Nhất đẳng Tông nữ là gì
Triều đại nhà Thanh của Trung Quốc đã phát triển một hệ thống xếp hạng quý tộc rất phức tạp. Tất cả các tước hiệu đều do con trai trưởng của nhà quý tộc thừa kế, nhưng bị giáng xuống một cấp. Tuy thế, vẫn có ngoại lệ khi Hoàng đế phê chuẩn cho một tước hiệu được cha truyền con nối, và đây là một vinh dự rất lớn cho người mang tước hiệu. Show Nhiếp chính vương Tải Phong - thân sinh của Tuyên Thống Đế. Các Tông thất được phép truyền tước hiệu cho con cháu của mình mà không bị giáng cấp được gọi là các Thiết mạo tử vương. Hoàng tộcNam nhân Hoàng tộcHoàng tộc nhà Thanh chia thành "Tông Thất" và "Giác La", những người có dòng máu Hoàng tộc[1], cụ thể là:
Tông Thất có địa vị cao hơn Giác La và có nhiều ưu đãi hơn trong việc phong tước, bổ nhiệm chức vụ. Điển hình chính là việc Giác La không thể được phân tước hiệu hoàng tộc "Nhập Bát phân công", mà đều chỉ có thể hưởng tước của quý tộc bình thường. Tước vị quý tộc Mãn Thanh cho nam giới Tông Thất, tức hậu duệ của Nỗ Nhĩ Cáp Xích hoặc hậu duệ của anh em cùng cha của Nỗ Nhĩ Cáp Xích, đều chia ra hai hạng Nhập Bát phân (入八分) và Bất nhập Bát phân (不入八分), cơ bản có 12 tước vị cùng 2 tước vị đặc thù, là tổng 14 tước vị, còn gọi Thập tứ đẳng Tước vị (十四等爵位).
Trong 14 tước vị này, thì 4 tước "Thân vương", "Quận vương", "Bối lặc" và "Bối tử" thường là phong cho Hoàng tử. Một vị Hoàng tử nhà Thanh khi đến tuổi trưởng thành sẽ căn cứ theo công trạng, sự yêu quý của Hoàng đế mà sẽ sơ phong (phong tước lần đầu) một trong 4 tước vị kể trên, nhưng cũng nhiều lúc phải sau khi Hoàng đế qua đời, Hoàng tử trở thành Hoàng đệ và được anh trai mình gia phong, như Cung Trung Thân vương Dịch Hân. Thông thường, các Hoàng tử chỉ được ban lần đầu là "Bối lặc" hoặc "Bối tử", sau đó có thành tích mới được phong Vương. Việc một Hoàng tử được phong tước Vương ngay lần phong đầu thường là con lớn hoặc do Hoàng hậu sinh ra; một số trường hợp là do Hoàng đế niệm tình sắp mất như Vinh Thuần Thân vương Vĩnh Kỳ. Hai tước vị đặc biệt "Thế tử" và "Trưởng tử" là danh phận chính thức mà chính phủ nhà Thanh công nhận dành cho người thừa kế hợp pháp của hai tước vị "Thân vương" cùng "Quận vương". Bất quá trên thực tế, rất nhiều người thừa kế Thân vương không mang địa vị Thế tử từ trước, tương tự trường hợp Quận vương, do đó đến đời Càn Long thì hai tước vị "Thế tử" cùng "Trưởng tử" trên thực đều đã bị bãi bỏ. Các tước vị trên đều là siêu phẩm tước vị (trên nhất phẩm), 4 tước vị dưới cùng theo thứ tự là Nhất phẩm đến Tứ phẩm, mỗi tước Tướng quân (trừ Phụng ân Tướng quân) đều chia ra làm 3 bậc, trong đó nếu có thêm Nhất vân Kỵ úy (一雲騎尉) lại chia ra làm một bậc riêng. Bọn họ bản chất là cùng cái cấp bậc, chỉ là ở hưởng lương sẽ có khác biệt một chút. Nguyên tắc thừa kếViệc kế thừa tước vị đời Thanh chính là án theo phương pháp Thế tập đệ giáng (世袭递降), có nghĩa "Thừa kế giáng vị" qua các đời. Đây là bởi vì nhà Thanh nhìn gương nhà Minh trong việc lạm tước đã phải hứng chịu gánh nặng kinh tế quá lớn. Cho nên sau khi nhập quan, trừ bỏ Thiết mạo tử vương giữ lại nguyên tước, tất cả Tông Thất thừa tước đều phải bị giáng tước qua từng đời. Tuy nhiên vì để tránh Tông Thất truyền đời cuối cùng không còn tước vị, triều đình cũng quy định giới hạn nhất định. Cụ thể thì:
Lệ đời nhà Minh, con trưởng tập nguyên tước của cha, các con sẽ tập tước giảm đi một bậc; tức nếu Thân vương có 10 con trai, thì con cả sẽ tiếp tục làm Thân vương mà 9 người con khác đều là Quận vương. Nhà Thanh không theo cách này, chế định "Thế tập đệ giáng" chính là chỉ đem một người thừa tập tước của cha, mà tước đó lại còn bị giáng qua các đời. Còn những người con khác, đều phải qua bài thi khảo hạch để mưu cầu được tước vị, nhưng họ chỉ có thể được thụ phong "Bất nhập Bát phân" tước vị hữu hạn, mà không thể cầu hàng "Nhập Bát phân" vô hạn. Đây được gọi là Khảo phong (考封). Do vấn đề thừa tước, chỉ có 1 con thừa tước sẽ khiến không ít Tông Thất không được phong tước, và họ gọi chung là Nhàn tản Tông Thất (閒散宗室). Nguyên bản, họ không có tước vị mũ áo và nhìn trông không khác gì dân thường, được đánh giá là dạng Tông Thất địa vị thấp kém, nên hay ra ngoài dân gian làm bậy, đến năm Càn Long thứ 22 (1755) đã đến hơn 700 người. Càn Long Đế vì quá mất mặt mà vào năm Càn Long thứ 47 (1782), lấy cớ "Hoàng tộc mà không có chức tước cùng áo mũ, há khác nào dân thường" mới chính thức ban quy định mũ áo cùng trợ cấp. Nhưng dù nghe "Khảo phong" có chút công bằng và gợi mở tương lai, nhưng chế độ Khảo phong đời Thanh cũng dựa theo thân phận tước của cha và địa vị của mẹ mà mà giới hạn gay gắt, thành lập nên một "Tiêu chuẩn cơ bản" như sau:
Dù kết quả thi cử của Tông Thất tốt ra sao, đều không thể vượt qua giới hạn của bảng tiêu chuẩn này. Ngược lại, nếu kết quả thi không tốt, thì đều dựa vào bảng tiêu chuẩn này mà giáng đi tương ứng. Cụ thể mà nói, bài thi Tông Thất phải trải qua ba đề mục là Phiên dịch (翻译), Mã tiễn (马箭) cùng Bộ tiễn (步箭), mỗi đề mục có 3 mức đánh giá là "Ưu", "Bình" và "Kém". Cả 3 đề mục đều kết quả Ưu, thì người đó sẽ dựa vào bảng tiêu chuẩn có tước vị tương ứng thân phận. Hai ưu một bình, kém đi 1 bậc; một ưu hai bình và hai ưu một kém giảm 2 bậc; ba bình cùng một ưu một bình một kém thì giảm 3 bậc; mà một ưu hai kém, hai bình một kém cùng một bình hai kém thì không được cấp tước vị. Bình thường thì Tông Thất đến 20 tuổi là có tư cách xin Khảo phong, không được lần này thì đều có thể lần sau, có người đến 50 tuổi vẫn không qua được. Một ví dụ giảng giải như sau, Tông Thất A có cha là Thân vương, cha qua đời, tước vị do anh của A kế tục, mẹ là Đích Phúc tấn. Khi tham gia khảo phong, Mã tiễn cùng Bộ tiễn hạng ưu, nhưng Phiên dịch là kém. Án theo bảng tiêu chuẩn, A là con trai của Thân vương Đích Phúc tấn, nay ra Hai ưu một kém, nên dựa theo đó sẽ giảm đi 2 bậc so với tiêu chuẩn thân phận, tức từ Bất nhập Bát phân Trấn quốc công giảm xuống thành Nhất đẳng Trấn quốc Tướng quân là 1 bậc, rồi xuống thành Nhị đẳng Trấn quốc Tướng quân tức là giảm 2 bậc theo như kết quả thi và tiêu chuẩn. Nữ nhân Hoàng tộcXem thêm thông tin: Cách cáchCác tước hiệu sau được ban cho nữ nhân trong Hoàng tộc:
Năm Thuận Trị thứ 17 (1660), Hoàng đế đặt ra quy định phong hiệu cho con gái hoàng tộc sau khi nhập quan[5]. Lại trong đó có một nội dung:
Nhưng là lúc này, trừ bỏ Hoàng nữ được phân chia "Đích thứ phân biệt" dựa theo phong hiệu Cố Luân Công chúa hoặc Hòa Thạc Công chúa, thì Tông nữ khi được sách phong cũng không phân chia đích-thứ, cho nên ở năm Khang Hi thứ 45 (1706), Khang Hi Đế hạ lệnh sửa đổi loại tình huống này:
Không giống với chế độ "Khảo phong" từ năm 20 tuổi dành cho nam giới, tước vị dành cho các Tông nữ, ngoại trừ Công chúa, cơ bản đều được phong vào thời điểm xuất giá, nếu như 16 tuổi gả chồng thì 16 tuổi được phong, nếu 40 tuổi gả chồng thì 40 tuổi được phong. Công chúa thông thường cũng như vậy, tuy nhiên vẫn có ngoại lệ được phong sớm (như Cố Luân Hòa Kính Công chúa). Tước vị của Tông nữ một khi đã được phong thì không vì tước vị và thân phận của cha mẹ mà thay đổi. Như con gái của Quận vương được phong Huyện chúa rồi xuất giá, cho dù sau này cha có được thăng Thân vương thì vị này cũng không được tấn phong Quận chúa. Hơn nữa, việc hôn phối của Tông nữ cũng có nhưng quy định nhất định. Những vị Tông nữ thuộc "Cận phái Tông chi" - tức từ hậu duệ của những Tông thất cùng ông nội với Đương kim Hoàng đế - thì chuyện hôn phối của họ bình thường đều do Hoàng đế quyết định và chỉ hôn. Những nhánh "Cận chi" xa hơn hay "Viễn chi" đều được tự do hôn phối, cũng có trường hợp được Hoàng đế đặc biệt chỉ hôn. Từ triều Càn Long, trừ con gái của Thân vương và Quận vương đều được phong theo lệ cũ, còn lại con gái của Bối lặc trở xuống đều chỉ có một con gái của Chính thất được phong theo lệ, còn lại những con gái của Chính thất khác đều theo lệ của con gái Trắc thất mà phong, con gái của Trắc thất lại áng theo lệ của con gái Thiếp hầu (tức không được phong). Vì vậy, Nữ nhân Hoàng tộc thời Thanh có được tước vị chiếm tỉ lệ rất thấp, nếu Nam giới có tước vị chiếm 6% thì Nữ giới chỉ chiếm được 3% trong tổng số. Từ Quận chúa đến Hương quân đều gọi một cách chính thức là Tông nữ (宗女), không phong tước chỉ có thể được gọi là "Cách cách" như một dạng nhã xưng. Chồng của Cố Luân Công chúa đến Hương quân đều được gọi là Ngạch phò (giản thể: 额驸; phồn thể: 額駙; bính âm: Éfù), tương đương Phò mã triều trước, có phẩm hàm tuỳ theo tước vị của vợ họ, như chồng của Cố Luân Công chúa được gọi là Cố Luân Ngạch phò (固伦额驸), chồng của Hòa Thạc Công chúa gọi là Hòa Thạc Ngạch phò (和硕额驸), riêng chồng của Quận chúa trở xuống đều phải nói rõ ra là "Quận chúa Ngạch phò" để rạch ròi.
Năm Đạo Quang thứ 24 (1844), quy định rằng về sau khi xưng hô Công chúa, phong hiệu viết ở đằng trước, mà "Cố Luân" cùng "Hòa Thạc" đều viết ở sau và chỉ ngay trước hai chữ Công chúa, tức [Mỗ mỗ Cố Luân Công chúa; 某某固伦公主] và [Mỗ mỗ Hòa Thạc Công chúa; 某某和硕公主]. Lương bổngCăn cứ theo Khâm định Đại Thanh hội điển sự lệ, lương bổng của các tước vị trên như sau, đều là theo năm[6]:
Về lương bổng phụ nữ Hoàng tộc đời Thanh thì tương đối đơn giản hơn, chia ra hai dạng là gả ở kinh sư và gả đi ngoại phiên (tức gả đi lấy các Vương công thuộc về Mông Cổ Minh kỳ). Khi gả trong kinh sư, Cố Luân Công chúa mỗi năm lãnh 400 lượng bạc, Hòa Thạc Công chúa là 300 lượng bạc, lại còn ban thêm số hộc gạo tương ứng. Khi gả xa, Cố Luân Công chúa tăng lên 1000 lượng bạc, Hòa Thạc Công chúa là 400 lượng bạc, đổi gạo thành lụa là gấm vóc. Nhìn chung nếu lấy "Cố Luân Công chúa" là lớn nhất, thì lương bổng các Tông nữ khác đều thấp hơn rất nhiều trung bình Tông Thất nam giới. Những Tông nữ không được phong, không có bổng lộc, trong một số tình huống đặc thù có thể xin trợ cấp như quả phụ hoặc mồ côi, một tháng được 2 lượng, một năm được 24 lượng bạc.
