Sản xuất hàng hóa trong nền kinh tế thị trường năm 2024

1. Ngày nay, không một ai phủ nhận vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của kinh tế hàng hoá (KTHH) và kinh tế thị trường (KTTT) trong quá trình phát triển nền sản xuất xã hội, phát triển lực lượng sản xuất xã hội...; không một ai phủ nhận sự tồn tại khách quan của KTHH trong nhiều chế độ xã hội khác nhau; không một ai còn ngây thơ cho rằng KTHH là sản phẩm riêng của CNTB... Đảng ta khẳng định: "sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng"1, "Để đi lên CNXH, chúng ta phải phát triển nền KTTT định hướng XHCN"2.

KTHH, KTTT tồn tại trong nhiều chế độ xã hội khác nhau, dựa trên nhiều chế độ sở hữu khác nhau, chứ không chỉ dựa trên chế độ sở hữu tư nhân. Chế độ sở hữu tư nhân chỉ là một trong nhiều nhân tố làm cho những người, những doanh nghiệp sản xuất hàng hoá độc lập và không phụ thuộc vào nhau, vì vậy mà thúc đẩy KTHH phát triển, chứ không phải là điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất, lưu thông hàng hoá.

KTHH, KTTT đang tồn tại khách quan trong nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH và cả trong CNXH. Nền kinh tế quá độ trong thời kỳ quá độ lên CNXH là nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu khác nhau, do đó mà có nhiều chủ thể kinh tế khác nhau. Các chủ thể kinh tế này độc lập, tách biệt nhau, không phụ thuộc vào nhau.Trong sản xuất và đời sống, các chủ thể kinh tế vừa cạnh tranh vừa hợp tác với nhau cùng tồn tại. Quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng con đường trao đổi hàng hoá theo cơ chế thị trường (CCTT). Hơn nữa, chính phát triển KTHH, KTTT là cách tốt nhất để sử dụng có hiệu quả những tiềm năng kinh tế của các thành phần kinh tế.

Các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), mặc dù đều dựa trên sở hữu toàn dân mà nhà nước là đại diện (gọi tắt là sở hữu nhà nước), trong quan hệ kinh tế với nhau cũng đều phải thông qua quan hệ hàng hoá - tiền tệ, bởi các DNNN cũng là những chủ thể kinh tế độc lập, không phụ thuộc vào nhau, do hai lẽ: Một là, khi nền kinh tế càng phát triển thì sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản xuất càng xa. Mặc dù các DNNN đều dựa trên sở hữu nhà nước, nhưng được giao quyền sử dụng tư liệu sản xuất khác nhau, vì vậy mà các DNNN có sự tách biệt tương đối về kinh tế có quyền tự chủ trong sản xuất - kinh doanh. Do đó, lao động sản xuất của mỗi DNNN mang tính chất là “lao động tư nhân” độc lập, không phụ thuộc vào nhau. “Lao động tư nhân” của mỗi DNNN chỉ được thừa nhận là một bộ phận của lao động xã hội khi nào sản phẩm của doanh nghiệp làm ra được bán hết trên thị trường xã hội. Hai là, do nhiều nhân tố tác động (trình độ cơ sở vật chất - kỹ thuật, trình độ tay nghề của người lao động, trình độ tổ chức, quản lý...) mà giữa các DNNN có sự khác nhau về hiệu quả sản xuất - kinh doanh, do vậy giữa các DNNN có sự khác biệt về lợi ích kinh tế, làm cho tính độc lập, không phụ thuộc vào nhau của các DNNN càng rõ nét. Do đó, quan hệ hàng hoá - tiền tệ giữa các DNNN là cần thiết, thuận lợi, công bằng, hợp lý nhất.

KTHH, KTTT còn là cần thiết, tất yếu trong quan hệ kinh tế đối ngoại giữa các nước trên thế giới vì mỗi nước lại là một chủ thể kinh tế độc lập, không phụ thuộc vào nhau trong nền KTTT thế giới thống nhất.

