Sáng kiến kinh nghiệm về bồi dưỡng học sinh giỏi Toán THPT
Ngày đăng:17/10/2021
Trả lời:0
Lượt xem:227
MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Để thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác giáo dục trong các nhà trường, đáp ứng yêu cầu của xã hội trong giai đoạn hiện nay. Góp phần vào sự thành công của công việc đó thì công tác tổ chức và bồi dưỡng học sinh giỏi đóng vai trò hết sức quan trọng, vì đây là một trong những công tác mũi nhọn nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho địa phương nói riêng và cho xã hội nói chung. Ý thức sâu sắc được công việc này trong những năm gần đây trường THPT Cầm Bá Thước, huyện Thường Xuân đã xác định rõ vai trò của công tác tổ chức giảng dạy và bồi dưỡng HSG ở các khối lớp, nhà trường đã xây dựng kế hoạch và phân công cụ thể giáo viên giảng dạy ngay từ đầu năm học. Cần phải khẳng định rằng việc bồi dưỡng HSG là một công việc khó khăn và lâu dài, đòi hỏi nhiều công sức của thầy và trò. Cũng như các nhà trường, trường THPT Cầm Bá Thước cũng không nằm ngoài lệ, trong công tác tổ chức bồi dưỡng HSG của nhà trường hiện nay thường gặp những hạn chế về kết quả, điều đó xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu như sau: Nội dung bồi dưỡng, vì không phải là trường chuyên nên không có chương trình dành cho lớp chuyên, thiếu định hướng và thiếu tính liên thông trong hệ thống chương trình, tất cả các giáo viên dạy bồi dưỡng đều phải tự soạn, tự nghiên cứu và tự sưu tầm tài liệu còn học sinh thì một số không yên tâm khi được chọn theo một số lớp bồi dưỡng HSG, đặc biệt học sinh thi các môn như: Vật lý, Hoá học, Sinh gặp khó khăn vì thi đại học, cao đằng thi theo hình thức trắc nghiệm còn thi HSG lại thi theo hình thức tự luận và các môn không thi đại học như môn GDCD, QPAN... vì thế HS phải mất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến sức khỏe và kết quả học tập chung. Mặt 1
khác giáo viên dạy bồi dưỡng trong các nhà trường THPT không chuyên vẫn phải hoàn thành công tác giảng dạy như các giáo viên khác, đôi khi họ còn kiêm nhiệm công việc như: Chủ nhiệm, Tổ trưởng bộ môn, Công đoàn, Đoàn thanh niên... do yêu cầu thực tế đòi hỏi nên BGH lúc nào cũng muốn giao công việc cho những giáo viên tốt, giỏi, có uy tín. Chính vì lý do đó mà việc đầu tư cho công tác bồi dưỡng HSG của GV cũng có phần bị hạn chế. Tuy có những khó khăn nhất định trong việc tổ chức bồi dưỡng HSG nhưng trong những năm gần đây, qua các kỳ thi HSG cấp tỉnh trường THPT Cầm Bá Thước mặc dù là trường miền núi cao nhưng cũng đã gặt hái được những thành công nhất định ( trường luôn xếp hạng ở nửa trên của các trường THPT trong tỉnh và xếp tốp đầu của các trường THPT của 11 huyện miền núi Thanh hoá) . Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn nói trên tôi luôn trăn trở để tìm ra các biện pháp hữu hiệu để tổ chức tốt công tác bồi dưỡng HSG nhằm đáp ứng phần nào yêu cầu xã hội nói chung và của nhân dân các dân tộc huyện Thường Xuân nói riêng. Vì vậy, Tôi chọn đề tài Những biện pháp tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường THPT Cầm Bá Thước trong giai đoạn hiện nay . 2.Mục đích nghiên cứu Đề xuất những biện pháp tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường THPT Cầm Bá Thước trong giai đoạn hiện nay. 3. Đối tượng , phương pháp nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu
2
Công tác tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường THPT Cầm Bá Thước từ năm học 2008-2009 đến nay. 3.3. Phương pháp nghiên cứu Tổng kết kinh nghiệm, nghiên cứu thực tiễn, toạ đàm, trao đổi, phân tích, tổng hợp. 4.Nhiệm vụ nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu 4.1.1. Xác định cơ sở lý luận của việc bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường THPT. 4.1.2. Phân tích thực trạng việc tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường THPT Cầm Bá Thước từ năm học 2008-2009 đến nay. 4.1.3. Đề xuất những biện pháp việc tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường THPT Cầm Bá Thước . 5.Ý nghĩa của đề tài: Góp phần vào việc tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi ở các trường THPT nói chung và đặc biệt là các trường THPT miền núi nói riêng.
PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ CÔNG TÁC TỔ CHỨC BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI Ở TRƯỜNG THPT 3
1.1. Cơ sở lý luận. Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn Đảng và Nhà nước ta phải luôn coi trọng việc chăm lo cho giáo dục, đặc biệt là việc phát hiện và bồi dưỡng tài năng của thế hệ trẻ, tạo điều kiện cho thế hệ trẻ được phát huy tài năng, sức lực của mình vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Trong bài viết của mình đăng trên báo Cứu quốc, ngày 20-11-1946 bác Hồ đã cho rằng: Chính phủ và mọi người cần phải trọng dụng người hiền năng. Nơi nào có người tài đức, những việc ích nước lợi dân thì phải báo ngay cho Chính phủ biết. Đồng chí Lê Khả Phiêu nguyên Tổng bí thư Trung ương Đảng đã từng nói về nhân tài Một mặt phải tìm được những cách thích hợp để phát hiện và bồi dưỡng nhân tài, đồng thời cũng cần lưu ý là nhân tài sẽ có điều kiện xuất hiện trên một nền dân trí rộng và trên cơ sở việc tổ chức đào tạo nhân lực tốt và nhân tài là người có trí tuệ sắc bén và những người có bàn tay vàng có những kỹ năng đặc biệt " . Nghị quyết Trung ương 2, khoá VIII đã nêu rõ: Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. 1.2. Một số khái niệm cơ bản. 1.2.1 Năng lực : là những đặc điểm tâm lý cá biệt ở mỗi con người tạo thành chiều sâu cường độ lĩnh hội tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo để đáp ứng yêu cầu và hoàn thành xuất sắc một hoạt động nhất định . 1.2.2 Trình độ cao của năng lực: 4
Chính là tài năng ở trình độ tột đỉnh là thiên tài . Năng lực chỉ tồn tại trong quá trình phát triển, vận động của một hoạt động tương ứng cụ thể . Năng lực là sản phẩm của một hoạt động thực tiễn tích cực của con người không tách rời hoàn cảnh xã hội và tham gia phục vụ cho sự phát triển xã hội. Vậy trình độ cao của năng lực vừa là trí (trí khôn , thông minh ) là tâm đức thống nhất trong một cấu trúc thích ứng . 1.2.3. Năng khiếu Là mầm mống của tài năng tương lai . Nếu được phát hiện bồi dưỡng kịp thời có phương pháp và hệ thống thì năng khiếu được phát triển và đạt tới đỉnh cao của năng lực, ngược lại thì năng khiếu sẽ bị thui chột. Người có năng lực, năng khiếu thì thị giác thính giác xúc giác vị giác khứu giác, tri giác có những cảm giác đặc biệt. 1.3. Quan niệm về học sinh giỏi- học sinh năng khiếu Học sinh giỏi, học sinh năng khiếu thường quy tụ ở các tiêu chuẩn sau: 1.3.1. Thông tuệ: Những học sinh năng khiếu thường thông minh, trí tuệ phát triển, có năng lực tư duy tốt, tiếp thu vấn đề nhanh, nhớ lâu và hệ số IQ cao. 1.3.2. Sáng tạo Có bộ óc tư duy độc lập, có óc phê phán, có khả năng dự báo, ưa thích khám phá cái mới, không suy theo đường mòn mà đi sâu vào tìm hiểu bản chất, tìm ra quy luật, sự kiện, hiện tượng. 1.3.3. Có các phẩm chất nổi bật 5
Thường xuyên say mê tìm tòi cái mới, tò mò, trung thực, kiên trì, kiên định, giàu lòng vị tha và tính nhân văn, tinh thần tự chủ cao và có ý chí phấn đấu vươn lên tự hiện, đạt đến Chân - Thiện - Mĩ. 1.4. Cơ sở pháp lý Điều 35 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nêu rõ : Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhà nước và xã hội phát triển nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Luật giáo dục của nước ta cũng khẳng định: Việc bồi dưỡng học sinh đạt kết quả xuất sắc trong học tập nhằm phát