So sánh các quy chế thi đại học từng năm

(LSVN) - Thời gian tối đa để sinh viên hoàn thành khóa học được quy định trong quy chế của cơ sở đào tạo, nhưng không vượt quá 02 lần thời gian theo kế hoạch học tập chuẩn toàn khóa đối với mỗi hình thức đào tạo. Đối với sinh viên học liên thông đã được miễn trừ khối lượng tín chỉ tích lũy, thời gian tối đa để sinh viên hoàn thành khóa học được xác định trên cơ sở thời gian theo kế hoạch học tập chuẩn toàn khóa giảm tương ứng với khối lượng được miễn trừ.

So sánh các quy chế thi đại học từng năm

Kể từ ngày 03/5/2021, việc tổ chức và quản lý đào tạo trình độ đại học đối với các khóa tuyển sinh sau ngày này được thực hiện theo Quy chế đào tạo trình độ đại học ban hành kèm theo Thông tư số 08/2021/T-BGDĐT ngày 18/3/2021 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Các quy định tại Quy chế này là căn cứ để giám đốc đại học, học viện, hiệu trưởng trường đại học; trường của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội có nhiệm vụ đào tạo đại học (gọi chung là cơ sở đào tạo) xây dựng và ban hành các văn bản quy định cụ thể (quy chế của cơ sở đào tạo), bao gồm việc tổ chức đào tạo trình độ đại học và cả trình độ đào tạo đối với một số ngành đào tạo chuyên sâu đặc thù quy định tại điểm a khoản 1 Điều 14 Nghị định số 99/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học.

Dưới đây là một số nội dung chính của Quy chế đào tạo trình độ đại học vừa có hiệu lực thực hiện:

Chương trình đào tạo, thời gian học tập và phương thức tổ chức đào tạo

Các cơ sở đào tạo xây dựng chương trình đào tạo theo đơn vị tín chỉ, cấu trúc từ các môn học hoặc học phần (gọi chung là học phần), trong đó phải có đủ các học phần bắt buộc và đáp ứng chuẩn chương trình đào tạo theo quy định hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trong trường hợp đào tạo song ngành hoặc ngành chính - ngành phụ, chương trình đào tạo phải thể hiện rõ khối lượng học tập chung và riêng theo từng ngành.

Nội dung, chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo áp dụng chung đối với các hình thức, phương thức tổ chức đào tạo và đối tượng người học khác nhau. Đối với người đã tốt nghiệp trình độ khác hoặc ngành khác, khối lượng học tập thực tế được xác định trên cơ sở công nhận, hoặc chuyển đổi tín chỉ đã tích lũy và miễn trừ học phần trong chương trình đào tạo trước.

Chương trình đào tạo phải được công khai đối với người học trước khi tuyển sinh và khi bắt đầu khóa học; những thay đổi, điều chỉnh liên quan đến chương trình đào tạo được thực hiện theo quy định hiện hành và công bố trước khi áp dụng, không gây tác động bất lợi cho sinh viên.

Đối với mỗi hình thức đào tạo, chương trình đào tạo cần cung cấp kế hoạch học tập chuẩn toàn khóa để định hướng cho sinh viên. Cụ thể: thời gian theo kế hoạch học tập chuẩn toàn khóa đối với hình thức đào tạo chính quy phải phù hợp với thời gian quy định trong Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân, đồng thời bảo đảm đa số sinh viên hoàn thành chương trình đào tạo; thời gian theo kế hoạch học tập chuẩn toàn khóa đối với hình thức đào tạo vừa làm vừa học dài hơn tối thiểu 20% so với hình thức đào tạo chính quy của cùng chương trình đào tạo.

Thời gian tối đa để sinh viên hoàn thành khóa học được quy định trong quy chế của cơ sở đào tạo, nhưng không vượt quá 02 lần thời gian theo kế hoạch học tập chuẩn toàn khóa đối với mỗi hình thức đào tạo. Đối với sinh viên học liên thông đã được miễn trừ khối lượng tín chỉ tích lũy, thời gian tối đa để sinh viên hoàn thành khóa học được xác định trên cơ sở thời gian theo kế hoạch học tập chuẩn toàn khóa giảm tương ứng với khối lượng được miễn trừ.

Cơ sở đào tạo được lựa chọn, áp dụng phương thức tổ chức đào tạo như sau: đào tạo theo tín chỉ, áp dụng thống nhất cho tất cả các khóa và hình thức đào tạo; đào tạo theo niên chế, áp dụng thống nhất cho tất cả các khóa và hình thức đào tạo; áp dụng đào tạo theo tín chỉ cho một số khóa hoặc cho một hình thức đào tạo; áp dụng đào tạo theo niên chế cho một số khóa khác hoặc hình thức đào tạo còn lại.

Liên kết đào tạo

Việc liên kết đào tạo chỉ được thực hiện đối với hình thức vừa làm vừa học theo quy định tại khoản 22 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học. Không thực hiện việc liên kết đào tạo đối với các ngành thuộc lĩnh vực sức khỏe có cấp chứng chỉ hành nghề. Cơ sở chủ trì đào tạo và cơ sở phối hợp đào tạo phải đáp ứng các yêu cầu tối thiểu sau đây:

- Đối với cơ sở chủ trì đào tạo: (1) Đã được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng cơ sở giáo dục đại học bởi tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục hợp pháp và còn hiệu lực theo quy định; (2) Chương trình đào tạo dự kiến liên kết đào tạo đã được tổ chức thực hiện tối thiểu 03 khóa liên tục theo hình thức chính quy, từ khóa tuyển sinh năm 2024 yêu cầu chương trình đào tạo đã được công nhận đạt chuẩn chất lượng theo quy định hiện hành; (3) Bảo đảm đội ngũ giảng viên cơ hữu giảng dạy tối thiểu 70% nội dung, khối lượng chương trình đào tạo; (4) Đã ban hành quy định về liên kết và đã thẩm định các điều kiện bảo đảm chất lượng của cơ sở phối hợp đào tạo.

Các cơ sở đào tạo thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an không áp dụng các yêu cầu số 1 và 2 nói, nhưng chỉ được liên kết đào tạo với cơ sở giáo dục thuộc cùng bộ quản lý trực tiếp và phải có văn bản giao nhiệm vụ liên kết đào tạo của bộ quản lý trực tiếp.

