sacombank và MBBank lần lượt có tổng tài sản là hơn 402 nghìn tỷ và 439 nghìn tỷ. 4 ngân hàng còn lại đều có tổng tài sản trên 300 nghìn tỷ. HDBank đang có tổng tài sản hơn 210.000 nghìn tỷ đồng. Nếu duy trì đà phát triển như hiện nay, ngân hàng này cũng sẽ sớm gia nhập vào “câu lạc bộ” tài sản 10 tỷ USD trong hệ thống trong thời gian tới. Đơn vị: tỷ đồng, (*) Agribank: tháng 7/2019 Cả hệ thống có 35 ngân hàng thương mại, nhưng sự phân hóa quy mô là rất lớn. Ở thời điểm hiện tại, vẫn còn khoảng gần 15 ngân hàng có tổng tài sản dưới 100.000 tỷ đồng. Những ngân hàng như Saigonbank, PGBank chỉ vỏn vẹn hơn 21.000 tỷ và 28.000 tỷ, tức chỉ bằng 1/65 lần so với ngân hàng lớn nhất. Top 10 đã có sự thay đổi ngoạn mục như thế nào? Trong vòng gần 10 năm qua, bảng xếp hạng tổng tài sản của các ngân hàng đã có sự thay đổi đáng kể. Có những cái tên đã biến mất sau giai đoạn M&A nở rộ và có những ngân hàng bất ngờ vụt lên thứ hạng cao sau sáp nhập. Xét riêng trong top 10 ngân hàng có tổng tài sản lớn nhất cũng đã cho thấy điều này. Vào thời điểm đầu năm 2010, 10 nhà băng lớn nhất lúc đó lần lượt là Agribank, BIDV, Vietcombank, VietinBank, ACB, Sacombank, Techcombank, MBBank, Eximbank và SCB. Cuối năm 2009, tổng tài sản của Agribank lúc đó là hơn 480 nghìn tỷ đồng, bỏ khá xa BIDV với chỉ gần 300 nghìn tỷ. Tuy nhiên, đến cuối năm 2018, BIDV đã chính thức vượt Agribank khi cán mốc 1,3 triệu tỷ đồng. Số liệu: BCTC Hợp nhất các ngân hàng cuối năm 2009, đơn vị: tỷ đồng SCB từ vị trí chót bảng đã nhảy vọt lên làm ngân hàng tư nhân có tổng tài sản lớn nhất (thay thế cho ACB). Sở dĩ có bước chuyển mình đột ngột này là do năm 2011, NHNN cho phép hợp nhất tự nguyện 3 ngân hàng SCB, Ficombank, TinNghiaBank. VPBank từ một ngân hàng chỉ với tổng tài sản hơn 27.000 tỷ đồng vào năm 2010 đã nhanh chóng tăng trưởng vượt bậc để leo lên Top 10. Eximbank từ vị trí thứ 9 lại tụt dốc xuống thứ 14. Trong top 10 ngân hàng, VPBank cũng là nhà băng có tăng trưởng quy mô nhanh nhất trong 10 năm qua (tổng tài sản tăng hơn 12,5 lần). Trong khi đó có những ngân hàng như Agribank, ACB tăng trưởng chậm hơn nhiều, chỉ tăng lần lượt 2,7 và 2,1 lần trong 1 thập kỷ. Mỗi ngân hàng đều có câu chuyện riêng trong quá trình phát triển suốt 10 năm qua, và sự xáo trộn vị thế của các nhà băng là điều đương nhiên. Sự xáo trộn này trong thời gian tới có lẽ sẽ còn tiếp diễn, bởi ở thời điểm hiện tại, lợi thế cũng như khó khăn của riêng ngân hàng đã có sự khác biệt. Nhiều ngân hàng lớn sẽ buộc phải tăng trưởng chậm lại do vướng mắc về nợ xấu, hạn chế vốn. Trong khi những ngân hàng tư nhân có tiềm lực vốn điều lệ mạnh, hướng đi mới và khác biệt sẽ ngày càng bứt phá. Nguồn: Trí thức trẻ/CafeF.vn
Theo thống kê từ 27 ngân hàng đã công bố báo cáo tài chính quý IV/2021 (Agribank là kết quả sơ bộ), tổng tài sản của các nhà băng tính đến thời điểm 31/12/2021 đã đạt gần 12,5 triệu tỷ đồng, tăng 15% so với cuối năm trước. Trong đó, xu hướng tăng chiếm chủ đạo với 26 ngân hàng có tổng tài sản tăng và duy nhất một ngân hàng ghi nhận giảm. Sự thay đổi lớn nhất có thể thấy đó là BIDV đã vượt qua Agribank, trở thành nhà băng có quy môt tài sản lớn nhất toàn hệ thống với hơn 1,76 triệu tỷ đồng, tăng 16,2%. Trong khi đó, tăng trưởng tổng tài sản của Agribank năm qua chỉ chưa bằng một nửa (+7,1%), đạt 1.68 triệu