triển năng khiếu của các em về một số môn học trên cơ sở bảo đảm giáo dục phổ thông toàn diện. Chiến lược phát triển giáo dục Việt nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2020 nêu rõ: Đảm bảo cả yêu cầu về số lượng, chất lượng, hiệu quả giáo dục. Đồng thời với việc nâng cao chất lượng toàn diện học sinh, sinh viên diện đại trà, cần mở rộng diện đào tạo bồi dưỡng học sinh, sinh viên tài năng để chuẩn bị đội ngũ nhân lực có trình độ cao, thạo ngoại ngữ, đủ sức cạnh tranh trong khu vực và thế giới . Nhân tài, học sinh giỏi là yếu tố tiên quyết, không thể thiếu được đối với bất kỳ một dân tộc, một quốc gia nào. Vì vậy quá trình phát hiện và tổ chức bồi dưỡng nhân tài, bồi dưỡng học sinh giỏi đang được đặt gia và tiến hành trong các nhà trường và trường THPT Cầm Bá Thước cũng không nằm ngoài qui luật đó.
6
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TỔ CHỨC BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI Ở TRƯỜNG THPT CẦM BÁ THƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY. 2.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên, KT-XH huyện Thường Xuân và lịch sử phát triển trường THPT Cầm Bá Thước. 2.1.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên, KT-XH huyện Thường Xuân. Thường Xuân là một trong 11 huyện miền núi phía tây của tỉnh Thanh hoá, có biên giới phía bắc giáp với huyện Lang Chánh và Ngọc Lặc, phía đông giáp với huyện Thọ Xuân và Triệu Sơn, phía nam giáp huyện Như Xuân, phía Tây giáp với tỉnh Nghệ An và nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào. Tổng diện tích tự nhiên của huyện là 1.110,4Km2 , Đồi núi chiếm trên 75% diện tích . Tổng dân số toàn huyện là 87101 người , trong đó dân tộc Thái chiếm 57,27 %, dân tộc kinh chiếm 37,15%, dân tộc khác chiếm 5.58% 4852 người. Thường Xuân có 17 xã, thị trấn và huyện thuộc một trong 62 huyện nghèo của cả nước, nền kinh tế xuất phát thấp, cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém, giao thông đi lại khó khăn chưa đáp ứng được yêu cầu cho phát triển, giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các vùng trong huyện cũng như đối với các địa phương trong và ngoài tỉnh. Trình độ dân trí không đồng đều, tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự bao cấp của nhà nước còn phổ biến trong nhân dân và một 7
bộ phận cán bộ Đảng viên, tính năng động dám nghĩ, dám làm còn hạn chế. Bên cạnh đó vẫn còn các tập tục lạc hậu ở một số địa phương trong huyện như: ma chay, cưới xinVới đặc điểm về địa lý và điều kiện kinh tế khó khăn nó có tác động không nhỏ đến sự phát triển giáo dục của địa phương. Vì vậy cho đến nay chất lượng giáo dục của huyện còn kiêm tốn. 2.1.2. Sơ lược về lịch sử phát triển trường THPT Cầm Bá Thước Trường THPT Cầm Bá Thước đóng trên địa bàn huyện Thường Xuân và được thành lập từ năm 1965 với tên gọi khi đó là trường cấp 3 Thường Xuân nằm cách trung tâm huyện 10 Km về phía tây, năm 1974 trường được chuyển về Thị trấn Thường Xuân (vị trí bây giờ). Năm 1995 trường được đổi tên thành trường THPT Cầm Bá Thước (mang tên vị lãnh tụ của phong trào Cần vương). Hiện tại trường có hai cơ sở với tổng số 41 lớp với 1924 học sinh , trong đó khối 12 có 12 lớp, khối 11 có 14 lớp và khối 10 có 15 lớp. Cơ sở 1 có 35 lớp với 1686 học sinh và được đóng tại Thị trấn huyện. Cơ sở 2 có 06 lớp (3 lớp 10, 3 lớp 11) với 238 học sinh và được đóng tại xã Vạn Xuân cách trung tâm huyện 20 km về phía tây. - Số học sinh nữ toàn trường: 946 chiếm 49,16% - Số học sinh là người dân tộc thiểu số: 932 chiếm 48,44%