- Đối với cơ sở phối hợp đào tạo: (1) Đáp ứng các yêu cầu về môi trường sư phạm, cơ sở vật chất, thiết bị, thư viện và cán bộ quản lý theo yêu cầu của chương trình đào tạo; (2) Đã có báo cáo tự đánh giá chất lượng cơ sở giáo dục gửi về cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định; từ khóa tuyển sinh năm 2024 yêu cầu đã được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng cơ sở giáo dục theo quy định hiện hành, trừ các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an.

Đào tạo trực tuyến

Cơ sở đào tạo được tổ chức các lớp học phương thức trực tuyến khi đáp ứng các quy định hiện hành về ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và tổ chức đào tạo qua mạng; có các giải pháp bảo đảm chất lượng và minh chứng về chất lượng tổ chức lớp học phương thức trực tuyến không thấp hơn chất lượng lớp học phương thức trực tiếp. Đối với đào tạo theo hình thức chính quy và vừa làm vừa học, tối đa 30% tổng khối lượng của chương trình đào tạo được thực hiện bằng lớp học trực tuyến. Trong trường hợp thiên tai, dịch bệnh phức tạp và các trường hợp bất khả kháng khác, việc học trực tuyến sẽ được thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Nghỉ học tạm thời và bảo lưu kết quả

Sinh viên được xin nghỉ học tạm thời và bảo lưu kết quả đã học trong các trường hợp sau: được điều động vào lực lượng vũ trang; được cơ quan có thẩm quyền điều động, đại diện quốc gia tham dự các kỳ thi, giải đấu quốc tế; bị ốm, thai sản hoặc tai nạn phải điều trị thời gian dài có chứng nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền theo quy định của Bộ Y tế; vì lý do cá nhân khác nhưng đã phải học tối thiểu 01 học kỳ ở cơ sở đào tạo và không thuộc các trường hợp bị xem xét buộc thôi học hoặc xem xét kỷ luật.

So với quy định tại Quy chế cũ ban hành kèm theo Quyết định 25/2006/QĐ-BGDĐT, Quy chế mới đã bổ sung trường hợp sinh viên được cơ quan có thẩm quyền điều động, đại diện quốc gia tham dự các kỳ thi, giải đấu quốc tế và sinh viên trong thời kỳ thai sản được nghỉ học tạm thời và bảo lưu kết quả học tập. Sinh viên nghỉ học tạm thời vì lý do cá nhân không còn phải đáp ứng yêu cầu về việc phải đạt điểm trung bình chung các học phần tính từ đầu khóa học không dưới 5,0.

Thời gian nghỉ học tạm thời vì nhu cầu cá nhân phải được tính vào thời gian học chính thức theo quy định.

Những sinh viên xin thôi học vì lý do cá nhân (trừ trường hợp bị xem xét buộc thôi học hoặc xem xét kỷ luật), nếu muốn quay trở lại học phải dự tuyển đầu vào như những thí sinh khác.

Điều kiện, thẩm quyền, thủ tục xét nghỉ học tạm thời, tiếp nhận trở lại học và cho thôi học; việc bảo lưu và công nhận kết quả học tập đã tích lũy đối với sinh viên xin thôi học được quy định cụ thể trong quy chế của cơ sở đào tạo.

Việc trao đổi sinh viên

Các cơ sở đào tạo xây dựng và ban hành quy định về việc công nhận lẫn nhau về quy trình đào tạo, nội dung đào tạo và giá trị của tín chỉ làm căn cứ cho phép sinh viên của cơ sở đào tạo này được học một số học phần tại cơ sở đào tạo khác và ngược lại (trao đổi sinh viên).

Trên cơ sở đánh giá và công nhận lẫn nhau, sinh viên của cơ sở đào tạo này có thể đăng ký thực hiện học một số học phần tại cơ sở đào tạo khác, nếu được hiệu trưởng của hai cơ sở đào tạo đồng ý với số lượng tín chỉ mà sinh viên tích lũy tại cơ sở đào tạo khác (nếu có) không vượt quá 25% tổng khối lượng của chương trình đào tạo.

Trong hợp tác đào tạo giữa các cơ sở đào tạo, việc đánh giá và công nhận lẫn nhau số lượng tín chỉ mà sinh viên tích lũy tại cơ sở phối hợp đào tạo khác không vượt quá 25% tổng khối lượng của chương trình đào tạo.

Điều kiện trao đổi sinh viên, hợp tác đào tạo, việc công nhận kết quả học tập và chuyển đổi tín chỉ cho sinh viên khi thực hiện chương trình đào tạo được quy định tại quy chế của cơ sở đào tạo và công khai trên trang thông tin điện tử của cơ sở đào tạo.

Công nhận tốt nghiệp và cấp bằng tốt nghiệp

Sinh viên được xét và công nhận tốt nghiệp khi có đủ các điều kiện sau:

(1) Tích lũy đủ học phần, số tín chỉ và hoàn thành các nội dung bắt buộc khác theo yêu cầu của chương trình đào tạo, đạt chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo;

(2) Điểm trung bình tích lũy của toàn khóa học đạt từ trung bình trở lên;

(3) Tại thời điểm xét tốt nghiệp không bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc không đang trong thời gian bị kỷ luật ở mức đình chỉ học tập.

Những sinh viên đủ điều kiện tốt nghiệp được hiệu trưởng cơ sở đào tạo ra quyết định công nhận tốt nghiệp và cấp bằng tốt nghiệp trong thời hạn 03 tháng tính từ thời điểm sinh viên đáp ứng đầy đủ điều kiện tốt nghiệp và hoàn thành nghĩa vụ với cơ sở đào tạo.

Hạng tốt nghiệp được xác định căn cứ vào điểm trung bình tích lũy toàn khóa được quy định tại khoản 5 Điều 10 của Quy chế này, trong đó, hạng tốt nghiệp của sinh viên có điểm trung bình tích lũy loại xuất sắc và giỏi sẽ bị giảm đi một mức nếu thuộc một trong các trường hợp sau: khối lượng của các học phần phải học lại vượt quá 5% so với tổng số tín chỉ quy định cho toàn chương trình; sinh viên đã bị kỷ luật từ mức cảnh cáo trở lên trong thời gian học.

Sinh viên đã hết thời gian học tập tối đa theo quy định nhưng chưa đủ điều kiện tốt nghiệp do chưa hoàn thành những học phần Giáo dục quốc phòng - an ninh hoặc Giáo dục thể chất hoặc chưa đạt chuẩn đầu ra về ngoại ngữ, công nghệ thông tin, trong thời hạn 03 năm tính từ khi thôi học được hoàn thiện các điều kiện còn thiếu và đề nghị xét công nhận tốt nghiệp.