2. Phát triển KTHH, KTTT có vai trò rất quan trọng đối với nước ta khi chuyển từ nền kinh tế còn kém phát triển lên sản xuất lớn XHCN. Phát triển KTHH được coi là chiếc đòn xeo để xây dựng CNXH, là phương tiện khách quan để xã hội hoá XHCN nền sản xuất. Không thể có nền KTHH, KTTT ở nước này lại là bản sao của KTHH, KTTT ở nước khác. Trong các tiêu thức để phân biệt nền KTHH, KTTT này với nền KTHH, KTTT khác, phải kể đến định hướng chính trị, kinh tế, xã hội chi phối sự vận động phát triển của nền kinh tế. ở nước ta, những định hướng XHCN của nền kinh tế là: Thứ nhất, phát triển nền KTHH, KTTT với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, với sự đa dạng các hình thức sở hữu và các hình thức tổ chức sản xuất - kinh doanh, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Thứ hai, phát triển nền KTHH vận động theo CCTT có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN đảm bảo thống nhất giữa sự phát triển, tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Thứ ba, xây dựng một nền KTHH, KTTT hoà nhập vào nền KTTT khu vực và thế giới với nhiều hình thức quan hệ và liên kết phong phú, đa phương, đa dạng.

Với định hướng trên, mục tiêu phát triển nền KTHH, KTTT định hướng XHCN được xác định là: tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế. Nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực hiện có, tăng thêm các nguồn lực mới bằng cách nâng cao tỷ lệ tiết kiệm, tăng tích luỹ và đầu tư hiện đại hoá, đổi mới cơ cấu kinh tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao... để đưa nước ta thoát khỏi tình trạng một nước nghèo và kém phát triển.

Theo mục tiêu đó, có thể xác định những đặc trưng bản chất của nền KTHH, KTTT định hướng XHCN ở nước ta: Một là, KTHH, KTTT định hướng XHCN là một kiểu tổ chức nền kinh tế trong quá trình đi lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế còn kém phát triển. Kiểu tổ chức nền kinh tế này nhằm nhanh chóng đưa nước ta đạt đến mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Hai là, nền KTHH, KTTT định hướng XHCN là một nền kinh tế gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế đều vận động theo định hướng chung và theo khung khổ pháp luật của nhà nước XHCN. Ba là, nền KTHH, KTTT định hướng XHCN thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của KTTT, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của CNXH. Bốn là, nền KTHH, KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế "mở" cả với bên trong và với bên ngoài. Tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế - xã hội, hoạt động của CCTT không chỉ chịu sự tác động của các quy luật KTHH nói chung, mà còn chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế đặc thù của phương thức sản xuất chủ đạo. Do vậy, mô hình CCTT có sự quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa(TBCN) và trong nền kinh tế định hướng XHCN có những sự khác nhau rất cơ bản:

Thứ nhất, về chế độ sở hữu: CCTT trong nền kinh tế TBCN luôn hoạt động trên nền tảng của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, trong đó các công ty tư bản độc quyền giữ vai trò chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. CCTT trong nền KTHH theo định hướng XHCN lại hoạt động trong môi trường của sự đa dạng các quan hệ sở hữu, trong đó chế độ công hữu giữ vai trò là nền tảng của nền kinh tế quốc dân, với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Tính định hướng XHCN đòi hỏi trong khi phát triển KTHH nhiều thành phần phải củng cố và phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể trở thành nền tảng của nền kinh tế có khả năng điều tiết, hướng dẫn sự phát triển của KTHH nhỏ và TBCN. Kinh tế nhà nước phải được củng cố và phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế, ở lĩnh vực an ninh, quốc phòng, ở các lĩnh vực dịch vụ xã hội cần thiết... mà các thành phần kinh tế khác không có điều kiện hoặc không muốn đầu tư vì không sinh lời hoặc ít lãi.

Thứ hai, về tính giai cấp của nhà nước và mục đích quản lý của nhà nước: trong CCTT TBCN, sự can thiệp của Nhà nước luôn mang tính chất tư sản và trong khuôn khổ của chế độ tư sản với mục đích nhằm bảo đảm môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi cho sự thống trị của giai cấp tư sản, cho sự bền vững của chế độ bóc lột TBCN. Trong CCTT có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, thì sự can thiệp của Nhà nước XHCN vào nền kinh tế lại nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của toàn thể nhân dân lao động, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Thứ ba, về cơ chế vận hành nền KTHH, KTTT định hướng XHCN là CCTT có sự quản lý của nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cơ chế đó đảm bảo tính hướng dẫn, điều khiển nền kinh tế nhiều thành phần hướng tới đích XHCN theo phương châm: Nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp. Cơ chế đó thể hiện ở các mặt cơ bản: Một là, Nhà nước XHCN là nhân tố đóng vai trò "nhân vật trung tâm" và điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Hai là, CCTT là nhân tố trung tâm của nền kinh tế, đóng vai trò "trung gian" giữa Nhà nước và doanh nghiệp.