8
-Tổng số CBGV-CNV:89,(GV 86, NVHC3) Số CBGV nữ: 52 chiếm 58,4% - Cơ sở vật chất nhà trường: Nhà trường có đủ phòng học kiên cố để học 1 ca, có 4 phòng máy tính với 100 máy (trong đó có một phòng nối mạng Internet) dùng cho học thực hành tin học, có 02 phòng nghe nhìn, 05 phòng học lắp đặt máy chiếu Proerecter, 01 phòng thư viện, 02 phòng thí nghiệm. Ngoài ra trường còn có sân chơi, bãy tập cho học sinh học tập theo qui định. Trong những năm gần đây, được sự quan tâm lãnh chỉ đạo của các cấp uỷ, chính quyền, của ngành giáo dục và sự quyết tâm của đội ngũ các nhà giáo, chất lượng giáo dục của nhà trường đã gặt hái được nhiều thành tựu, cơ sở vật chất nhà trường được tăng cường , công tác chuẩn hoá đội ngũ được thực hiện có hiệu quả. Đội ngũ giáo viên của nhà trường không ngừng được bổ sung, đầy đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu. Kỷ cương nền nếp trong đội ngũ nhà giáo được tăng cường . Đội ngũ nhà giáo của nhà trường đã từng bước nâng cao được nhận thức vai trò của mình đối với công tác giáo dục nói trung và đặc biệt là công tác bồi dưỡng học sinh giỏi nói riêng. 2.2. Một số kết quả đạt được trong công tác tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi của nhà trường. 2.2.1. Đối với giáo viên (Bảng phân loại chuyên môn nghiệp vụ) Năm học
Tổng
Thạc sỹ
ĐH
Giáo viên giỏi Cấp trường
Cấp cụm
Cấp tỉnh
9
2008 - 2009
85
9
76
17
17
12
2009 - 2010
82
8
74
19
18
12
2010 - 2011
80
9
21
14
2011-2012
86
12
25
21
71 20 74
14
Từ những số liệu trên cho thấy trong những năm gần đây, số lượng và chất lượng giáo viên giỏi các cấp không ngừng tăng lên, hết năm học 2011-2012 nhà trường có đội ngũ giáo viên giảng dạy có trình độ năng lực chuyên môn nghiệp vụ và tay nghề vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, phù hợp với yêu cầu của ngành, yêu cầu nghề nghiệp và có thể tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi. 2.2.2. Đối với học sinh (Bảng tổng hợp kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi) 2.2.2.1 Các môn văn hoá HS đạt giải Năm học 2008-2009 2009-2010 2010-2011 2011-2012
HS
giỏi
HS
toàn diện
tiên
cấp trường
tiến
12 14 19 24
322 419 536 528
Xếp hạng Đạt
giải Cấp
trong khu vực
Xếp hạng toàn
cấp trường tỉnh
miền núi (thi
tỉnh (thi cấp tỉnh)
cấp tỉnh) 3 4 2 3
37 45 31 27
235 299 406 479
31 24 49 52
Tính đến năm học 2011-2012 toàn tỉnh có 104 trường THPT và 11 huyện miền núi có 24 trường THPT tham gia dự thi kỳ thi HSG cấp tỉnh. 2.2.2.2. Các môn TDTT- QPAN, Văn nghệ cấp tỉnh HS HS gỏi giải đạt giải
toán
bằng
Năm học
máy
tính
HS gỏi
HS Giỏi Văn nghệ
TDTT
QP-AN
Ghi chú
10
2008-2009 2009-2010
cầm tay 15 7
2010-2011
9
1 2
10 13
Không tham gia 2
4
10
2
01 HS tham gia thi Giọng hát toàn quốc
Không tham gia 2011-2012
11
4
14
01 HS tham gia hội khoẻ PĐ toàn quốc
2.2.2.3. Một vài thành tích khác: Nhà trường đã xây dựng được nền nếp, ý thức của giáo viên và học sinh. Đã xây dựng được chương trình bồi dưỡng dành cho Tổ - Nhóm bộ môn. - Gây dựng được niềm tin đối với Ban đại diện cha mẹ học sinh và được ủng hộ, giúp đỡ cho công tác bồi dưỡng học sinh khá giỏi, ôn luyện HS thi Đại học- Cao đẳng, vì thế số lượng học sinh thi đỗ Đại học, Cao đẳng , TCCN ngày một tăng. Học sinh Năm học
