Tại sao phải tạo thị trường cho khoa học công nghệ
Sau 5 năm triển khai thực hiện, Chương trình phát triển thị trường khoa học và công nghệ (KH và CN) đến năm 2020 đã đạt được một số kết quả ban đầu, góp phần thúc đẩy thị trường KH và CN phát triển với diện mạo mới, mang lại tác động tích cực về mặt KH và CN, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Chương trình phát triển thị trường KH và CN đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2075/QĐ-TTg ngày 8-11-2013. Mục tiêu của chương trình là tăng giá trị giao dịch mua bán các sản phẩm và dịch vụ KH và CN trên thị trường, tăng tỷ trọng giao dịch mua bán tài sản trí tuệ; thiết lập mạng lưới sàn giao dịch công nghệ. Chương trình đã thu hút được khoảng 45% nguồn kinh phí đối ứng từ các doanh nghiệp tham gia để phát triển công nghệ, qua đó cho thấy hiệu quả trong việc thúc đẩy hợp tác công tư, liên kết giữa tổ chức KH và CN với doanh nghiệp để phát triển thị trường KH và CN. Theo Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp KH và CN (Bộ KH và CN), kết quả của các nhiệm vụ nghiên cứu hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển thị trường KH và CN đã mang các cơ sở khoa học để chương trình có định hướng cho việc phát triển thị trường KH và CN thời gian tới. Thí dụ, mô hình định giá công nghệ ATWOM được xây dựng trên cơ sở định giá thử ba công nghệ ở Việt Nam thuộc lĩnh vực: Chế tạo máy, sinh học và năng lượng và đề xuất các giải pháp để có thể ứng dụng và phát triển mô hình trong điều kiện Việt Nam. Việc áp dụng mô hình định giá công nghệ sẽ giúp giải quyết nhu cầu của các tổ chức cung cấp dịch vụ định giá công nghệ, phục vụ các đơn vị có nhu cầu định giá công nghệ trong quá trình chuyển giao công nghệ, cấp bản quyền, sáp nhập, mua bán, tách hoặc liên doanh. Bên cạnh đó, nhóm nhiệm vụ này còn đề xuất giải pháp nâng cao năng lực đổi mới, chuyển giao, thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ trong trường đại học, giúp hướng tới hình thành phương pháp đánh giá năng lực tiếp thu, năng lực làm chủ công nghệ của các doanh nghiệp, phục vụ quá trình thương mại hóa kết quả nghiên cứu và phát triển công nghệ, sở hữu trí tuệ và phát triển thị trường KH và CN. Nhóm dự án phát triển, nâng cao năng lực hoạt động của tổ chức trung gian đã góp phần đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ xây dựng cơ sở dữ liệu về công nghệ, tài sản trí tuệ, thúc đẩy hoạt động liên kết các sàn giao dịch công nghệ. Có khoảng hơn 1.000 cán bộ làm việc trong các tổ chức trung gian là các trung tâm ứng dụng KH và CN, sàn giao dịch công nghệ, trường đại học, viện nghiên cứu được đào tạo các kỹ năng về thương mại hóa công nghệ, được phổ biến kiến thức về các văn bản pháp luật liên quan phát triển thị trường KH và CN. Đáng chú ý, chương trình đã hỗ trợ dự án “Thiết lập, duy trì và phát triển cơ sở dữ liệu thông tin trực tuyến về đối tượng sở hữu công nghiệp và công cụ khai thác phục vụ doanh nghiệp vừa và nhỏ”. Dự án đã góp phần thúc đẩy thị trường KH và CN thông qua việc cung cấp thông tin tin cậy và tư vấn kịp thời về tình trạng pháp lý của tài sản trí tuệ cho các doanh nghiệp Việt Nam, giúp các doanh nghiệp giảm tới mức thấp nhất rủi ro khi tham gia hoạt động giao dịch, mua bán công nghệ, chuyển nhượng. Để thúc đẩy hoạt động giao dịch của các sàn giao dịch công nghệ, một trong những dự án quan trọng là “Xây dựng hệ thống liên kết các sàn giao dịch công nghệ và thiết bị trực tuyến vùng duyên hải Bắc Bộ nhằm thúc đẩy thị trường công nghệ tại Việt Nam”. Dự án đã góp phần phát triển thị trường KH và CN bằng cách ứng dụng công nghệ thông tin trong việc kết nối mua, bán công nghệ để đẩy mạnh quá trình thương mại hóa sản phẩm công nghệ, thiết bị, kết quả nghiên cứu ra thị trường trên sàn giao dịch công nghệ. Nhóm dự án thương mại hóa công nghệ tập trung vào các lĩnh vực nông nghiệp, công nghệ thực phẩm, thủy sản, cơ khí chế tạo, điện tử, na-nô, y dược cho các viện, trường, và doanh nghiệp. Đây là một trong số các nhóm dự án được các tổ chức tham gia hưởng ứng cao bởi nhiều kết quả nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở quy mô phòng thí nghiệm và đang cần hỗ trợ chuyển tiếp sang giai đoạn sản xuất thử nghiệm trên quy mô