Top 100 người chơi nhl hôm nay năm 2022

The Honourable
Maurice Richard
PC CC OQ

Show

Top 100 người chơi nhl hôm nay năm 2022

Richard vào thập niên 1940

Nội dung chính Show

  • Những năm đầu đời[sửa | sửa mã nguồn]
  • Sự nghiệp thi đấu[sửa | sửa mã nguồn]
  • Cúp Stanley đầu tiên[sửa | sửa mã nguồn]
  • 50 bàn trong 50 trận[sửa | sửa mã nguồn]
  • Cầu thủ ghi điểm mọi thời đại[sửa | sửa mã nguồn]
  • Bạo loạn Richard[sửa | sửa mã nguồn]
  • Đội trưởng của triều đại[sửa | sửa mã nguồn]
  • Phong cách thi đấu[sửa | sửa mã nguồn]
  • Đời tư[sửa | sửa mã nguồn]
  • Bệnh tật và qua đời[sửa | sửa mã nguồn]
  • Di sản[sửa | sửa mã nguồn]
  • Thống kê sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]
  • Giải thưởng và vinh danh[sửa | sửa mã nguồn]
  • Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]
  • Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
  • Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
  • Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]
  • Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
  • Ai được coi là cầu thủ khúc côn cầu vĩ đại nhất mọi thời đại?
  • 10 cầu thủ NHL tốt nhất mọi thời đại là ai?
  • Ai đều có 500 bàn thắng trong lịch sử NHL?
  • Ai là cầu thủ NHL nhanh nhất đạt 1000 điểm?

Thông tin cá nhân
Biệt danhRocket
Quốc tịchCanada
Sinh4 tháng 8, 1921
Montréal, Québec, Canada
Mất27 tháng 5, 2000 (78 tuổi)
Montréal, Québec, Canada
Nơi mấtMontréal
45°30′06″B 73°36′22″T / 45,50178°B 73,60608°T
Năm hoạt động1942–1960
Cao5 ft 10 in (178 cm)
Nặng180 lb (82 kg; 12 st 12 lb)
Phối ngẫu

Lucille Norchet
(cưới 1942⁠–⁠1994)

Bạn đời sống chungSonia Raymond
(cuối đời)
Thể thao
Quốc giaCanada
Môn thể thaoKhúc côn cầu trên băng
Vị tríTiền đạo cánh phải
Giải đấuNational Hockey League
Câu lạc bộMontréal Canadiens
Giải nghệ1960
Thành tích và danh hiệu
Thành tích cá nhân tốt nhất8 lần vô địch Cúp Stanley
Cầu thủ đầu tiên ghi 50 bàn thắng trong 50 trận 1946
Cầu thủ xuất sắc nhất NHL 1947
Nguyên nhân của bạo loạn Richard 1955

Vinh danh

Đại sảnh Danh vọng Khúc côn cầu 1961
Huân chương Canada 1967
Đại sảnh Danh vọng Thể thao Canada 1975
Đại lộ Danh vọng Canada 1999

Joseph Henri Maurice "Rocket" Richard PC CC OQ (tiếng Anh: ; tiếng Pháp: [ʁiʃaʁ]; 4 tháng 8 năm 1921 – 27 tháng 5 năm 2000) là một vận động viên khúc côn cầu trên băng chuyên nghiệp người Canada đã chơi 18 mùa giải National Hockey League (NHL – Liên đoàn Khúc côn cầu Quốc gia) cho đội Montréal Canadiens (tiếng Pháp: Les Canadiens de Montréal). Ông là cầu thủ đầu tiên trong lịch sử NHL ghi được 50 bàn thắng trong một mùa giải 1944–45, kỳ tích trong 50 trận đấu và là cầu thủ đầu tiên ghi được 500 bàn thắng trong sự nghiệp. Năm 1960, Richard giải nghệ cầu thủ với tư cách là người dẫn đầu số bàn thắng mọi thời đại với 544 bàn. Ông nhận Cúp Hart cho cầu thủ xuất sắc nhất NHL năm 1947, được chơi 13 trận Toàn Ngôi Sao, có tên trong 14 đội hình Toàn Ngôi Sao NHL sau mùa giải, tám lần trong đội hình thứ nhất. Năm 2017, Richard được vinh danh là một trong 100 cầu thủ NHL vĩ đại nhất lịch sử.[1] Người em trai Henri cũng là cầu thủ của Canadiens, cả hai là đồng đội trong 5 năm cuối sự nghiệp của Maurice. Với biệt danh "Pocket Rocket" (Tên lửa bỏ túi), Henri cũng được sánh tên với anh trai mình trên Đại sảnh Danh vọng Khúc côn cầu.