Đỗ Đại học
2008-2009
97
2009-2010 2010-2011
129 156
Đỗ Cao đẳng
Đỗ TCCN
Ghi chú
41 36 37 48
33 39
- Trong năm học 2009-2010,2010-2011 trường đều có học sinh tham gia dự thi Âm vang xứ Thanh và lọt vào vòng thi quí. 2.3. Những tồn tại trong trong công tác tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường THPT Cầm Bá Thước.
11
Nhà trường có nhiều tồn tại hạn chế trong công tác tổ chức bồi dưỡng học sinh khá giỏi đó là: - Từ đặc điểm hoàn cảnh kinh tế xã hội của địa phương ảnh hưởng lớn đến công tác tổ chức. - GV dạy đội tuyển luôn có sự thay đổi (do thuyên chuyển công tác và giáo viên đang nằm trong độ tuổi sinh nở nhiều), vì thế thời gian cho GV tìm hiểu, nắm bắt đối tượng HS và lựa chọn HS vào đội tuyển còn ít cho nên có những bộ môn chất lượng đội tuyển không cao. - Do tuổi đời và tuổi nghề của CBGV còn trẻ nên kinh nghiệm bồi dưỡng của phần lớn CBGV dạy bồi dưỡng còn ít, có những bộ môn giáo viên lần đầu tham gia dạy bồi dưỡng . - Giáo viên dạy các đội tuyển là những người năng động nên thường được bố trí nhiều công việc kiêm nhiệm, do đó có những hạn chế về mặt thời gian cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. - Do đặc thù bộ môn nên có những bộ môn rất khó trong việc chọn HS để thành lập đội tuyển (môn GDCD). - Việc tập trung HS luyện tập ở các bộ môn Thể dục, QP-AN khó khăn vì HS đội tuyển dải rác ở nhiều khối, lớp. - Nguồn kinh phí tổ chức cho hoạt động dạy bồi dưỡng và ý thức, nhận thức của gia đình học sinh và cộng đồng xã hội còn nhiều hạn chế. - Ban giám hiệu nhà trường và đội ngũ giáo viên hầu hết còn trẻ tuổi đời bình quân 29 và đặc biệt có hơn 75% giáo viên từ miền xuôi lên công tác và không ít
12
trong đó chưa thực sự An cư lạc nghiệp, số GV còn lại là người địa phương chủ yếu học cử tuyển Đại học, chuyên môn nghiệp vụ và năng lực còn nhiều hạn chế. Đặc biệt trong những năm gần đây do có sự chuyển đổi các trường bán công lên công lập số lượng giáo viên thuyên chuyển nhiều (trong năm học 2010-2011, 2011-2012 nhà trường có đến 14 giáo viên thuyên chuyển). Mặt khác do lịch sử để lại nên các bộ môn trong nhà trường vẫn còn hiện tượng thừa thiếu cục bộ nên có những bộ môn phải hợp đồng thêm giáo viên giảng dạy. - Chất lượng đầu vào rất thấp lại không đồng đều giữa các vùng miền trong huyện. (HS thi không có điểm liệt là được tuyển vào học cấp 3) - Công tác quản lý việc bồi dưỡng học sinh giỏi đã đi vào nề nếp nhưng chế độ hỗ trợ cho giáo viên giảng dạy còn thấp, nên nó có ảnh hưởng đến hiệu quả cũng như tính chiến lược lâu dài của công tác này. 2.4. Một số vấn đề đặt ra trong việc tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường THPT Cầm Bá Thước. Trên cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và xuất phát từ những thực trạng của công tác tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi, chúng tôi nhận thấy có một số vấn đề đặt ra là: -Tăng cường nâng cao nhận thức cho các cấp quản lý, giáo viên và cha mẹ học sinh về việc tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi. - Cần xây dựng một đội ngũ giáo viên dạy giỏi. - Tổ chức các hình thức bồi dưỡng học sinh giỏi. - Tăng cường bảo quản sử dụng cơ sở vật chất, thiết bị dạy học - Tăng cường công tác kiểm tra đánh giá và thi đua khen thưởng Những vấn đề nêu trên được giải quyết trong chương 3.