tỷ đồng. Vị trí thứ 3 và thứ 4 vẫn lần lượt là hai "ông lớn" VietinBank và Vietcombank với quy mô tổng tài sản là hơn 1,53 triệu tỷ đồng (tăng 14,2%) và hơn 1,41 triệu tỷ đồng (tăng 6,7%). Ngoài nhóm big4 kể trên, TOP 10 ngân hàng có tổng tài sản lớn nhất tính đến cuối năm 2021 còn có nhóm ngân hàng cổ phần tư nhân bao gồm MB, Techcombank, VPBank, ACB, Sacombank và SHB. Riêng khối tài sản của 10 ngân hàng trên đã lên tới gần 9,67 triệu tỷ đồng, chiếm hơn 77% tổng tài sản của 27 nhà băng được thống kế. Ở chiều ngược lại, 5 nhà băng có quy mô tài sản bé nhất hệ thống gồm có Kienlongbank, Ngân hàng Bản Việt, Ngân hàng Quốc dân, PG Bank và Saigonbank. Tổng tài sản của 5 ngân hàng này đều chưa chạm tới con số 100.000 tỷ đồng. Xét về tốc độ tăng trưởng, Kienlongbank là ngân hàng ghi nhận mức tăng tài sản lớn nhất tới 46,3% chủ yếu nhờ khoản mục tiền, vàng gửi và cho vay tại các TCTD khác tăng mạnh hơn 150% trong năm qua; khoản mục chứng khoán đầu tư cũng ghi nhận cao gấp đôi so với hồi đầu năm. Xếp thứ hai về tốc độ tăng trưởng là TPBank với mức tăng ấn tượng lên tới 41,9% so với đầu năm, nhờ dư nợ cho vay khách hàng tăng gần 18%, các khoản mục tiền gửi tại các TCTD khác và tại NHNN cũng tăng mạnh. Những cái tên nổi trội khác trong cuộc đua về tổng tài sản không thể không nhắc đến Techcombank, VPBank hay VIB. Trong năm qua, Ngân hàng Quốc dân (NCB) là cái tên duy nhất có quy mô tổng tài sản tăng trưởng âm (-17,7%). Khoản mục tiền, vàng gửi các TCTD khác và cho vay các TCTD của ngân hàng này tính đến 31/12/2021 chỉ bằng 1/4 trước đó một năm, với 3.201 tỷ đồng (giảm hơn 8.900 tỷ đồng). Tuy vậy, cho vay khách hàng của NCB vẫn ghi nhận tăng trưởng 3,2% đạt 41.615 tỷ đồng. Tổng tài sản của của các ngân hàng tính đến cuối năm 2021 và 2020 (Nguồn: Tổng hợp từ BCTC) Linh Đan (TH) Theo Tạp chí Kinh tế Chứng khoán Việt Nam BIDV ngân hàng có tổng tài sản lớn nhất Việt Nam
0:00/ 0:00 Giọng nữ
(ĐCSVMN) - Tổng tài sản BIDV tăng trưởng ổn định qua các năm, đến 31/12/2021 đạt 1.761.696 tỷ đồng, gấp 1,75 lần so với thời điểm 31/12/2016, tăng trưởng bình quân 11,85%/năm giai đoạn 2017-2021, là NHTMCP có tổng tài sản lớn nhất Việt Nam.
Ngày 29/4, tại Hà Nội, Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) tổ chức Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) thường niên năm 2022 với sự tham dự của 146 đại biểu, chiếm hơn 96,7% số cổ phần có quyền biểu quyết. Đại hội thông qua nhiều nội dung quan trọng như: Báo cáo tổng kết hoạt động của HĐQT giai đoạn 2017-2021, định hướng 2022-2027, trọng tâm 2022; Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2021, kế hoạch 2022; Báo cáo kết quả hoạt động của Ban Kiểm soát năm 2021, trọng tâm 2022; Bầu thành viên HĐQT và Ban Kiểm soát BIDV nhiệm kỳ 2022-2027… Đại hội thống nhất báo cáo nhiệm kỳ 2017-2022 củaHĐQT BIDV. Trong nhiệm kỳ, HĐQT BIDV đã chỉ đạo toàn hệ thống hoàn thành toàn diện, đồng bộ các mục tiêu kế hoạch kinh doanh hàng năm do ĐHĐCĐ giao và thực hiện thành công phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020. Theo báo cáo của BIDV, tổng tài sản BIDV tăng trưởng ổn định qua các năm, đến 31/12/2021 đạt 1.761.696 tỷ đồng, gấp 1,75 lần so với thời điểm 31/12/2016, tăng trưởng bình quân 11,85%/năm giai đoạn 2017-2021, là NHTMCP có tổng tài sản lớn nhất Việt Nam. Huy động vốn