Richard, Elmer Lach và Toe Blake tạo ra tuyến tiền đạo "Punch line" (Cú đấm) ghi điểm lớn vào thập niên 1940. Richard được đứng trong 8 đội vô địch Cúp Stanley, trong đó có kỷ lục năm lần liên tiếp 1956–1960; và mang băng đội trưởng trong bốn giải cuối. Đại sảnh Danh vọng Khúc côn cầu đã bỏ điều kiện phải đợi 5 năm sau khi dừng thi đấu và vinh danh Richard ngay năm 1961. Năm 1975, ông được vinh danh trong Đại sảnh Danh vọng Thể thao Canada. Năm 1960, đội Canadiens đã giữ lại số áo 9 của Richard. Năm 1999, đội tặng lại Cúp Maurice Richard cho NHL để trao hàng năm cho cầu thủ ghi bàn hàng đầu mùa giải.

Richard là con cả trong gia đình có 8 người con sống nghèo khó thời Đại khủng hoảng. Lúc ban đầu, ông bị coi là một cầu thủ yếu ớt. Dính chấn thương hàng loạt khiến ông không thể nhập ngũ tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai. Tính cách mãnh liệt, ông nổi tiếng với lối chơi thiên về thể chất, đôi khi có xu hướng bạo lực. Richard có liên quan đến sự cố ẩu đả trên sân cuối mùa giải 1954–55 khi đánh trọng tài biên. Chủ tịch NHL Clarence Campbell cấm Richard hết mùa giải và các trận playoff, dẫn đến sự chống đối của người hâm mộ bùng phát thành cuộc bạo loạn Richard[a] ở Montréal. Từ đó, cuộc bạo động trở thành biểu tượng hàng thập kỷ và được coi là tiền thân Cách mạng yên tĩnh ở Québec. Richard là biểu tượng văn hóa của cư dân nói tiếng Pháp tại Québec; huyền thoại về ông thành mô típ chính trong truyện ngắn Le chandail de hockey (Áo đấu khúc côn cầu) của Roch Carrier, một tác phẩm tiêu biểu trong văn hóa Canada. Năm 1998, Richard được chẩn đoán mắc ung thư dạ dày là nguyên nhân khiến ông qua đời hai năm sau đó. Ông là người đầu tiên không phải chính trị gia được tỉnh Québec vinh danh bằng lễ tang cấp nhà nước.

Những năm đầu đời[sửa | sửa mã nguồn]

Joseph Henri Maurice Richard sinh ngày 4 tháng 8 năm 1921 tại Montréal, Québec. Cha mẹ là Onésime Richard và Alice Laramée, nguyên quán Gaspé ở Québec chuyển đến Montréal, ngụ tại vùng lân cận Nouveau-Bordeaux.[2] Maurice là con cả trong gia đình có tám người con; 3 em gái Georgette, Rollande, Marguerite và bốn em trai René, Jacques, Henri và Claude.[3] Onésime là thợ mộc và vào làm tại Đường sắt Thái Bình Dương Canada ngay sau khi Maurice chào đời.[4] Gia đình phải vật lộn trong cuộc Đại khủng hoảng; Onésime mất việc năm 1930 và gia đình phải sống dựa vào viện trợ của nhà nước cho đến khi được đường sắt nhận trở lại làm việc khoảng năm 1936.[5]