13
CHƯƠNG 3 MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI Ở TRƯỜNG THPT CẦM BÁ THƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY. 3.1. Tăng cường nâng cao nhận thức cho các cấp quản lý, giáo viên và cha mẹ học sinh về việc tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi. 3.1.1. Nội dung nâng cao nhận thức: Ban giám hiệu cần nắm vững và làm cho giáo viên, phụ huynh, học sinh hiểu đúng về chính sách nhân tài của Đảng, hệ thống các văn bản về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi của Nhà nước của Bộ GD&ĐT và các cơ quan chỉ đạo khác. Ngoài ra cần nắm vững được các giai đoạn phát triển của năng khiếu, tài năng cũng như các đặc trưng của người có năng khiếu, đặc điểm tâm sinh lý của học sinh giỏi, học sinh năng khiếu, nhận thức được vị trí, vai trò trách nhiệm của mình để có phương pháp bồi dưỡng, định hướng cho học sinh phát triển tự nhiên, toàn diện. 3.1.2. Hình thức để nâng cao nhận thức: Quán triệt hệ thống văn bản, chính sách của Đảng và nhà nước cũng như những cơ sở lý luận của công tác tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi Bồi dưỡng nhân tài. Nhà trường định kỳ tổ chức các buổi sinh hoạt cho cha mẹ học sinh để học trao đổi kinh nghiệm chăm lo dạy bảo con em trong thời gian tự học ở nhà, đồng thời tạo được mối quan hệ tốt giữa nhà trường gia đình. 14
Phát động phong trào tự học, tự bồi dưỡng, tự hiểu để nâng cao nhận thức về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi và coi đó là một trong những tiêu chí để đánh giá xếp loại cán bộ quản lý và giáo viên . Tổ chức cho giáo viên dạy học sinh giỏi học tập, giao lưu với những trường có nhiều thành tích trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi. 3.2. Xây dựng đội ngũ giáo viên dạy giỏi 3.21. Tuyển chọn đội ngũ giáo viên dạy bồi dưỡng: Hàng năm các tổ chuyên môn giới thiệu cho Ban giám hiệu các cán bộ giáo viên tham gia dạy các đội tuyển để từ đó làm cơ sở cho việc quyết định cử giáo viên dạy bồi dưỡng. Tuyển chọn và phân công giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi là việc quan trọng trong việc tổ chức của Ban giám hiệu . Để đảm bảo tính khách quan và khoa học, việc tổ chức tuyển chọn phân công giáo viên tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi cần phải căn cứ vào những tiêu chí cụ thể sau: - Nhiệt tình, yêu nghề, yêu trẻ, có tâm huyết với công việc có kỹ năng thiết kế bài dạy, có ý thức tự học, tự bồi dưỡng. - Có sức khỏe, tự tin, có kinh nghiệm, có năng lực giao tiếp và hiểu học sinh. - Giáo viên có học sinh giỏi các cấp. - Giáo viên đạt danh hiệu và giờ dạy giỏi các cấp.