Sinh viên không tốt nghiệp được cấp chứng nhận về các học phần đã tích lũy trong chương trình đào tạo của cơ sở đào tạo.

Quy chế của cơ sở đào tạo quy định cụ thể các nội dung sau: quy trình, thủ tục xét và công nhận tốt nghiệp, thời gian và số lần xét tốt nghiệp trong năm; việc bảo lưu, công nhận kết quả học tập đã tích lũy đối với sinh viên không tốt nghiệp; việc cho phép sinh viên hết thời gian học chính quy được chuyển qua học hình thức vừa làm vừa học, đào tạo từ xa tương ứng (nếu có) của cơ sở đào tạo nếu còn trong thời gian học tập theo quy định đối với hình thức đào tạo chuyển đến.

Xử lý vi phạm đối với sinh viên

Sinh viên có gian lận trong thi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập sẽ bị xử lý kỷ luật đối với từng học phần đã vi phạm theo các quy định của Quy chế thi tốt nghiệp trung học phổ thông hiện hành do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.

Sinh viên thi hộ hoặc nhờ người thi hộ đều bị kỷ luật ở mức đình chỉ học tập 01 năm đối với trường hợp vi phạm lần thứ nhất và buộc thôi học đối với trường hợp vi phạm lần thứ hai.

Người học sử dụng hồ sơ, văn bằng, chứng chỉ giả làm điều kiện trúng tuyển hoặc điều kiện tốt nghiệp sẽ bị buộc thôi học; văn bằng tốt nghiệp nếu đã được cấp sẽ bị thu hồi, hủy bỏ.

ThS NGUYỄN THỊ NHUNG

Trường Đại học Tân Trào

Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn về khởi kiện vụ án dân sự

Khi trộm đột nhập vào nhà thì xử lý thế nào cho an toàn và đúng pháp luật?

(LSVN) - Trộm đột nhập vào nhà, đặc biệt là có hung khí là một tình huống rất nguy hiểm, có thể trở thành những vụ án giết người nghiêm trọng. Bởi vậy đối phó với trộm vào nhà là một tình huống không hề dễ với tất cả mọi người, điều này đòi hỏi cần phải có kĩ năng và có những hiểu biết nhất định về mặt pháp lý mới đảm bảo an toàn về thân thể cũng như an toàn về góc độ pháp lý.

So sánh các quy chế thi đại học từng năm

Có những vụ việc trộm đột nhập vào nhà, khi bị phát hiện thì đã sát hại nhiều người như vụ Lê Văn Luyện, Nguyễn Hải Dương,... Có những tình huống thì trộm nhí vào nhà nhưng chủ nhà đã dùng kiếm chém vào đầu khiến tên trộm nhí liệt nửa người, chủ nhà bị xử lý về tội “Giết người” như vụ việc xảy ra ở Tây Tựu, Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội. Một số tình huống thấy động, nghi ngờ có người trong bóng tối đã dùng dao kiếm, gạch đá ném vào dẫn đến thương tích cho người khác mà người đó chưa chắc đã phải là trộm, có thể là người trong gia đình... Bởi vậy, điều đầu tiên là chúng ta phải cần xác định tiếng động đó, bóng người đó có phải là kẻ gian hay không thì mới có cách xử lý, đối phó cho phù hợp.

Khi phát hiện có người lạ đột nhập vào nhà, chúng ta chưa thể khẳng định ngay đó là trộm mà cần phải kiểm tra xác minh xem người ta có vào nhầm nhà hay không, có phải là khách hay không, cũng có thể tiếng động, bóng đen đó chính là người trong gia đình mình. Cần phải làm rõ đó là ai, có nhiều thông tin thì mới có thể kết luận đó là người ngay hay kẻ gian. Để kết luận được việc đó thì tùy thuộc vào không gian, thời gian, địa điểm và đặc điểm của người lạ. Có những khi ta không nhìn thấy người mà chỉ thấy bóng, thấy tiếng động, những tình huống đó cần hết sức thận trọng kẻo tấn công nhầm phải người ngay.

Một đặc điểm của kẻ gian là rất sợ bị phát hiện, khi bị phát hiện thì phản xạ đầu tiên là bỏ chạy. Nếu không bỏ chạy được thì sẽ chống trả, các đối tượng đột nhập hiện nay thường mang theo hung khí nguy hiểm. Nếu bị bắt giữ thì có thể tấn công trở lại. Nên xử lý tình huống với kẻ gian đột nhập phải hết sức thận trọng, trên nguyên tắc là phải đảm bảo an toàn cho bản thân mình và người khác, thu thập càng nhiều dấu vết, thông tin của đối tượng để bắt giữ hoặc để cơ quan chức năng truy xét. Việc bắt giữ đối tượng khi tương quan lực lượng không có lợi, khi chủ nhà không đủ sức, không ở lợi thế thì rất có thể sẽ gặp nguy hiểm. Bởi vậy, kỹ năng xử lý tình huống trộm đột nhập là yếu tố sống còn để quyết định việc bắt trộm có an toàn hay không.

Trong trường hợp phát hiện người lạ đột nhập thì đơn giản nhất là chúng ta có thể hô hoán và giữ khoảng cách để xác định xem người đó là ai. Trong trường hợp người lạ là kẻ gian thì sẽ bỏ chạy hoặc có thể tấn công lại chúng ta. Trong hai tình huống này thì chúng ta sẽ có những xử trí khác nhau tùy thuộc vào khả năng và tương quan lực lượng giữa hai bên.Trường hợp nếu chúng ta có thể nấp ở một chỗ an toàn, phát hiện ra người lạ nghĩ là trộm thì có thể hô hoán để kẻ trộm bỏ chạy. Nếu chúng ta có sức khỏe, có lực lượng, có vũ khí có thể bắt giữ được đối tượng thì sẽ tìm cách bắt giữ, nhưng vấn đề an toàn là vấn đề đầu tiên phải đặt ra... Trường hợp trộm đột nhập vào phòng ngủ, trên tay có hung khí, khoảng cách giữa tên trộm và chủ nhà quá gần mà chủ nhà không đủ khả năng để bắt giữ thì có thể chọn giải pháp là “giả chết”. Tình huống này, nếu tên trộm yêu cầu đưa chìa khóa, mở két sắt thì cũng có thể phải chấp nhận tình huống theo yêu cầu của chúng để đảm bảo an toàn tính mạng. Khi có thời cơ thì bỏ chạy hoặc chạy trốn vào một phòng nào đó đóng kín để bảo toàn tính mạng của bản thân và người khác... Còn trường hợp có đủ khả năng chống trả hoặc có đủ thời gian điều kiện để nhốt trên trộm trong một căn phòng nào đó thì chúng ta cần thực hiện như vậy vừa đảm bảo an toàn bản thân, giữ được tài sản mà lại bắt được tên trộm một cách an toàn.

