Nghị quyết hướng dẫn về thời hiệu khởi kiện
Tổng hợp 08 bản án về hết thời hiệu khởi kiện Show
Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án. Vậy đối với những tranh chấp đã hết thời hiệu khởi kiện, Tòa sẽ giải quyết như thế nào và với những lập luận ra sao? 1. Bản án296/2018/HC-PT ngày 15/08/2018 vềkhiếu kiện quyết định hành chínhquản lý đất đai trong trường hợp yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. - Cấp xét xử: Phúc thẩm - Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh - Trích dẫn nội dung: “Tuy không bị trở ngại vì sự kiện bất khả kháng nào nhưng mãi đến ngày16/01/2017 bà Nguyễn Thị L1 mới khởi kiện vụ án hành chính yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn H đứng tên là đã hết thời hiệu khởi kiện theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính.” - Kết quả giải quyết: Hủy Bản án hành chính sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh L và đình chỉ giải quyết vụ án. 2. Bản án366/2019/DS-PTngày 22/11/2019 về tranh chấp quyền sử dụng đất. - Cấp xét xử: Phúc thẩm - Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội - Trích dẫn nội dung: “Cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp QSDĐ” theo quy định tại khoản 9 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự và không chấp việc bị đơn cho rằng nguyên đơn khởi kiện đã hết thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 185 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 155 Bộ luật dân sự là có căn cứ pháp luật.” - Kết quả giải quyết: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn. Giữ nguyên bản án bản án dân sự sơ thẩm số 13/2019/DS-ST ngày 26/07/2019 của Toà án nhân dân huyện TT, Thành phố Hà Nội. 3. Bản án345/2018/LĐ-PTngày 02/04/2018 về tranh chấp tiền lương, bảo hiểm xã hội. - Cấp xét xử: Phúc thẩm - Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh - Trích dẫn nội dung: “Kể từ thời điểm năm 2006 và từ ngày Tổng Công ty có Công văn trả lời số 1003/TCT5-TCCB ngày 12/11/2012, ông H đã biết được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm, không được Tổng Công ty chấp nhận giải quyết nhưng ông không khởi kiện. Đến ngày 01/6/2015, ông H mới nộp đơn khởi kiện tại Tòa án là đã hết thời hiệu khởi kiện. Đề nghị không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.” - Kết quả giải quyết: Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của nguyên đơn. Giữ nguyên Bản án lao động sơ thẩm số 80/2017/LĐ-ST ngày 14/12/2017 của Tòa án nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. 4. Bản án15/2017/DS-STngày 31/08/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản. - Cấp xét xử: Sơ thẩm - Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên - Trích dẫn nội dung: “ Khoản tiền lãi còn lại tính từ sau ngày 24/4/2012 đến này 19/10/2016 là 1.454.400 đồng nguyên đơnkhông chứng minh được đã thông báo nhưng bị đơn không trả nợ, đến nay đã hết thời hiệu khởi kiện nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.” - Kết quả giải quyết: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền 2.284.600đ. Bác một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với số tiền lãi 1.454.400. 5. Bản án16/2019/DS-STngày 05/07/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng. - Cấp xét xử: Sơ thẩm - Cơ quan xét xử: Toà án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội - Trích dẫn nội dung: “ Theo Điều 159Bộ luật tố tụng Dân sự 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011, Điều 23 Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTPngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao đối với yêu cầu thanh toán khoản tiền lãi thì Tòa án không giải quyết vì đã hết thời hiệu khởi kiện nên đình chỉ trả lại đơn khởi kiện cho A đối với yêu cầu thanh toán tiền lãi. - Kết quả giải quyết:Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn. Buộc bị đơn phải trả cho Ngân hàng A số tiền 10.208.000 đồng. 6. Bản án52/2019/DS-PTngày 02/04/2019 về tranh chấp bồi thường thiệt hại tài sản. - Cấp xét xử: Phúc thẩm - Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp - Trích dẫn nội dung: “Theo quy định tại Điều 588 Bộ luật dân sự năm 2015, thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Như vậy, trong trường hợp ông C có lấn chiếm phần đất của bà X thì bà X có quyền khởi kiện yêu cầu ông C bồi thường thiệt hại từ năm 2015 đến năm 2017, còn khoảng thời gian từ năm 2007 đến 2014 đã hết thời hiệu khởi kiện.” - Kết quả giải quyết: Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn. 7. Bản án132/2018/DS-PTngày 15/10/2018về tranh chấp tiền lãi theo hợp đồng vay và mua bán tài sản. - Cấp xét xử: Phúc thẩm - Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk - Trích dẫn nội dung: “Đến kỳ hạn trả nợ bị đơn không trả nợ cho nguyên đơn nhưng đến ngày 05/7/2016 nguyên đơn mới yêu cầu cấp có thẩm quyền giải quyết thì đã quá thời hiệu khởi kiện (thời hiệu khởi kiện theo Điều 427BLDS năm 2005 là 2 năm; thời hiệu khởi kiện theo Điều 429 BLDS năm 2015 là 3 năm). Nên, căn cứ vào điểm b khoản 3 Điều 23Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTPngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao quy định “...Đối với yêu cầu thanh toán khoản tiền lãi thì Tòa án không giải quyết vì đã hết thời hiệu khởi kiện.”” - Kết quả giải quyết: Không chấp nhận đơn kháng cáo của nguyên đơn. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 11/2018/DSST ngày 27/4/2018 của Toà án nhân dân huyện M’Đrăk, tỉnh Đắk Lắk. 8. Bản án286/2017/HC-PTngày 12/10/2017 về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực giáo dục và bồi thường thiệt hại. - Cấp xét xử: Phúc thẩm - Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh - Trích dẫn nội dung: “Tính từ ngày 28/5/2015 nhận được quyết định hành chính đến ngày 22/11/2016 khởi kiện vụ án hành chính, là quá 1 năm, hết thời hiệu khởi kiện theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính.” - Kết quả giải quyết: Bác kháng cáo của người khởi kiện. Như Ý 5057 Từ khóa: tổng hợp | bản án | thời hiệu khởi kiện | Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về Những lưu ý khi áp dụng thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu của Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015 và Bộ luật dân sự năm 2015Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Bộ luật dân sự năm 2015 có một số quy định về thời hiệu khởi kiện khác với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 65/2011/QH12 và của Bộ luật dân sự năm 2005; đó là: -Quy định tại khoản 2 Điều 184 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Các tin khác
Tiếp tục trao đổi bài viết: “Xác định thời hiệu khởi kiện và nghĩa vụ thanh toán nợ lãi đối với tranh chấp đòi lại tài sản”, tác giả có ý kiến khác với các quan điểm đã trao đổi trước đây.Qua nghiên cứu bài viết: “Xác định thời hiệu khởi kiện và nghĩa vụ thanh toán nợ lãi đối với tranh chấp đòi lại tài sản” của tác giả Trần Thị Thu Hiền, VKSND thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, đăng trên Kiemsat.vn ngày 13/6/2018. Tôi có ý kiến khác với tác giả bài viết. 1. Tác giả bài viết cho rằng cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của A, buộc B phải thanh toán tiền nợ gốc (do thời hiệu khởi kiện của hợp đồng đòi lại tài sản là không xác định theo quy định của BLTTDS năm 2011 và Nghị quyết số 03 ngày 03.12.2012 của HĐTP TAND Tối cao) và nghĩa vụ thanh toán lãi chậm trả (theo quy định tại khoản 4 Điều 474 BLDS năm 2005). Thời điểm các bên xác lập hợp đồng vay tài sản là ngày 05/01/2009, nhưng đến ngày 03/8/2017 mới yêu cầu Tòa án giải quyết nên theo quy định tại điểm c, d khoản 1 Điều 688 BLDS năm 2015, khoản 4 Điều 4 Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30/6/2016 (có hiệu lực từ ngày 01/8/2016) của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành BLTTDS thì: “Từ ngày 01/01/2017, Tòa án áp dụng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13, Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 và luật khác có liên quan về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu để thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động”. Do đó, Tòa án có thẩm quyền phải áp dụng các quy định của BLDS năm 2005 để giải quyết nhưng việc xác định thời hiệu (trong đó có thời hiệu khởi kiện) phải áp dụng các quy định của BLDS năm 2015 và BLTTDS năm 2015 để giải quyết.
Khoản 1 Điều 184 BLTTDS năm 2015 quy định: “1. Thời hiệu khởi kiện... được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự”. Điều 185 BLTTDS năm 2015 quy định: “Các quy định của Bộ luật dân sự về thời hiệu được áp dụng trong tố tụng dân sự”. Điều 429 BLDS năm 2015 quy định: “Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm”. Mặt khác, Điều 155 BLDS năm 2015 quy định các yêu cầu, tranh chấp không áp dụng thời hiệu khởi kiện chỉ bao gồm yêu cầu bảo vệ nhân thân, bảo vệ quyền sở hữu và tranh chấp về quyền sử dụng đất chứ không quy định tranh chấp đòi lại tài sản là không xác định thời hiệu như BLTTDS năm 2011 và hướng dẫn của Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao. Tại thời điểm thụ lý vụ án (ngày 03/8/2017), BLTTDS năm 2011 và Nghị quyết số 03 năm 2012 đã hết hiệu lực thi hành cho nên ý kiến của tác giả bài viết nêu không đảm bảo căn cứ theo quy định của pháp luật hiện hành. 2. Về ý kiến cho rằng, Tòa án phải ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án do hết thời hiệu khởi kiện: Theo quy định điểm e khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015 thì “đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết” thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Đây được hiểu là điều kiện đồng thời: đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu và thời hiệu khởi kiện đã hết. Bài viết chỉ đưa ra một điều kiện là thời hiệu khởi kiện đã hết (mà không có việc đương sự yêu cầu áp dụng thời hiệu) để Tòa án ra quyết định đình chỉ là chưa đảm bảo căn cứ pháp luật. Mặt khác, khoản 2 Điều 184 BLTTDS năm 2015 quy định: “2. Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu cảu một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc”. Trong trường hợp các bên đương sự không yêu cầu áp dụng thời hiệu thì Tòa án có thẩm quyền áp dụng khoản 1 Điều 478, khoản 4 Điều 474 BLDS năm 2005 để buộc B phải có nghĩa vụ trả nợ cho A số tiền gốc 300 triệu đồng và tiền lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả nợ (thời hạn chậm trả được tính từ 06/3/2009 đến thời điểm Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết). Tuy nhiên, việc tính lãi chậm trả như quy định của pháp luật hiện nay chưa thỏa đáng, bởi vì thời hạn chậm trả phụ thuộc vào thời điểm phát sinh tranh chấp, cụ thể hơn là thời điểm người cho vay khởi kiện để đòi lại tài sản.
Về xác định thời hiệu khởi kiện thanh toán nợ lãi đối với tranh chấp đòi lại tài sản Thành phần Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai: Liệu có cần đại diện hộ dân sinh sống lâu đời? |