15
- Được giới thiệu từ nhóm, tổ bộ môn, có kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng HSG . - Thông qua kênh thông tin học sinh và các kênh khác. 3.2.2. Tổ chức bồi dưỡng giáo viên dạy học sinh giỏi: Đầu năm học, Hiệu trưởng nhà trường ra quyết định phân công giáo viên dạy bồi dưỡng các bộ môn ở các khối lớp, và giao cho ban chuyên môn phối hợp với tổ bộ môn, giáo viên cốt cán có trách nhiệm soạn thảo kế hoạch và chương trình cho các lớp ôn luyện thi đại học và bồi dưỡng học sinh giỏi.Việc tổ chức bồi dưỡng cho giáo viên bằng những công việc, hoạt động chủ yếu như sau: - Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn các giáo viên dạy bồi dưỡng phải thường xuyên trao đổi và thống nhất bổ sung, cập nhập chương trình bồi dưỡng. - Cập nhật tài liệu, thông tin về bồi dưỡng học sinh giỏi. - Giao nhiệm vụ, khuyến khích tự xây dựng chương trình, tự bồi dưỡng. - Kiểm tra đánh giá chất lượng giảng dạy, bồi dưỡng, chất lượng học sinh. Ban giám hiệu cần tạo mọi điều kiện thuận lợi về mặt thời gian để giáo viên dạy bồi dưỡng có thể tham gia các chuyên đề về bồi dưỡng học sinh gỏi do Sở tổ chức cũng như có thời gian tự học, tự đọc để cập nhật kiến thức. -Tăng cường công tác thao giảng chọn giáo viên giỏi các cấp để phát hiện và bồi dưỡng giáo viên dạy giỏi các môn. Đồng thời qua thao giảng dự giờ dạy bồi dưỡng Ban giám hiệu và đồng nghiệp có thể trao đổi, góp ý và bổ sung kịp thời kiến thức còn thiếu hoặc chưa cập nhật.
16
-Tổ chức viết sáng kiến kinh nghiệm và làm đồ dùng dạy học để giáo viên có điều kiện thể hiện tài năng của mình và cũng là dịp để trao đổi học hỏi lẫn nhau. 3.3. Tổ chức xây dựng hệ thống tiêu chuẩn dự tuyển, thực hiện các qui trình phát triển tuyển chọn và các hình thức bồi dưỡng học sinh giỏi. 3.3.1. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn dự tuyển học sinh giỏi Do điều kiện về mặt kinh tế, xã hội, trình độ dân trí của địa phương nơi trường THPT Cầm Bá Thước đóng (như đã nêu) chúng tôi đã xây dựng hệ thống tiêu chuẩn dự tuyển học sinh giỏi tập trung trong một số tiêu chí sau: - Có các giải văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao bậc học THCS . - Có thành tích học tập toàn diện hoặc từng môn, từng lĩnh vực loại giỏi hoặc xuất sắc ở cấp dưới và lớp dưới. - Giữ vững được thành tích học tập trong đội dự tuyển theo mức độ yêu cầu của nhà trường và giáo viên phụ trách. - Phẩm chất đạo đức tốt có ý chí vươn lên trong học tập vươn . 3.3.2 Xây dựng và tổ chức thực hiện các qui trình phát triển tuyển chọn học sinh giỏi. Với đặc thù của trường THPT Cầm Bá Thước, trong những năm qua chúng tôi đã sử dụng phương pháp và cách thức phát hiện và tuyển chọn học sinh giỏi, xuất phát từ nhiều luồng thông tin, kinh nghiệm, cảm quan riêng của nghề nghiệp cho tất cả các bộ môn, cụ thể thông qua các điểm sau:
17