Khi lên 4, Richard nhận được đôi giày trượt băng đầu tiên và lớn lên cùng những ngày trượt băng trên mặt sông gần đó và mặt băng nhỏ do cha tạo ra sau sân nhà.[6] Đến năm 14 tuổi, Richard mới bắt đầu chơi khúc côn cầu một cách bài bản. Trước lúc ấy, Richard có kỹ năng chơi các thể loại shinny[b] và "hog" — trò chơi yêu cầu người giữ cầu (puck) khỏi đối thủ càng lâu càng tốt.[7] Dù Richard cũng chơi bóng chày và quyền Anh nhưng khúc côn cầu lại là niềm đam mê. Sau khi bắt đầu tham gia các giải có tổ chức, Richard gia nhập một số đội và dùng biệt hiệu như "Maurice Rochon" để lách luật cầu thủ chỉ được chơi cho một đội.[8] Trong một giải đấu, Richard đưa đội mình giành ba chức vô địch liên tiếp và ghi 133 trên 144 bàn thắng của đội trong mùa giải 1938–39.[9]

Ở tuổi 16, Richard bỏ học để làm thợ máy với cha mình.[10] Anh ghi danh vào một trường kỹ thuật để kiếm chứng chỉ nghề.[11] Năm 18 tuổi, Richard gia nhập đội trẻ Verdun Maple Leafs, là tân binh nên ít được ra sân.[12] Anh ghi 4 bàn trong 10 trận đấu và thêm 6 bàn trong 4 trận playoff khi Verdun vô địch tỉnh.[13][14] Năm 1940, Richard được chuyển lên cho Montréal Canadiens mượn thi đấu tại Giải Khúc côn cầu chuyên nghiệp Québec (QSHL) nhưng bị vỡ mắt cá chân khi lao vào bảng trong trận đấu đầu tiên và phải nghỉ suốt mùa giải.[15] Chấn thương cũng dập tắt hi vọng nhập ngũ trong quân đội Canada. Giữa năm 1941, Richard được gọi đến trung tâm tuyển quân nhưng không được tuyển mộ vì không đủ khả năng chiến đấu.[16]

Ngoài sân thi đấu, Richard là thanh niên trầm lặng, khiêm tốn và kiệm lời.[9] Năm 17 tuổi, anh gặp vợ tương lai Lucille Norchet lúc ấy mới là một cô bé chưa tròn 14 tuổi. Cô là em gái đồng đội Richard tại Bordeaux, tính cách hướng ngoại, trong sáng đã bổ sung cho bản tính dè dặt của Richard.[17] Lucille đã thành công trong việc giúp Richard vượt qua những thử thách và thất vọng trong cả khúc côn cầu lẫn cuộc sống.[18] Năm Richard 20 tuổi, hai người đính hôn dù bố mẹ Lucille thấy con gái mình còn quá trẻ. Ngày 12 tháng 9 năm 1942, cả hai thành hôn khi Lucille 17 tuổi.[19]

Sự nghiệp thi đấu[sửa | sửa mã nguồn]

Cúp Stanley đầu tiên[sửa | sửa mã nguồn]

Richard (trái) ngồi bên Toe Blake. Cặp đôi này cùng Elmer Lach tạo thành "Punch line" vào thập niên 1940.

Sau khi bình phục mắt cá chân kịp thời cho mùa giải 1941–42, Richard trở về giải Québec, chơi 31 trận và ghi được 17 điểm trước khi chấn thương lần nữa.[13] Richard bị gãy cổ tay sau khi vướng vào một hậu vệ và đâm vào lưới.[20] Richard trở lại thi đấu vòng loại trực tiếp. Nhờ kĩ năng Richard đã thể hiện tại giải Québec cộng với các hiện trạng khó khăn như thiếu cầu thủ do chiến tranh, thành tích yếu kém không thu hút được người hâm mộ hay thiếu cầu thủ thuộc cộng đồng Pháp ngữ, Richard liền có vị trí thử việc với Canadiens trong mùa giải 1942–43.[19][21] Anh ký hợp đồng trị giá 3.500 đô la một năm và thi đấu ra mắt với số 15 trong màu áo Canadiens.[22] Bàn thắng đầu tiên của Richard là vào lưới New York Rangers ngày 8 tháng 11 năm 1942.[23]

