Sự khác nhau giữa ifrs và vas
So sánh tóm tắt chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) và chuẩn mực kế toán việt nam (VAS)- Một số khác biệt cơ bảnTheo quyết định số 345/QĐ-BTC ngày 16/03/2020 của Bộ Tài chính, sau năm 2025, một số đối tượng doanh nghiệp sẽ phải áp dụng hoàn toàn IFRS thay cho các VAS hiện tại. Một số doanh nghiệp được tự nguyện áp dụng IFRS từ năm 2022. Các thời điểm này đang đến rất gần và các doanh nghiệp thuộc phạm vi áp dụng nên có những bước chuẩn bị sớm. So sánh chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) và chuẩn mực kế toán việt nam (vas) có tương đối nhiều điểm khác biệt. Bài viết phân tích và chỉ ra các điểm khác biệt cơ bản nhất giữa hai hệ thống chuẩn mực này. Show
Chuẩn mực kế toán Hàng tồn kho (VAS 02 và IAS 2)Việt Nam hiện đã ban hành Chuẩn mực kế toán số 02 – Hàng tồn kho (VAS 02) tương ứng với Chuẩn mực kế toán quốc tế về hàng tồn kho (IAS 2). So với VAS 02, IAS 2 có điểm khác biệt chính nằm tại phạm vi áp dụng. Cụ thể, IAS 2 có loại trừ phạm vi áp dụng đối với công cụ tài chính, tài sản sinh học và các sản phẩm nông nghiệp tại thời điểm thu hoạch (được thực hiện theo Chuẩn mực về Nông nghiệp IAS 41). Trong khi đó, VAS 02 không có sự loại trừ về phạm vi áp dụng nên những tài sản có đặc thù riêng như trên chưa được điều chỉnh và phản ánh đúng bản chất, trong một số trường hợp không có căn cứ để xác định giá trị, như:
Chuẩn mực kế toán Tài sản cố định hữu hình (VAS 03 và IAS 16)Việt Nam hiện đã ban hành Chuẩn mực kế toán số 03 – Tài sản cố định hữu hình (VAS 03) tương ứng với Chuẩn mực kế toán quốc tế về tài sản cố định hữu hình (IAS 16). So với VAS 03, IAS 16 có một số điểm khác biệt sau đây: Phạm vi áp dụngIAS 16 không áp dụng đối với Tài sản sinh học liên quan đến các hoạt động nông nghiệp, TSCĐ hữu hình được phân loại là tài sản dài hạn nắm giữ để bán. Do Việt Nam chưa ban hành chuẩn mực riêng cho các tài sản trên nên vẫn áp dụng theo VAS 03, dẫn đến các tài sản chưa được phản ánh đúng bản chất và đặc thù, trong một số trường hợp không có căn cứ để xác định giá trị, như:
Nguyên giá TSCĐ hữu hìnhVAS 03 chưa đề cập đến các khoản ước tính ban đầu của chi phí phá hủy, điều chuyển tài sản, hoàn trả mặt bằng và khôi phục hiện trạng khi mua tài sản được tính vào nguyên giá TSCĐ hữu hình như quy định của IAS 16. Các khoản ước tính ban đầu của chi phí phá hủy, điều chuyển tài sản, hoàn trả mặt bằng và khôi phục hiện trạng phát sinh khi mua hoặc sử dụng tài sản thường là các nghĩa vụ pháp lý và không thể tránh khỏi tại thời điểm cuối vòng đời tài sản. Ví dụ tập đoàn Than có nghĩa vụ hoàn nguyên môi trường sau khi khai thác than và bô xít; Tập đoàn dầu khí có trách nhiệm thu dọn mỏ sau khi khai thác dầu ngoài khơi. Nếu các chi phí này không được dự tính trước để tính vào nguyên giá TSCĐ và khấu hao dần thì doanh nghiệp sẽ không có đủ nguồn lực để trang trải, tạo ra những rủi ro tài chính trong giai đoạn nhất định. Xác định giá trị sau ghi nhận ban đầuTheo IAS 16, TSCĐ hữu hình của doanh nghiệp có thể được ghi nhận và trình bày theo mô hình giá gốc hoặc mô hình đánh giá lại. Tuy nhiên, VAS 03 hiện nay chỉ mới quy định việc ghi nhận ban đầu và sau ghi nhận ban đầu của TSCĐ hữu hình đều theo mô hình giá gốc mà chưa có hướng dẫn về ghi nhận và trình bày TSCĐ hữu hình theo mô hình đánh giá lại ngoại trừ trường hợp cổ phần hóa, mang tài sản đi góp vốn hoặc giải thể, chia tách, sáp nhập. Chúng ta đều biết TSCĐ có giá trị và giá trị sử dụng. Trong một số trường hợp, giá trị của TSCĐ có sự khác biệt rất lớn so với giá trị sử dụng và nếu TSCĐ luôn được ghi nhận theo giá gốc trừ khấu hao lũy kế thì có thể không phản ánh đúng năng lực của doanh nghiệp. Như vậy, nếu TSCĐ luôn chỉ được ghi nhận theo mô hình giá gốc mà không được xem xét đánh giá lại thì trong những trường hợp này rõ ràng báo cáo tài chính không thể cung cấp thông tin hữu ích cho người sử dụng để đánh giá và đưa ra các quyết định một cách phù hợp với thực tiễn. Giảm giá trị tài sảnVAS 03 hiện nay chưa đề cập đến việc ghi nhận tổn thất do suy giảm giá trị TSCĐ hữu hình. Việc thiếu quy định về ghi nhận tổn thất tạo ra rủi ro lớn cho doanh nghiệp vì trong một số tình huống, giá trị còn lại của TSCĐ cao hơn rất nhiều so giá trị có thể thu hồi, thực chất doanh nghiệp đã rỗng ruột nhưng sổ sách thì vẫn phản ánh tài sản, tạo ra tình trạng lãi giả – lỗ thật. Mặt khác, việc chưa quy định về ghi nhận tổn thất tài sản là vi phạm một trong các nguyên tắc kế toán cơ bản là tài sản không ghi cao hơn giá trị có thể thu hồi, đơn giản vì nếu ghi cao hơn là ghi khống, đồng thời vi phạm nguyên tắc thận trọng của kế toán. |