Một số người không hiểu pháp luật nên sợ khi bắt trộm lại vướng vào pháp luật, không may tên trộm bị thương tích hoặc thiệt mạng thì bản thân lại dính vào vòng lao lý. Tuy nhiên pháp luật quy định rất rõ ràng các trường hợp được phòng vệ, tự vệ, bắt người phạm tội quả tang. Bộ luật Hình sự quy định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong đó có trường hợp phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, gây thiệt hại khi bắt giữ tội phạm. Chúng ta cần tìm hiểu các quy định của pháp luật để biết giới hạn mà pháp luật cho phép công dân được sử dụng vũ lực để chống trả lại các hành vi vi phạm pháp luật hoặc bắt giữ các đối tượng phạm tội quả tang.

Dưới góc độ pháp lý thì pháp luật cho phép người dân được quyền bắt người phạm tội quả tang. Tuy nhiên phải biết rõ đó là người đang thực hiện hành vi phạm tội, có thể là đang trộm cắp tài sản hoặc trên thân thể có mang dấu vết của tội phạm như có vật chứng, có hung khí, người dính máu,... Khi đó người dân có quyền khống chế, bắt giữ, thậm chí có thể gây thương tích nếu không còn cách nào khác để bắt giữ đối tượng nguy hiểm. Trong những trường hợp sử dụng vũ lực như thế này một cách cần thiết thì pháp luật cho phép và đây là trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015. Cụ thể như sau:

Điều 22. Phòng vệ chính đáng

1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.

Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.

2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.

Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này.

Như vậy, việc phòng vệ có thể được xác định là chính đáng hoặc không chính đáng. Phòng vệ chính đáng được loại trừ trách nhiệm hình sự phải là hành vi chống trả một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người khác. Hành vi xâm phạm đó phải đang diễn ra và việc sử dụng vũ lực để chống trả một cách cần thiết phải là ở mức độ tương xứng. Khi đối tượng không còn nguy hiểm nữa hoặc tình huống nguy hiểm không còn thì không được phép sử dụng vũ lực.

Hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng mà gây thương tích hoặc gây thiệt mạng đến tính mạng của đối tượng thì sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật có thể là tội “Cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” hoặc “Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng”.

So sánh các quy chế thi đại học từng năm

Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng văn phòng Luật sư Chính pháp.

Thời gian qua, một số địa phương xảy ra tình trạng người dân bắt trộm (chủ yếu là trộm chó), sau đó trói lại, đánh đập, đốt xe dẫn đến tên trộm thương tích nghiêm trọng hoặc thiệt hại đến tính mạng, tài sản. Rất nhiều vụ việc người dân bắt trộm từ đúng thành sai. Ngoài việc xử lý đối tượng phạm tội về hành vi trộm cấp tài sản thì cơ quan chức năng đã khởi tố, xử lý đối với người đánh trộm về tội “Giết người”, cố ý gây thương tích, hủy hoại tài sản, gây rối trật tự công cộng. Nếu trường hợp họ bắt giữ được đối tượng phạm tội rồi giao nộp ngay cho cơ quan chức năng thì hành vi của họ là hợp pháp và pháp luật ghi nhận. Trường hợp sử dụng vũ lực trong tình huống đối tượng phạm tội quả tang không còn chống trả nữa là pháp luật không cho phép, kể cả việc đập phá tài sản của đối tượng phạm tội cũng là hạnh vi phạm pháp luật. Về nguyên tắc thì người phạm tội quả tang, người đang bị truy nã thì bất cứ ai cũng có quyền bắt giữ, pháp luật còn khuyến khích công dân bắt giữ tội phạm quả tang, bắt người đang bị truy nã nhưng phải đảm bảo an toàn cho bản thân và cho đối tượng phạm tội.

Pháp luật không cho phép công dân sử dụng một hành vi vi phạm pháp luật để đáp trả lại một hành vi vi phạm pháp luật. Việc xử lý tội phạm, áp dụng các chế tài hành chính hoặc hình sự là trách nhiệm, thẩm quyền của cơ quan chức năng. Nghiêm cấm hành vi người dân “tự xử”, tự mình kết luận sự việc và gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác dù người đó là người vi phạm pháp luật. Hành vi trộm cắp tài sản, thậm chí cướp tài sản là hành vi vi phạm pháp luật, nhưng không vì thế mà người dân (nạn nhân) có quyền gây thương tích hoặc sát hại đối tượng gây án một cách trái pháp luật. Nói cách khác, pháp luật không cho phép người dân được tự xử, việc xử lý đối tượng vi phạm pháp luật phải do cơ quan có thẩm quyền và theo trình tự thủ tục luật định. Việc phòng vệ được coi là chính đáng nếu như tình huống đó đối tượng đang gây nguy hiểm cho người khác vào việc chống trả ở mức độ cần thiết.

Thực tế những năm gần đây nhiều trường hợp bắt giữ đối tượng phạm tội quả tang đã gây thương tích, gây thiệt hại cho đối tượng phạm tội, nhiều người cũng đã bị xử lý trước pháp luật, có những tình huống gây tranh cãi. Do đó, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bổ sung thêm một số trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong đó có trường hợp gây thiệt hại khi bắt giữ phạm tội.

Với quy định mới của Bộ luật Hình sự hiện nay thì trong quá trình bắt giữ đối tượng phạm tội quả tang thì người bắt giữ cũng có thể gây ra thương tích, thiệt hại cho đối tượng mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên việc gây ra thương tích, gây thiệt hại này phải là tình huống không còn cách nào khác. Cụ thể Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng quy định như sau:

Điều 24. Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội

1. Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm.