Chấn thương gãy chân một lần nữa lại khiến tân binh Richard phải ngồi ngoài sân chỉ sau 16 trận đấu.[24] Chuỗi gãy xương quá sớm trong sự nghiệp khiến giới quan sát băn khoăn liệu Richard có quá mong manh để thi đấu tại những cấp độ cao nhất không.[8] Anh thử đăng ký quân ngũ lần thứ hai nhưng lại bị từ chối vì chụp X-quang cho thấy xương chưa lành hẳn; mắt cá chân bị biến dạng vĩnh viễn buộc Richard phải thay đổi cách trượt băng. Cảm thấy nhục nhã khi bị từ chối, anh tăng cường tập luyện và hoàn toàn khỏe mạnh khi trình diện tại trại tập huấn Montréal cho mùa giải 1943–44.[25] Richard cũng đổi áo sang số 9 bằng với cân nặng 9 pound của con gái Huguette mới ra đời.[26]

Giữ khỏe mạnh trong suốt mùa giải, Richard chơi 46 trong số 50 trận của Montréal. Anh đứng thứ ba tại Canadiens với 32 bàn thắng và 54 điểm.[27] Mùa giải NHL trọn vẹn đầu tiên không chỉ chấm dứt những chỉ trích về khả năng thi đấu mà còn khiến Richard trở thành một trong những cầu thủ trẻ xuất sắc nhất giải đấu.[24] Huấn luyện viên Dick Irvin chuyển Richard từ cánh trái sang cánh phải và xếp anh chơi chính cùng với Toe Blake và Elmer Lach. Với biệt danh "Punch line", bộ ba là nhóm ghi điểm thống trị suốt thập niên 1940.[8] Đội Canadiens chỉ thua sáu trận sau tháng 10, và tiếp tục giành Cúp Stanley đầu tiên sau 13 năm.[24] Richard dẫn đầu giải đấu với 12 bàn thắng trong trận playoff,[28] bao gồm cả nỗ lực ghi 5 bàn vào lưới Toronto Maple Leafs trong trận bán kết. Anh bằng với kỷ lục NHL của Newsy Lalonde về số bàn thắng trong một trận playoff (kể từ đó có thêm ba cầu thủ đạt thành tích này) và được nhà báo Charles Mayer bầu chọn là cầu thủ ngôi sao thứ nhất, thứ nhì và thứ ba của trận đấu.[29] Richard được xướng tên trong đội hình ngôi sao NHL thứ hai sau mùa giải. Đây là lần đầu tiên trong 14 năm liên tiếp anh được vinh danh là ngôi sao của giải đấu.[30]

50 bàn trong 50 trận[sửa | sửa mã nguồn]

Mùa giải NHL 1944–45 là mốc kỷ lục đối với Richard. Lần đầu tiên anh lập nên dấu ấn mới về số điểm trong một trận đấu với 5 bàn thắng và 3 đường kiến tạo góp phần thắng 9–1 trước Detroit Red Wings ngày 28 tháng 12 năm 1944; 8 điểm của Richard đã xô đổ kỷ lục 7 điểm của ba cầu thủ trước đó,[31] và giữ vững trong 32 năm tiếp theo cho đến khi bị Darryl Sittler vượt qua năm 1976.[32] Thành tích này còn ấn tượng hơn nếu biết Richard vừa mất sức khi chuyển nhà đến ngay chiều hôm đó.[33] Anh tiếp tục ghi bàn với hiệu suất chưa từng thấy, và đến tháng 2 năm 1945 đã chạm tới kỷ lục 44 bàn trong một mùa giải của Joe Malone lập lúc 27 tuổi mùa giải 1917–18.[34] Ngày 25 tháng 2 năm 1945, Richard phá kỷ lục bằng chiến thắng 5–2 trước Toronto. Malone đã có mặt để tặng Richard trái puck trong bàn thắng thứ 45.[35]