Thứ tư, về mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với công bằng xã hội: trong sự phát triển của KTTT TBCN, vấn đề công bằng xã hội chỉ được đặt ra khi mặt trái của CCTT đã làm gay gắt các vấn đề xã hội, tạo ra nguy cơ bùng nổ xã hội, đe doạ sự tồn tại của CNTB. Song, vấn đề đó không bao giờ và không thể nào giải quyết được triệt để trong chế độ tư bản. Mục đích giải quyết các vấn đề xã hội của các Chính phủ tư sản chỉ giới hạn trong khuôn khổ TBCN, chỉ được xem là phương tiện để duy trì chế độ TBCN. Trong nền KTHH, KTTT định hướng XHCN, Nhà nước chủ động ngay từ đầu việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Vấn đề công bằng xã hội không chỉ là phương tiện để phát triển nền KTTT mà còn là mục tiêu của chế độ xã hội mới. Sự thành công của nền KTTT theo định hướng XHCN không chỉ biểu hiện ở tốc độ tăng trưởng cao mà còn ở chỗ mức sống thực tế của mọi tầng lớp dân cư đều được nâng lên; y tế, giáo dục đều phát triển; khoảng cách giữa giàu và nghèo được thu hẹp; đạo đức, truyền thống, bản sắc văn hoá dân tộc được giữ vững; môi trường sinh thái được bảo vệ.

Thứ năm, về phân phối thu nhập. Sự thành công của nền KTHH, KTTT định hướng XHCN không chỉ dừng lại ở tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn phải không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo tốt các vấn đề xã hội và công bằng, bình đẳng trong xã hội. Tình hình đó đặt ra cho KTHH, KTTT định hướng XHCN phải kết hợp hài hoà 3 vấn đề sau đây: Một là, kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội. Mục đích của sự kết hợp này là vừa đảm bảo cho các chủ thể của KTTT có được lợi nhuận cao, vừa tạo được điều kiện chính trị - xã hội bình thường cho sự phát triển kinh tế. Hai là, kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của CNXH và nguyên tắc của KTTT, như: phân phối theo lao động, theo vốn, theo tài năng, phân phối qua quỹ phúc lợi xã hội... Trong đó, nguyên tắc phân phối theo lao động là chính. Thứ ba, điều tiết phân phối thu nhập, một mặt, đòi hỏi Nhà nước phải có chính sách sao cho giảm bớt khoảng cách chênh lệch giữa lớp người giàu và lớp người nghèo...; mặt khác, phải có chính sách, biện pháp nâng cao thu nhập chính đáng của người giàu, người nghèo và của toàn xã hội.

3. Để phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay cần thấy rõ những đặc điểm chi phối như, nền KTTT đang trong thời kỳ quá độ, là nền KTHH quá độ. Tính quá độ thể hiện: trong nền kinh tế bao gồm nhiều loại hình sản xuất hàng hoá đan xen nhau: sản xuất hàng hoá XHCN, sản xuất hàng hoá TBCN và sản xuất hàng hoá nhỏ... (nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức sở hữu khác nhau tham gia sản xuất hàng hoá). Mỗi kiểu sản xuất hàng hoá có những nét đặc thù về bản chất kinh tế - xã hội và trình độ phát triển, nhưng nó đều là những bộ phận khác nhau của nền kinh tế quốc dân thống nhất, hình thành và chịu sự chi phối của một thị trường xã hội thống nhất với các quan hệ cung - cầu, giá cả chung, một đồng tiền chung... Bởi vậy, chúng vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với nhau, bình đẳng trước pháp luật, được pháp luật bảo hộ quyền sở hữu và quyền thu nhập hợp pháp. Trong nền KTTT quá độ, sản xuất hàng hoá XHCN giữ vai trò chủ đạo, định hướng đối với các kiểu sản xuất hàng hoá khác.