công nghiệp, đánh giá thị trường, hợp chuẩn hợp quy… để có thể thương mại hóa. Các sản phẩm KH và CN hầu hết được đăng ký sở hữu trí tuệ, hoàn chỉnh hiệu chuẩn công nghệ để bảo đảm đủ tiêu chuẩn thương mại trên thị trường, tạo ra các sản phẩm có nhiều đặc tính kỹ thuật mới, góp phần tăng năng lực cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước. Tuy nhiên, theo Cục trưởng Phát triển thị trường và doanh nghiệp KH và CN Phạm Hồng Quất, từ thực tiễn triển khai đã đặt ra những yêu cầu cụ thể khi thiết kế chương trình cho giai đoạn tới. Đó là quy mô đầu tư và phạm vi tác động của chương trình cần được mở rộng để nhanh chóng đáp ứng yêu cầu đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp. Các kênh nhập khẩu và chuyển giao công nghệ cần được hình thành mới và phát triển một cách linh hoạt nhằm gia tăng tỷ trọng công nghệ trong cơ cấu công nghệ, thiết bị nhập khẩu, nhất là các thúc đẩy kênh nhập khẩu công nghệ từ khối các nước phát triển, đáp ứng nhu cầu công nghệ của thị trường trong nước. Các mô hình liên kết giữa viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp và Nhà nước trong hỗ trợ hoạt động thương mại hóa và chuyển giao kết quả KH và CN cần được xây dựng nhằm khai thác triệt để và có hiệu quả các nguồn cung công nghệ trong nước. Các tập đoàn sản xuất, các doanh nghiệp lớn, các hiệp hội ngành nghề cần được giao vai trò dẫn dắt và định hướng trong lựa chọn, tìm kiếm và đầu tư công nghệ phục vụ đổi mới sáng tạo theo chuỗi giá trị sản phẩm và hàng hóa. Ngoài ra, cần hoàn thiện hành lang pháp lý và cải cách thủ tục hành chính để thúc đẩy phát triển thị trường KH và CN thời gian tới. Ánh Tuyết Đại diện Bộ, ngành và chuyên gia tham gia phiên thảo luận về phát triển thị trường khoa học và công nghệ. (Ảnh : Mỹ Phương/TTXVN) Ngày 15/4, Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo “Tổng kết 10 năm phát triển thị trường khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020.” Hội thảo đã đánh giá những thành tựu, vướng mắc trong quá trình triển khai, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm trong phát triển thị trường khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020, trên cơ sở đó đưa ra những định hướng giai đoạn 2021-2030. Hoàn thiện cơ chế chính sách cho thị trường KHCN Trên cả nước có hơn 800 tổ chức trung gian của thị trường khoa học và công nghệ, trong đó số lượng sàn giao dịch công nghệ có sự phát triển mạnh mẽ. Nếu như trước năm 2015 chỉ có 8 sàn giao dịch công nghệ thì giai đoạn 2015-2020 đã hình thành 20 sàn giao dịch công nghệ địa phương, một sàn giao dịch vùng Duyên hải Bắc bộ, một sàn giao dịch vùng Đồng bằng sông Cửu Long đang trong giai đoạn thành lập. Cùng với việc phát triển các tổ chức trung gian truyền thống, các tổ chức kiểu mới cũng phát triển mạnh mẽ với 69 cơ sở ươm tạo, 28 chương trình thúc đẩy kinh doanh, loại hình không gian làm việc chung có 186 khu... Hoạt động thương mại hóa kết quả nghiên cứu từ khu vực viện, trường có xu hướng chuyển biến tích cực. Nhiều kết quả nghiên cứu đã được chuyển giao cho doanh nghiệp với doanh thu lên tới hàng chục thậm chí hàng trăm tỷ đồng. Điển hình trong giai đoạn 2011-2020, Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh có doanh thu từ hoạt động chuyển giao công nghệ đạt khoảng 1.300 tỷ đồng. Ông Trần Văn Tùng, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ đánh giá thị trường khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020. (Ảnh: Mỹ Phương/TTXVN)Còn theo Báo cáo Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2020, Việt Nam tiếp tục giữ vị trí thứ 42/131 quốc gia và nền kinh tế. Với thứ hạng này, Việt Nam giữ vị trí số một trong nhóm 29 quốc gia có cùng mức thu nhập và đứng thứ 3 khu vực Đông Nam Á. Trong bảng xếp hạng hệ sinh thái khởi nghiệp các quốc gia năm 2020, Việt Nam tăng 13 bậc, lên vị trí thứ 59 trên thế giới, hướng tới vị thế trung tâm khởi nghiệp hàng đầu khu vực Đông Nam Á. Ông Trần Văn Tùng-Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết, thị trường khoa học và công nghệ đã trải qua hơn 10 năm phát triển với nhiều thách thức nhưng cũng nắm bắt được cơ hội và thành tựu đáng khích lệ. Đặc biệt, việc từng bước hoàn thiện thể chế, chính sách và triển