2. Trường hợp gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự.

Đây là một trong những tình huống được loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Bởi vậy, xử lý tình huống khi trộm đột nhập không ai giống ai, không tình huống nào giống tình huống nào. Nhưng nguyên tắc cơ bản là phải đảm bảo an toàn cho bản thân, cho những người khác và được phép tấn công để bắt giữ, triệt tiêu vũ lực của đối tượng. Khi đối tượng không còn nguy hiểm nữa thì không được phép gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của đối tượng đó. Việc bắt giữ phải đảm bảo an toàn, nhanh chóng và giao nộp cho cơ quan chức năng xử lý theo quy định pháp luật.

Luật sư ĐẶNG VĂN CƯỜNG

Trưởng văn phòng Luật sư Chính pháp

Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn về khởi kiện vụ án dân sự

Cách thức hình thành án lệ tại Cộng hòa Pháp và kinh nghiệm cho Việt Nam

(LSVN) - Bài viết này đi sâu vào việc trình bày và so sánh cách thức hình thành án lệ tại Cộng hòa Pháp và Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả chỉ ra những điểm khác nhau trong quy trình ban hành án lệ giữa Cộng hòa Pháp và Việt Nam đồng thời rút ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam về vấn đề này.

So sánh các quy chế thi đại học từng năm

1. Tổng quan

Về mặt lý luận, án lệ không được thừa nhận là nguồn chính thức của luật trong hệ thống pháp luật Dân sự (Civil law) mà điển hình là Cộng hòa Pháp bởi vì những quốc gia này đề cao vai trò của luật thành văn. Là một trong những quốc gia theo hệ thống pháp luật Dân sự nên trong một thời gian dài án lệ cũng không được chính thức công nhận tại Việt Nam mặc dù trên thực tế việc tham khảo những quyết định do Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) ban hành vẫn được các Tòa án cấp dưới thực hiện trong quá trình thực hiện hoạt động xét xử của mình. Tuy nhiên, trong thực tế, án lệ ngày càng đóng vai trò quan trọng tại Pháp cũng như Việt Nam.

Điều này có nguyên nhân từ những khiếm khuyết của pháp luật thành văn. Trong trường hợp pháp luật không có quy định hoặc quy định không rõ ràng thì Thẩm phán được xem như là nhà lập pháp bổ sung hay nói cách khác là Thẩm phán có vai trò sáng tạo luật khi đưa ra những giải pháp pháp lý giải quyết những vụ việc cụ thể. Do vậy, xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn, việc xây dựng và ban hành án lệ ngày càng được quan tâm tại các nước theo hệ thống pháp luật Dân sự trong đó có nước ta. Hiện nay, án lệ đã được chính thức thừa nhận tại Việt Nam. Tuy nhiên, để được lựa chọn trở thành án lệ thì bản án, quyết định của Tòa án cần phải đáp ứng được một số tiêu chí nhất định đồng thời việc lựa chọn, công bố án lệ cũng phải được thực hiện theo đúng quy định. Trong phạm vi bài viết này, tác giả sẽ tập trung trình bày về cách thức hình thành án lệ tại Cộng hòa Pháp và Việt Nam từ đó rút ra một số kinh nghiệm cho nước ta về vấn đề này.

2. Cách thức hình thành án lệ tại Cộng hòa Pháp

Tùy thuộc vào đặc điểm văn hóa pháp lý của từng quốc gia mà quy định về cách thức hình thành án lệ sẽ khác nhau. Tại Pháp, án lệ trong lĩnh vực tư pháp được hình thành từ việc thực hiện thẩm quyền của Tòa phá án. Theo quy định tại Điều 4 Bộ luật Dân sự Pháp thì Thẩm phán không được từ chối việc xét xử trong trường hợp không có quy định của luật, luật quy định không rõ ràng hoặc không đầy đủ. Thẩm phán từ chối việc xét xử trong những trường hợp trên bị xem là tội phạm của tội phủ nhận công lý[1]. Khi các quy định của pháp luật đầy đủ, rõ ràng và cụ thể thì nhiệm vụ của Tòa án đơn giản là áp dụng chính xác các quy định đó. Tuy nhiên, nhìn chung các quy định của pháp luật thường không đủ để điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội phát sinh ở hiện tại và tương lai. Vậy nên, để thực hiện nhiệm vụ của mình, Thẩm phán phải thường xuyên giải thích các quy định của luật. Án lệ được hình thành từ việc giải thích luật của Tòa án trong quá trình thực hiện chức năng xét xử của mình. Nói cách khác, nhờ vào các cơ quan tư pháp mà đặc biệt là Tòa án mà án lệ xuất hiện[2]. Nhưng làm thế nào để giải pháp được đưa ra bởi một Thẩm phán có thể trở thành án lệ? Đó là vì khi giải thích một văn bản quy phạm pháp luật trong một vụ kiện mới, Thẩm phán sẽ có xu hướng lặp lại cách giải thích của mình trước đó. Nói cách khác là Thẩm phán thường có cùng cách giải thích luật và lặp đi lặp lại các lý do đưa ra để biện minh cho quyết định trước đây của mình. Điều này có thể dẫn đến tình trạng tồn tại nhiều cách giải thích khác nhau giữa các Thẩm phán đối với cùng một quy phạm pháp luật. Trong trường hợp này, vai trò của Tòa phá án sẽ được phát huy nhằm đảm bảo hoạt động xét xử được thống nhất trong toàn hệ thống[3]. Việc thực hiện thẩm quyền này của Tòa phá án được xem là nguồn gốc cho sự xuất hiện của án lệ. Nhìn chung, án lệ trong lĩnh vực tư pháp được hình thành từ việc thực hiện thẩm quyền của Tòa phá án theo ba cách thức như sau:

- Thứ nhất, là thẩm quyền giải quyết kháng cáo theo thủ tục giám đốc thẩm khi một trong các bên đương sự cho rằng bản án của Tòa phúc thẩm là trái luật. Theo đó, nếu một trong các bên cho rằng Tòa phúc thẩm đã đưa ra phán quyết trái luật thì họ có thể kháng cáo với Tòa phá án. Tùy theo tính chất của vụ tranh chấp mà kháng cáo sẽ được xem xét bởi một trong sáu Tòa chuyên trách thuộc Tòa phá án[4]. Tuy nhiên, nếu vấn đề pháp lý trong vụ tranh chấp đó có phạm vi thuộc thẩm quyền của nhiều Tòa chuyên trách hoặc phán quyết có nguy cơ đối lập với án lệ của Tòa chuyên trách khác thì sẽ được xem xét bởi một Tòa hỗn hợp[5].