- Thầy cô giáo cũ - Các hình thức thi tuyển - Giảng dạy trên lớp - Qua các bài kiểm tra - Kết quả học tập lớp dưới - Trao đổi với gia đình, người thân, qua bạn bè học sinh - Bằng cảm quan, kinh nghiệm của giáo viên - Các kênh thông tin khác. Sau đó chúng tôi tiến hành lập danh sách học sinh dự tuyển và tiến hành thi tuyển theo đề thi của nhà trường. Dựa vào kết quả thi tuyển nhà trường lập danh sách chính thức cho các đội tuyển (nếu lớp 12 sẽ tham gia các kỳ thi cấp tỉnh, nếu lớp 10 và lớp 11 sẽ được tiếp tục bồi dưỡng tạo nguồn cho các năm học tiếp theo). 3.3.3. Tổ chức đào tạo và bồi dưỡng học sinh giỏi: Có nhiều hình thức bồi dưỡng học sinh giỏi, song theo chúng tôi, cần kết hợp nhuần nhuyễn các hình thức, phương pháp: - Bồi dưỡng thông qua học chính khoá. - Bồi dưỡng thông qua học ngoại khoá - Giao cho học sinh đọc và xử lý tài liệu, làm các bài tập thông qua tài liệu, đồ dùng trực quan. - Thành lập các lớp bồi dưỡng - đội tuyển theo môn. 18
- Thông qua các cuộc thi tìm hiểu kiến thức văn hoá và hiểu biết xã hội. - Giao cho 01 giáo viên phụ trách 01 môn/ khối kết hợp với phân chia nhiều giáo viên cùng giảng dạy bồi dưỡng một môn (mỗi giáo viên phụ trách một mảng vấn đề). Ngoài ra giáo viên còn thực hiện việc bồi dưỡng học sinh giỏi bằng cách khuyến khích học sinh suy nghĩ và phát triển lòng tự tin, niềm say mê khoa học trong các giờ học như: - Khích lệ học sinh đặt câu hỏi - Tổ chức các cuộc thảo luận trong nhóm - Tạo nên những tấm gương tốt cho học sinh noi theo. - Động viên học sinh hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ hàng ngày. Để giúp học sinh trở thành người tạo ra kiến thức, giáo viên nên sử dụng những phương pháp sau: - Động viên, khuyến khích học sinh có thể tự làm sáng tỏ các vấn đề trong các bài học. - Sử dụng nhiều phương pháp dạy học, đưa ra nhiệm vụ có tính chất thử thách, động viên những ý kiến và câu hỏi có tính đổi mới, sáng tạo Để có kết quả cao trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi cần thông qua môi trường hoạt động học tập. Có thể lồng các phần trong chương trình chuyên sâu vào để học sinh tự học trong các nhóm. Nhà trường cần bố trí thời gian hợp lý để tổ chức các chương trình học tập bổ sung đáp ứng nhu cầu của học sinh giỏi. Điều này đòi hỏi nội dung chương
19
trình trong đó có tri thức và kỹ năng được thiết kế chặt chặt chẽ. Cần có bài tập và hoạt động có tính thử thách để phát huy bộ óc thông minh, sáng tạo, say mê. Cần phát triển các chương trình chuyên sâu để bổ sung cho các chương trình chuẩn, các chương trình chuyên sâu nên giành cho các học sinh có nguyện vọng và có thể tổ chức sau giờ học chính khoá hoặc dạy ở một lớp riêng. Quy trình xây dựng nội dung chương trình được tiến hành như sau: + Lập ban chỉ đạo xây dựng nội dung chương trình bồi dưỡng do Hiệu trưởng làm trưởng ban, các giáo viên bồi dưỡng, tổ trưởng chuyên môn, giáo viên lâu năm có kinh nghiệm làm ban viên. + Xây dựng nội dung chương trình bồi dưỡng học sinh giỏi trên cơ sở kiến thức cơ bản, xác định rõ mục tiêu yêu cầu cần bồi dưỡng về kiến thức, kỹ năng, phát triển tư duy cho học sinh giỏi. + Dựa vào định hướng nội dung bồi dưỡng học sinh giỏi của Bộ Giáo dục và Đào tạo; Sở giáo dục và Đào tạo, từ đó chọn tài liệu để xây dựng chương trình. + Sau mỗi năm, mỗi kỳ thi nên tổ chức đúc rút kinh nghiệm cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ngày càng đạt hiệu quả cao. 3.4. Tổ chức các cuộc thi học sinh giỏi cấp trường và tổ chức đội tuyển thi học sinh giỏi các cấp. 3.4.1. Tổ chức các cuộc thi học sinh giỏi cấp trường: Tiến hành 1lần/ năm giành cho học sinh cả 3 khối với 3 kỳ thi chính: Văn hoá, thể thao và QP-AN . Đối với khối 12 được tổ chức vào cuối tháng 11 qua đó