KTTT còn ở trình độ kém phát triển, biểu hiện ở số lượng mặt hàng và chủng loại hàng hoá nghèo nàn, khối lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường và kim ngạch xuất nhập khẩu còn nhỏ, chi phí sản xuất và giá cả hàng hoá cao, chất lượng hàng hoá thấp, quy mô và dung lượng thị trường hạn hẹp; sức cạnh tranh của các doanh nghiệp và hàng hoá trên thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài còn rất yếu; đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp giỏi còn ít, thu nhập của người lao động còn thấp, do đó sức mua còn hạn chế; nhiều loại thị trường còn ở trình độ sơ khai hoặc mới đang trong quá trình hình thành như thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường sức lao động...Trình độ phát triển thấp của sản xuất hàng hoá bắt nguồn từ trình độ thấp của lực lượng sản xuất, từ tính chất sản xuất nhỏ của nền kinh tế, từ trình độ phân công lao động xã hội kém phát triển, từ sự kém phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng, lao động thủ công còn chiếm tỷ trọng lớn, từ sự kìm hãm nền kinh tế trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp một thời gian quá lâu dài, từ sự nhận thức giản đơn về CNXH...

Nền KTTT đang phát triển theo hướng hoà nhập vào thị trường thế giới. Cách mạng khoa học - công nghệ càng phát triển càng làm cho lực lượng sản xuất phát triển đạt trình độ xã hội hoá cao, dẫn đến quá trình khu vực hoá, quốc tế hoá nền kinh tế ngày càng mở rộng. Do vậy, phát triển KTTT không phải chỉ dựa trên cơ sở điều kiện trong nước, mà còn phải tính đến quan hệ kinh tế quốc tế, đến xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế. Nền KTTT của mỗi quốc gia muốn phát triển thuận lợi không thể không gắn với thị trường thế giới. Cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đã làm cho số lượng, chất lượng, chủng loại hàng hoá cho tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân ngày càng phong phú, đa dạng, mà bất cứ một nước nào, dù là nước phát triển nhất, cũng không thể sản xuất tất cả các loại hàng hoá. Vì vậy, mỗi nước phải tuỳ theo lợi thế của mình, lựa chọn những mặt hàng sản xuất có hiệu quả và cạnh tranh được trên thị trường thế giới. Sản xuất hàng hoá ở nước ta chỉ có thể phát triển mạnh mẽ nếu thu hút có hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài và áp dụng những tiến bộ công nghệ, kỹ thuật hiện đại của thế giới để khai thác những tiềm năng còn rất lớn trong nền kinh tế. Muốn vậy, con đường đúng đắn là phát triển nền kinh tế mới hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu có hiệu quả.

Đồng thời phát triển KTTT định hướng XHCN nhất thiết phải gắn với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Phát triển KTTT gắn với nền kinh tế mở là tất yếu, nhưng trong quá trình đó, bên cạnh việc tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới, thì cũng có nguy cơ du nhập những yếu tố văn hoá xa lạ với truyền thống, đặc điểm của dân tộc. Muốn giữ được nền KTTT mang bản sắc văn hoá Việt Nam phải thực hiện có hiệu quả sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, không chấp nhận lối sống thực dụng với sự chi phối tất cả của đồng tiền, không chấp nhận việc thương mại hoá mọi hoạt động đời sống xã hội, mà đề cao những chuẩn mực giá trị văn hoá và đạo đức, đồng thời đấu tranh xoá bỏ những tập tục và lối sống cổ hủ, lạc hậu. Kết hợp sự chọn lọc tinh hoa của văn minh nhân loại với sự giữ gìn những yếu tố tinh tuý của văn hoá dân tộc, xây dựng những nhân tố văn hoá XHCN.

Ở nước ta, phát triển nền KTTT định hướng XHCN nhằm bảo đảm các yêu cầu sau: tăng trưởng kinh tế phải gắn chặt với những tiến bộ về công bằng xã hội, thực hiện mục tiêu "mọi lợi ích đều vì dân", giải phóng con người, con người phát triển toàn diện. Phát triển kinh tế cao dựa trên cơ sở lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Thành phần kinh tế nhà nước là chủ đạo, cùng kinh tế tập thể là nền tảng của kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân phát triển theo sự quản lý của Nhà nước. Tính năng động của CCTT phải gắn với sự quản lý của Nhà nước. Đa dạng các hình thức phân phối, phân phối theo lao động ngày càng chi phối. Không ngừng đổi mới và hoàn thiện quan hệ giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng của đất nước, nhằm phát huy sức mạnh tổng thể quốc gia. Mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo nguyên tắc ngày càng tăng nhanh sức sống nội sinh của dân tộc, biến yếu tố ngoại sinh thành yếu tố nội sinh.