Trong quá trình giải quyết kháng cáo theo thủ tục giám đốc thẩm, để đảm bảo việc áp dụng pháp luật thống nhất, Tòa phá án thường áp đặt cách giải thích luật của mình đối với Tòa án cấp dưới. Cụ thể, khi một vụ việc được xét xử lần đầu bởi Thẩm phán của Tòa án cấp dưới thì quyền kháng cáo lần thứ nhất được hình thành. Tòa phá án sẽ kiểm tra xem Thẩm phán Tòa án cấp dưới có xét xử đúng pháp luật hay không? Nếu cho rằng phán quyết của Tòa án cấp dưới chưa đúng pháp luật thì Tòa phá án sẽ hủy bản án và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án phúc thẩm khác để xét xử lại từ đầu.

Nếu Tòa án phúc thẩm được giao xét xử lại từ đầu có phán quyết phù hợp với quyết định của Tòa phá án thì chắc chắn sẽ không có kháng cáo lần thứ hai. Khi đó, vụ việc tranh chấp sẽ kết thúc. Ngược lại, trong trường hợp Tòa phúc thẩm được giao xét xử lại có quyết định khác với quyết định của Tòa phá án thì khi đó sẽ có thủ tục kháng cáo lần thứ hai. Kháng cáo lần hai này sẽ được xem xét lại bởi Hội đồng Thẩm phán Tòa phá án. Trong trường hợp này có hai khả năng xảy ra hoặc là Tòa phá án đồng ý với việc áp dụng pháp luật của Tòa phúc thẩm và bác bỏ việc kháng cáo; hoặc là vẫn giữ cách giải thích của Tòa phá án trong lần kháng cáo đầu tiên, hủy một lần nữa bản án của Tòa án cấp dưới và gửi cho một Tòa án khác cùng cấp với Tòa án đã xét xử giải quyết lại lần cuối cùng. Lần này, Tòa án được giao xét xử lại bắt buộc phải tuyên án theo quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa phá án.

Về nguyên tắc, khi vấn đề pháp lý mới được đặt ra trong lần kháng cáo đầu tiên, Tòa phá án cũng có thể quyết định họp Hội đồng Thẩm phán Tòa phá án nhằm làm tăng thêm giá trị cho giải pháp được đưa ra từ đó nhận được sự hợp tác nhanh hơn từ phía các Thẩm phán của Tòa án cấp dưới. Có thể thấy khi xem xét các phán quyết của Tòa án cấp dưới để kiểm tra tính đúng đắn trong việc áp dụng pháp luật, Tòa phá án sẽ đưa ra quan điểm của mình về cách giải thích nội dung của nó. Do đó, Tòa phá án dần dần áp đặt sự giải thích thống nhất đối với các quy phạm pháp luật. Mặc dù phải thừa nhận rằng các Tòa án cấp dưới độc lập trong việc xét xử theo cách giải thích luật của họ nhưng nếu sự giải thích đó khác với sự giải thích của Tòa phá án thì phán quyết của Tòa án cấp dưới có thể sẽ bị hủy bỏ khi nó bị kháng cáo. Theo tiến trình này thì việc giải thích luật của Tòa phá án đã làm xuất hiện án lệ[6].

- Thứ hai, là thủ tục thỉnh thị ý kiến của Tòa phá án được thực hiện bởi các Tòa án cấp dưới trước một vấn đề pháp lý mới phát sinh trong vụ việc cụ thể đang được giải quyết. Thủ tục này cho phép các Tòa án cấp dưới thỉnh thị ý kiến của Tòa phá án khi phát sinh một vấn đề pháp lý mới nhằm để tham khảo ý kiến trước khi đưa ra phán quyết[7]. Điều này sẽ giúp cho Tòa án cấp dưới nhận được ý kiến giải thích luật của Tòa phá án một cách nhanh chóng. Tuy nhiên, trong bất kỳ trường hợp nào thì việc giải thích luật phải được thực hiện trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp cụ thể. Về thủ tục, việc thỉnh thị ý kiến của Tòa phá án đã được quy định trong Luật ngày 12 tháng 5 năm 1992. Ý kiến được đưa ra bởi Tòa phá án không có giá trị ràng buộc đối với Thẩm phán cũng như không bắt buộc Thẩm phán phải thực hiện theo[8].

- Thứ ba, là thủ tục kháng nghị vì lợi ích của luật do các Công tố viên thực hiện tại Tòa phá án trong trường hợp bản án được xem là trái luật. Thủ tục này được quy định trong Luật ngày 3 tháng 7 năm 1967. Nó cho phép công tố viên tại Tòa phá án tự mình kháng nghị với Tòa phá án để chống lại bản án được cho là trái với quy định của luật. Trong trường hợp bản án bị hủy thì nó sẽ không phát sinh hiệu lực đối với các bên trong vụ kiện. Mục đích duy nhất của thủ tục này là nhằm đảm bảo cho các quy định pháp luật được giải thích một cách chính xác nhất[9].

Mặc dù hiện nay án lệ chưa được công nhận tại Pháp, nhưng thực tế cho thấy rằng để tránh việc bản án của mình bị hủy hoặc bị sửa, các Tòa án cấp dưới có xu hướng sử dụng các bản án của Tòa phá án như án lệ để giải quyết các vấn đề pháp lý một cách thống nhất. Tuy vậy, để trở thành án lệ các bản án của Tòa phá án phải được công bố theo quy định. Tùy thuộc vào tính chất của từng loại bản án mà các bản án của Tòa phá án có thể được công bố theo những hình thức như: phổ biến trên cơ sở dữ liệu của Tòa phá án; hoặc công bố trên bản thông tin của Tòa phá án; hoặc công bố trên bản tin của Tòa phá án; hoặc phổ biến trên cổng thông tin điện tử của Tòa phá án; hoặc phổ biến trong báo cáo hàng năm của Tòa phá án. Bên cạnh đó, án lệ còn có thể được công bố thông qua các nhà xuất bản tư nhân, ví dụ như “notes d’arrêts” đã xuất hiện từ thế kỷ XIX. Ngoài ra, bản án, quyết định của Tòa phá án còn được công bố trên trang web Légisfrance (cổng thông tin công cộng phổ biến pháp luật của Cộng Hòa Pháp: https://www.legifrance.gouv.fr/)[10].