Ngạch phò tuy cũng có lương bổng, nhưng đều chưa đến 500 lượng bạc. Từ năm Càn Long thứ 36 (1771), Ngạch phò của những Tông nữ thuộc hậu duệ của Thuận Trị Đế trở về sau mới có bổng lộc, còn những Ngạch phò của Tông nữ thuộc những chi hệ khác thì chỉ có tước vị mà không có bổng lộc. Tương tự với việc "Nội mệnh phụ" là tước vị thuộc về nhà chồng thì "Ngạch phò" cũng là tước vị thuộc về Tông nữ và Hoàng thất. Sau khi Tông nữ qua đời, nếu Ngạch phò không cưới vợ kế thì có thể giữ lại tước vị, một khi đã tái giá thì mọi tước vị và đãi ngộ đều lập tức hủy bỏ.
Quý tộcQuan viên nam giớiCó 9 bậc quý tộc được ban thưởng tuỳ theo lòng dũng cảm, thành tích hoặc sự xuất chúng. Trừ hai bậc cuối cùng, tất cả các bậc còn lại đều được chia thành nhiều cấp khác nhau.
Các tước vị quý tộc thường ban cho quan võ nhiều hơn là quan văn. Trong lịch sử nhà Thanh, quan văn có tước vị cao nhất là Tăng Quốc Phiên chỉ là "Nhất đẳng Hầu tước". Ngoài ra, các quý tộc đôi khi cũng được ban chế độ gọi là Thế tập võng thế (世襲罔替), tức là tước vị đó truyền đời mà không bị giáng tước. Những ngoại thích khi gia ân tước, đều có thành tố [Thừa Ân; 承恩] vào đằng trước tước hiệu, như "Thừa Ân công" hay "Thừa Ân hầu", lại cũng tùy vào ân sủng mà gia cho Nhất đẳng hay Tam đẳng. Theo mặc định, các tước vị "Thừa Ân công" đều là thế tập truyền đời. Căn cứ Khâm định Đại Thanh hội điển sự lệ, lương bổng các tước theo năm như sau[7]:
Ngoài ra, còn có các tước không liệt phẩm, lương bổng gồm:
Những tước vị khácMông Cổ Minh kỳ thế tước
Ngoại mệnh phụThê thất của quan viên triều Thanh cũng theo hạng ngạch của chồng mà được triều đình cân nhắc phong tặng, họ được gọi là Mệnh phụ hay Ngoại mệnh phụ (外命婦). Thời Thanh cơ bản noi theo cách cũ của đời Minh, dùng [Cáo mệnh; 诰命] và [Cáo sắc; 诰敕] làm cơ sở. Đời Thanh quy định, phàm là quan viên triều đình, khi đạt được chức quan thì cũng có đãi ngộ hạng ngạch tương ứng. Xuất phát từ ưu đãi mà suy xét, quan viên có thể thông qua Đàm ân cáo sắc (覃恩诰敕) để có thể xin ban ân cho thành viên trong gia đình mình. Căn cứ triều đình quan viên phẩm cấp bất đồng, phạm vi Đàm ân cáo sắc cùng hình thức cũng bất đồng. Chúng ta có:
Về nội dung phong tặng, nam giới cùng nữ giới bất đồng. Nam giới được truy phong, bất luận từng nhậm chức gì, có nhậm hay không, khi truy phong đều gọi Tản quan ứng vào thứ bậc của người được ân phong tặng, chia làm hai ban văn-võ. Còn nữ giới chỉ có một hình thức hạng ngạch Mệnh phụ chung. Lấy ví dụ mà nói, vị quan A được thăng làm quan hàm Nhất phẩm, liền có được đãi ngộ phong tặng 3 đời. Thế là ông cố, ông nội cùng cha của vị quan A, tất cả đều phong tặng chức quan hàm Nhất phẩm; còn bà cố, bà nội, mẹ cả cùng vợ cả của vị A này, đều là Nhất phẩm Cáo mệnh phu nhân theo quy định. Vào đời Thanh, trừ bỏ những người được gả vào hoàng gia và có được tước vị tương ứng, thì Thê thất quan viên đều phải trải qua Đàm ân cáo sắc này mới có được tước hiệu. Nói cho cùng, phụ nữ thời kỳ quân chủ xưa có được vinh quang đều do chồng hoặc con cái mình mang lại, do đó để đánh giá người ấy có được địa vị thế nào người ta đều sẽ xem địa vị của chồng trước. Tổng quan các mệnh phụ triều Thanh, dựa theo:
Một số quy định gia phong Ngoại mệnh phụ triều Thanh:
Xem thêm
Tham khảo
|