Richard năm 1945. Thành tích 50 bàn trong 50 trận chỉ bị Mike Bossy chạm tới vào mùa giải 1980–81.[36]

Khi Richard sắp được 50 bàn thắng trong mùa giải, đối thủ càng quyết liệt hơn ngăn anh ghi bàn. Richard phải đối mặt với những lỗi chém, móc khi qua người, hoặc lao cả người vào lưng anh.[33] Richard không thể ghi bàn trong 8 trận. Ngày 18 tháng 3, anh có trong tay 49 bàn để bước vào trận cuối của Montréal ở vòng đấu tính điểm gặp Boston Bruins.[33] Khi trận đấu chỉ còn 2:15, Richard ghi bàn dấu mốc tạo nên chiến thắng 4–2 cho Montréal.[37] Anh trở thành cầu thủ đầu tiên ghi được 50 bàn thắng trong một mùa giải, kỷ lục này được giữ cho đến mùa giải 1960–61, khi cầu thủ Canadiens khác là Bernie "Boom Boom" Geoffrion cũng ghi 50 bàn trong 64 trận đấu vòng tính điểm.[38] Dấu ấn Richard chỉ thực sự bị vượt qua vào mùa giải 1965–66 khi Bobby Hull ghi 54 bàn sau 65 trận cho Chicago Blackhawks. Thành tích 50 bàn trong 50 trận của Richard cũng đi vào lịch sử NHL trở thành một trong những tiêu chuẩn thành tựu danh giá nhất. Phải đến 36 năm sau, Mike Bossy mới tái hiện được điều này tại mùa giải 1980–81, hiện cũng chỉ có 4 cầu thủ có thể sánh ngang với thành tích 50 bàn trong 50 trận sau 70 năm mà Richard kiến lập.[39] Richard kết thúc mùa giải với 73 điểm, kém Lach 7 điểm và hơn Blake 6 điểm, khi dàn Punch line đứng ba vị trí ghi điểm cao nhất giải. Richard cũng về thứ hai sau Lach trong bầu chọn nhận Cúp Hart cho cầu thủ xuất sắc nhất.[40]

Các nhà phê bình cho rằng thành tích ghi bàn của Richard là do bối cảnh chiến tranh khi nhiều nhân tài phải ra mặt trận; khi họ trở lại vào mùa giải 1945–46, tuy Richard vẫn giành được Cúp Stanley thứ hai với Montréal, nhưng hiệu suất ghi bàn đã giảm gần một nửa xuống còn 27. Mùa giải 1946–47, Richard một lần nữa trở thành vua phá lưới với tổng cộng 45 bàn trong 60 trận và lần duy nhất nhận Cúp Hart cho cầu thủ xuất sắc nhất.[41][42] Trong sự nghiệp thi đấu, anh được năm lần bầu chọn nữa nhưng chỉ về nhì hoặc thứ ba. Đối thủ tiếp tục chọc giận hoặc làm Richard chán nản vì biết rằng có thể loại anh khỏi sân khi Richard trả đũa và ẩu đả thô bạo.[43] Sự cố như vậy đã xảy ra trong vòng chung kết Cúp Stanley 1947 khi Richard nhận án cấm vì dùng gậy đập vào đầu Bill Ezinicki đội Toronto.[44] Richard không được ra sân trong trận thứ ba của vòng đấu, Maple Leafs của Toronto giành chiến thắng.[45]