3. Cách thức hình thành án lệ tại Việt Nam

Tại Việt Nam cách thức hình thành lệ lần đầu tiên được quy định tại Khoản 2 Mục II Điều 1 Quyết định số 74/QĐ-TANDTC năm 2012 Phê duyệt Đề án Phát triển án lệ của TANDTC. Theo đó, TANDTC lựa chọn những Quyết định giám đốc thẩm (sau đây gọi là QĐGĐT) của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (HĐTPTANDTC), QĐGĐT của các Tòa chuyên trách TANDTC đã ban hành có giá trị án lệ trình HĐTPTANDTC thông qua. Những quyết định được HĐTPTANDTC thông qua là án lệ, được đưa vào Tuyển tập án lệ để phát hành. Đồng thời, TANDTC lập kế hoạch xây dựng các QĐGĐT sẽ có giá trị án lệ, trước khi xét xử giao cho một bộ phận lựa chọn, đề xuất những vụ án điển hình có những vấn đề phức tạp cần giải quyết về pháp luật trình HĐTPTANDTC. Khi QĐGĐT được ban hành về những vụ án đó, đương nhiên quyết định trở thành án lệ và được đưa vào “Tuyển tập án lệ” để phát hành.

Sau Quyết định số 74/QĐ-TANDTC, khi án lệ chính thức được công nhận thì cách thức ban hành án lệ tiếp tục được quy định một cách chi tiết và cụ thể hơn. Theo đó, điểm c khoản 2 Điều 22 Luật tổ chức Toà án nhân dân 2014 thì HĐTPTANDTC có nhiệm vụ: “Lựa chọn QĐGĐT của HĐTPTANDTC, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”. Bên cạnh đó, Khoản 5 Điều 27 của cùng văn bản quy định Chánh án TANDTC có nhiệm vụ, quyền hạn: “Chỉ đạo việc tổng kết thực tiễn xét xử, xây dựng và ban hành Nghị quyết của HĐTPTANDTC bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử; tổng kết phát triển án lệ, công bố án lệ”. Từ những quy định nêu trên, có thể thấy việc ban hành án lệ trước hết phải được thực hiện bởi chủ thể có thẩm quyền là HĐTPTANDTC và Chánh án TANDTC. Điều này có nghĩa là bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án chỉ có thể trở thành án lệ khi và chỉ khi được HĐTPTANDTC thông qua và công bố bởi Chánh án TANDTC. Về quy trình, việc lựa chọn, công bố án lệ được quy định từ Điều 3 đến Điều 7 của Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ, cụ thể như sau:

Một là, đề xuất bản án, quyết định để phát triển thành án lệ. Cụ thể, các Tòa án có trách nhiệm tổ chức rà soát, phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án mình chứa đựng lập luận, phán quyết đáp ứng các tiêu chí lựa chọn án lệ theo quy định và gửi cho TANDTC để xem xét, phát triển thành án lệ. Bên cạnh đó, các cá nhân, cơ quan, tổ chức cũng có thể gửi đề xuất bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án chứa đựng lập luận, phán quyết đáp ứng các tiêu chí lựa chọn án lệ theo quy định cho TANDTC để xem xét, phát triển thành án lệ.

Hai là, lấy ý kiến đối với bản án, quyết định được đề xuất lựa chọn, phát triển thành án lệ. Theo đó, bản án, quyết định được đề xuất lựa chọn, phát triển thành án lệ, nội dung đề xuất là án lệ, dự thảo án lệ phải được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của TANDTC để các Tòa án, chuyên gia, nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn, cá nhân, cơ quan, tổ chức quan tâm tham gia ý kiến, trừ trường hợp bản án, quyết định được Thẩm phán TANDTC, Ủy ban Thẩm phán TANDCC đề xuất hoặc được HĐTPTANDTC lựa chọn khi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Ý kiến góp ý được gửi về Tòa án nhân dân tối cao. Thời gian lấy ý kiến góp ý là 30 ngày kể từ ngày đăng tải. Trên cơ sở kết quả lấy ý kiến rộng rãi đối với các bản án, quyết định được đề xuất lựa chọn, phát triển thành án lệ, nội dung đề xuất là án lệ, dự thảo án lệ, Chánh án TANDTC xem xét, quyết định việc lấy ý kiến của Hội đồng tư vấn án lệ.

Ba là, thành lập Hội đồng tư vấn án lệ để thảo luận, cho ý kiến đối với các bản án, quyết định được đề xuất lựa chọn, phát triển thành án lệ, nội dung đề xuất là án lệ, dự thảo án lệ. Để đảm bảo tính khoa học cho các án lệ được ban hành, những bản án, quyết định được đề xuất lựa chọn làm án lệ cần phải được Hội đồng tư vấn án lệ thảo luận và cho ý kiến trước khi được thông qua. Về thủ tục, Hội đồng tư vấn án lệ do Chánh án TANDTC thành lập gồm có ít nhất 9 thành viên. Chủ tịch Hội đồng là Chủ tịch Hội đồng khoa học TANDTC, 01 Phó Chủ tịch Hội đồng là Phó Chủ tịch Hội đồng khoa học TANDTC, các thành viên khác là đại diện Bộ Tư pháp, VKSNDTC, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, đại diện cơ quan, tổ chức có liên quan, các chuyên gia về pháp luật và 01 đại diện lãnh đạo Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học TANDTC (đồng thời là Thư ký Hội đồng). Trường hợp tư vấn án lệ về hình sự thì thành phần của Hội đồng tư vấn án lệ phải có đại diện Cơ quan điều tra của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng hoặc VKSNDTC.

Sau khi được thành lập, Hội đồng tư vấn án lệ có trách nhiệm thảo luận, cho ý kiến đối với các bản án, quyết định được đề xuất lựa chọn, phát triển thành án lệ, nội dung đề xuất là án lệ, dự thảo án lệ. Việc lấy ý kiến của Hội đồng tư vấn án lệ được thực hiện thông qua phiên họp thảo luận trực tiếp hoặc bằng văn bản. Chủ tịch Hội đồng tư vấn án lệ quyết định phương thức lấy ý kiến của các thành viên Hội đồng và báo cáo Chánh án TANDTC kết quả tư vấn.

Bốn là, thông qua án lệ. Trên cơ sở báo cáo của Hội đồng tư vấn án lệ, Chánh án TANDTC tổ chức phiên họp toàn thể HĐTPTANDTC để thảo luận, biểu quyết thông qua án lệ. Phiên họp HĐTPTANDTC phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia; quyết định của HĐTPTANDTC phải được quá nửa tổng số thành viên Hội đồng Thẩm phán biểu quyết tán thành. Kết quả biểu quyết phải được ghi vào biên bản phiên họp lựa chọn, thông qua án lệ của Hội đồng Thẩm phán và là căn cứ để Chánh án TANDTC công bố án lệ. Án lệ được xem xét thông qua khi được phát triển từ bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án và đã được lấy ý kiến theo quy định; hoặc được Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đề xuất; hoặc được Ủy ban Thẩm phán TANDCC đề xuất; hoặc được HĐTPTANDTC lựa chọn khi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm.