khai hỗ trợ nâng cao chất lượng nguồn cung-cầu và xây dựng cho các tổ chức trung gian thị trường khoa học và công nghệ. [Nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ, năng lực cạnh tranh quốc gia] Thị trường khoa học và công nghệ cũng đạt được nhiều kết quả rất đáng khích lệ như tốc độ gia tăng giá trị giao dịch công nghệ bình quân giai đoạn 2011-2020 là 22%. Trong đó, một số ngành tăng trưởng cao, gồm điện, điện tử máy tính ở mức tăng trưởng 46%; ngành chế biến gỗ, giấy (29%), ngành chế biến thực phẩm (28%)... Thị trường khoa học và công nghệ hình thành và bước đầu phát triển, có nhiều triển vọng sẽ hoạt động sôi nổi trên các sàn giao dịch. Ông Trần Văn Tùng cho biết thêm, giải pháp phát triển thị trường khoa học và công nghệ giai đoạn 2021-2030 là tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý, đẩy mạnh nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn. Qua đó, phát triển tổ chức trung gian của thị trường khoa học và công nghệ và phát triển nguồn cầu của thị trường khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực hấp thụ, làm chủ và đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Tiếp tục tháo gỡ rào cản Một số chuyên gia cho rằng, mặc dù hành lang pháp lý phát triển thị trường khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020 đã được hoàn thiện với nhiều kết quả nổi bật, song vẫn còn một số tồn tại cần tháo gỡ trong thời gian tới. Cụ thể, những nội dung hỗ trợ quy định trong Nghị định số 76/2018/NĐ-CP chưa được đưa vào các chương trình quốc gia liên quan để hiện thực hóa các cơ chế hỗ trợ. Còn Nghị định 70/2018/NĐ-CP hướng dẫn Luật Quản lý tài sản công quy định về xử lý tài sản là kết quả đề tài, dự án sử dụng ngân sách Nhà nước có quy định kết quả nghiên cứu được tạo ra từ ngân sách Nhà nước thì thuộc sở hữu của Nhà nước. Ngoài ra, kinh phí thu được từ việc thương mại hóa hầu hết phải nộp lại cho Nhà nước, chưa khuyến khích các nhà khoa học chuyển giao, thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Một vấn đề thách thức nữa là thông tin, thống kê dữ liệu về các giao dịch chuyển giao công nghệ tại các địa phương còn thiếu. Theo quy định của Luật Chuyển giao công nghệ, Hợp đồng chuyển giao công nghệ không bắt buộc phải đăng ký, trừ Hợp đồng chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam. Quy định này một mặt tạo môi trường thực sự tự do cho các doanh nghiệp trong giao kết hợp đồng chuyển giao công nghệ nhưng mặt khác là hoạt động chuyển giao công nghệ diễn ra tại các địa phương khó có thể nắm bắt. Phó Giáo sư, Tiến sỹ Sử Đình Thành, Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh thông tin về chiến lược đào tạo và phát triển khoa học và công nghệ tại trường. (Ảnh: Mỹ Phương/TTXVN)Ở góc độ giáo dục-đào tạo, theo Giáo sư, Tiến sỹ Sử Đình Thành,Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, trong chiến lược phát triển của nhà trường đã định hướng tái cơ cấu theo hướng đa ngành nghề, lĩnh vực và ưu tiên đào tạo những ngành khoa học và công nghệ. Đây cũng được xem là chiến lược đột phá của nhà trường trong việc chủ động bắt nhịp với xu hướng thị trường và sự thay đổi của các nước trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ lần thứ 4. Mặt khác, nhà trường sẽ không ngừng nỗ lực giải bài toán thương mại hóa sản phẩm khoa học và công nghệ bằng việc hợp tác cùng doanh nghiệp xây dựng viện, trung tâm nghiên cứu với hơn 20 nhóm khởi nghiệp đang hoạt động. Việc đẩy mạnh hoạt động hợp tác giữa nhà trường-nhà quản lý-doanh nghiệp sẽ góp phần gia tăng giá trị thương mại hóa sản phẩm khoa học và công nghệ hơn nữa. Thị trường khoa học và công nghệ là một bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế thị trường, có vai trò then chốt trong việc thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực khoa học và công nghệ, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, cũng như nền kinh tế. Trong đó, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo là chủ thể trung tâm trong hoạt động của thị trường, giao dịch và mua bán hàng hóa khoa học và công nghệ của doanh nghiệp đổi mới sáng tạo có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển sản xuất kinh doanh của các ngành nghề./. Mỹ Phương (TTXVN/Vietnam+) |