đáp ứng đầy đủ nhu cầu sử dụng vốn, đảm bảo an toàn thanh khoản hệ thống. Đến 31/12/2021, tổng nguồn vốn huy động đạt 1.641.777 tỷ đồng, gấp 1,75 lần so với thời điểm 31/12/2016; trong đó huy động vốn tổ chức, dân cư đạt 1.509.483 tỷ đồng, gấp 1,89 lần, tăng trưởng bình quân 13,61%/năm giai đoạn 2017-2021, chiếm bình quân trên 11% thị phần tiền gửi toàn ngành. Dư nợ tín dụng tăng trưởng khá, tuân thủ giới hạn tín dụng NHNN giao, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, chỉ đạo của NHNN và định hướng của BIDV. Đến 31/12/2021, tổng dư nợ tín dụng và đầu tư đạt 1.677.310 tỷ đồng, gấp 1,76 lần so với 31/12/2016. Trong đó dư nợ tín dụng tổ chức kinh tế và dân cư đạt 1.368.029 tỷ đồng, gấp 1,82 lần, tăng trưởng bình quân 12,73%/năm trong 5 năm, chiếm trên 13% thị phần tín dụng toàn ngành, đứng đầu thị trường về thị phần tín dụng. Chất lượng tín dụng được kiểm soát chặt chẽ: Tỷ lệ nợ xấu thời điểm 31/12/2021 ở mức 0,82%, kiểm soát theo đúng mục tiêu NHNN và ĐHĐCĐ giao hàng năm; trích lập dự phòng rủi ro hàng năm theo quy định, trong đó năm 2021, trích đủ 100% DPRR cho dư nợ cơ cấu theo các Thông tư 01/03/14 của NHNN, sớm hơn 2 năm so với yêu cầu của NHNN; Tỷ lệ bao phủ nợ xấu riêng khối NHTM thời điểm 31/12/2021 đạt 235%. Chênh lệch thu chi hợp nhất giai đoạn 2017-2021 tăng trưởng bình quân 20,5%/năm, năm 2021 cán mốc 43.029 tỷ đồng, gấp 2,54 lần so với năm 2016. Lợi nhuận trước thuế hợp nhất tăng trưởng bình quân 11,9%/năm, năm 2021 đạt 13.548 tỷ đồng, tăng 50,1% so với năm 2020 và gấp 1,76 lần so với năm 2016; Tuân thủ đầy đủ, đúng hạn nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước, giai đoạn 2017-2021 nộp hơn 28 nghìn tỷ đồng (năm 2021 là 5.169 tỷ đồng). Vốn Nhà nước tại BIDV được bảo toàn và phát triển, đến 31/12/2021, đạt 69.918 tỷ đồng, tăng 66,4% so với 31/12/2016. Từ năm 2017-2021, BIDV chi trả cổ tức bằng tiền mặt cho các cổ đông với tổng giá trị hơn 11.200 tỷ đồng; giá trị vốn hóa thị trường của BIDV năm 2021 đạt 187,2 nghìn tỷ đồng (8,14 tỷ USD), đứng thứ 6 trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Trong giai đoạn 2017-2021, HĐQT chỉ đạo sát sao triển khai các biện pháp tăng vốn với những kết quả quan trọng: Năm 2019, phát hành thành công cổ phần cho đối tác chiến lược Hana Bank, nâng vốn điều lệ BIDV từ 34.187 tỷ đồng lên 40.220 tỷ đồng; năm 2021, tăng vốn thông qua chi trả cổ tức bằng cổ phiếu đưa vốn điều lệ BIDV lên 50.585 tỷ đồng. Đại hội đã thống nhất cao bầu ra HĐQT BIDV nhiệm kỳ 2022-2027 gồm 10 thành viên, gồm các ông, bà: Phan Đức Tú, Lê Ngọc Lâm, Nguyễn Thị Thu Hương, Trần Xuân Hoàng, Phan Thị Chinh, Ngô Văn Dũng, Phạm Quang Tùng, Lê Kim Hòa, Yoo Je Bong (đại diện Hana Bank), Nguyễn Văn Thạnh (thành viên HĐQT độc lập). Đại hội cũng đã thống nhất cao bầu ra Ban Kiểm soát gồm 03 thành viên: bà Võ Bích Hà, ông Cao Cự Trí, bà Nguyễn Thị Thu Hà. Tại phiên họp HĐQT BIDV nhiệm kỳ 2022 - 2027 lần thứ nhất, HĐQT đã thống nhất bầu ông Phan Đức Tú giữ chức vụ Chủ tịch HĐQT BIDV nhiệm kỳ 2022-2027 và quyết định bổ nhiệm ông Lê Ngọc Lâm - Thành viên HĐQT BIDV nhiệm kỳ 2022-2027 tiếp tục giữ chức vụ Tổng Giám đốc BIDV. Tại phiên họp Ban Kiểm soát nhiệm kỳ 2022-2027 lần thứ nhất, Ban Kiểm soát đã thống nhất bầu bà Võ Bích Hà giữ chức vụ Trưởng Ban Kiểm soát BIDV nhiệm kỳ 2022-2027.
Minh Phương
|