Năm là, công bố án lệ. Chánh án TANDTC ban hành quyết định công bố án lệ đã được HĐTPTANDTC thông qua. Án lệ được công bố phải bao gồm những nội dung như sau: số, tên án lệ; số, tên bản án, quyết định của Tòa án có nội dung được phát triển thành án lệ; tình huống pháp lý, giải pháp pháp lý của án lệ; quy định của pháp luật có liên quan đến án lệ; từ khóa về những tình huống pháp lý, giải pháp pháp lý trong án lệ; các tình tiết trong vụ án và phán quyết của Tòa án có liên quan đến án lệ; nội dung của án lệ. Án lệ được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân tối cao; được gửi cho các Tòa án, các đơn vị thuộc TANDTC và được đưa vào Tuyển tập án lệ để xuất bản.

Như vậy, có thể thấy việc hình thành án lệ tại Việt nam được quy định trải qua nhiều bước khá chặt chẽ và phức tạp với sự tham gia của nhiều chủ thể theo quy định pháp luật. Đây là sự khác nhau trong việc ban hành án lệ giữa Pháp và Việt Nam. Tại Pháp, việc hình thành án lệ không phải trải qua quy trình phức tạp như ở Việt Nam mà chỉ cần đảm bảo tính hợp lý về mặt nội dung. Yêu cầu đặt ra là những lập luận, quan điểm của Thẩm phán phải hợp lý, có tính khái quát cao và nhận được sự đồng thuận từ các Thẩm phán khác trở thành giải pháp pháp lý khắc phục cho sự khiếm khuyết của pháp luật thành văn.

Nếu so sánh với quy định trước đây trong Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP thì quy trình ban hành án lệ theo Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP đã quy định theo hướng tinh giảm hơn cũng như rút ngắn thời gian hơn rất nhiều như không còn quy định về thời gian tổ chức rà soát, phát hiện bản án, quyết định để đề xuất phát triển thành án lệ ; thu hẹp phạm vi rà soát bản án, quyết định của TAND các cấp ; đơn giản thủ tục và rút ngắn thời gian lấy ý kiến đối với bản án, quyết định được đề xuất lựa chọn, phát triển thành án lệ ; sự linh hoạt về hình thức lấy ý kiến của Hội đồng tư vấn án lệ ; bổ sung thủ tục rút gọn trong quy trình ban hành án lệ đối với một số trường hợp cụ thể theo quy định[11]. Tuy nhiên, nếu so sánh với cách thức hình thành án lệ của Pháp thì có thể thấy rằng quy định thủ tục ban hành án lệ tại Việt Nam hiện nay vẫn còn khá phức tạp. Điều này sẽ làm giảm hiệu quả của việc sử dụng án lệ như một nguồn bổ khuyết cho luật thành văn do việc ban hành án lệ còn chậm, không đáp ứng được yêu cầu thực tiễn xét xử của Tòa án. Do vậy, nếu có thể đơn giản hóa quy trình ban hành án lệ hơn nữa thì sẽ góp phần giảm bớt khó khăn cho các Tòa án trong quá trình xét xử, đảm bảo việc áp dụng pháp luật thống nhất và tạo sự công bằng trong xã hội.

3. Kết luận

Tóm lại, tùy thuộc vào đặc điểm pháp luật của từng quốc gia mà việc hình thành án lệ được thực hiện với một quy trình có mức độ phức tạp ít nhiều khác nhau. Có thể thấy cách thức hình thành án lệ giữa Cộng hòa Pháp và Việt Nam có nhiều điểm khác nhau. Theo đó, quy trình ban hành án lệ tại Việt Nam còn khá phức tạp. Do đó, việc đơn giản hơn nữa quy trình này là cần thiết vì sẽ giúp cho án lệ được ban hành nhanh chóng hơn từ đó góp phần bảo đảm được quyền và lợi ích chính đáng của người dân.

[1] Điều 4 Bộ luật dân sự Pháp quy định rằng : Thẩm phán từ chối xét xử vì lý do luật không có quy định hoặc luật quy định không rõ ràng có thể sẽ bị truy tố vì tội phủ nhận công lý.

[2] Xem thêm: Définition et rôle de la Jurisprudence, https://cours-de-droit.net/definition-et-role-de-la-jurisprudence-a121608810/, truy cập ngày 07/4/2021.

[3] Theo các Điều L.411-1 và L.411-2 Bộ luật tổ chức Tòa án thì Tòa phá án có nhiệm vụ chủ yếu là đảm bảo việc giải thích luật thống nhất trên toàn lãnh thổ nhằm bảo đảm sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật.

[4] Sáu Tòa chuyên trách thuộc Tòa phá án gồm: ba Tòa dân sự, Tòa thương mại, Tòa hình sự và Tòa xã hội.

[5] Xem thêm : Analyse et commentaire d’une décision de justice, https://webcache.googleusercontent.com/search?q=cache:-qQy0QaYZDcJ:https://www.letudiant.fr/boite-a-docs/telecharger/methodes-d-exercices-juridiques-donnees-de-base-1795+&cd=3&hl=vi&ct=clnk&gl=vn, truy cập ngày 07/4/2021.

[6] Définition et rôle de la Jurisprudence, tlđd.

[7] Xem thêm : Les avis de la Cour de cassation, https://www.courdecassation.fr/institution_1/presentation_2845/avis_cour_cassation_33784.html, truy cập ngày 07/4/2021 ; [8] Définition et rôle de la Jurisprudence, tlđd.

[9] Définition et rôle de la Jurisprudence, tlđd.

[10] Xem thêm: Nguyễn Thị Hồng Nhung (Chủ biên) (2018), Án lệ trong giải quyết vụ việc dân sự, NXB. ĐHQG TPHCM, trang 80-82.

[11] Xem thêm : Huỳnh Thị Nam Hải (2019), Bình luận một số quy định liên quan đến việc lựa chọn, ban hành và bãi bỏ án lệ tại Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 21 (Kỳ I tháng 11/2019), trang 21-23.