Với tư cách đương kim cầu thủ xuất sắc nhất, Richard đòi tăng lương trước mùa giải 1947–48. Tổng quản lý Frank Selke từ chối, ngay cả khi Richard và đội trưởng Émile Bouchard không chịu thi đấu. Cuối cùng, cả hai đều phải nhượng bộ và quay trở lại khi mùa giải bắt đầu.[46] Punch line tan rã sau khi Blake bị chấn thương chân kết thúc sự nghiệp.[41] Mùa giải của Richard cũng kết thúc sớm do chấn thương đầu gối nên không chơi được những trận cuối.[46] Anh đứng thứ nhì về số điểm, ghi được 53 điểm sau 53 trận, nhưng Montréal không vào được vòng playoff.[47] Mùa giải 1948–49 chỉ ghi được 38 điểm, Richard lại có 65 điểm trong mùa giải tiếp theo và lần thứ ba dẫn đầu NHL với 43 bàn thắng.[13][42] Mùa giải 1950–51, Richard ghi được 42 bàn thắng,[13] trong đó có bàn thắng thứ 271 trong sự nghiệp, giúp anh trở thành người dẫn đầu danh sách ghi bàn mọi thời đại của Montréal.[48]

Cầu thủ ghi điểm mọi thời đại[sửa | sửa mã nguồn]

Richard đẫm máu bắt tay thủ môn Jim Henry đội Boston sau chiến thắng của Canadiens ở bán kết Cúp Stanley năm 1952.

Richard bỏ lỡ hơn 20 trận mùa giải 1951–52 do chấn thương,[49] nhưng đã vượt qua cú thương tích ở vòng playoff.[50] Trong trận đấu thứ bảy mang tính quyết định với Boston ở bán kết, Richard bị Leo Labine va chạm bất tỉnh chốc lát khi ngã đập mặt vào đầu gối Bill Quackenbush.[50] Dù còn choáng, Richard trở lại thi đấu vào cuối hiệp ba sau khi vết rách lớn trên mắt được khâu lại. Huấn luyện viên Canadiens Dick Irvin cho Richard trở lại sân băng vào những phút cuối dù biết đầu Richard bị chấn động. Richard ghi bàn quyết định trong chiến thắng 2-1 đưa Montréal vào Chung kết Cúp Stanley 1952.[51] Sau trận đấu, nhiếp ảnh gia Roger St. Jean đã chụp được cảnh Richard mặt đẫm máu và đang loạn hướng bắt tay thủ môn Jim Henry đội Boston, người có vẻ đang cúi đầu trước cầu thủ Montréal đã tạo nên "bàn thắng vô thức".[52] Bức ảnh này là một trong những hình ảnh nổi tiếng nhất của Richard.[51] Ở chung kết, Montréal thua Detroit 4 trận liên tiếp.[53]

Mùa giải 1952–53 bắt đầu bằng việc Richard bám đuổi sát sao kỷ lục NHL mọi thời đại 324 bàn thắng của Nels Stewart.[54] Ngày 29 tháng 10 năm 1952, Richard cân bằng kỷ lục ở Toronto với hai bàn vào lưới Maple Leafs, thành tựu này được chính người hâm mộ bên đối thủ hoan hô nhiệt liệt.[55] Trong khi người hâm mộ điên cuồng dõi theo mong chờ dấu ấn kỷ lục mới, anh không thể ghi bàn trong ba trận đấu tiếp theo.[56] Ngày 8 tháng 11, trong trận gặp Chicago, Richard ghi bàn thắng thứ 325 của mình vào phút 10:01 hiệp hai. Theo Montreal Gazette, người hâm mộ đã hoan nghênh thành tựu của Richard đến nỗi "chấn động" cả tòa Forum thành phố Montréal.[57] Kết thúc mùa giải với tổng 61 điểm và 28 bàn thắng dẫn đầu đội, Richard trở thành cầu thủ đầu tiên trong lịch sử NHL ghi ít nhất 20 bàn thắng mỗi mùa trong 10 mùa giải đầu tiên.[58] Thêm 7 bàn thắng của Richard trong 12 trận playoff, đội Canadiens đánh bại Boston trong trận chung kết 1953 để giành chức vô địch Cúp Stanley sau khoảng thời gian dài từ năm 1946.[13][59]

Mùa giải 1953–54, Richard lần thứ tư dẫn đầu về số bàn thắng với 37 bàn. Tiếp tục là lần thứ năm mùa giải 1954–55 với 38 bàn ngang bằng với Bernie Geoffrion.[42] Ngày 18 tháng 12 năm 1954, Richard ghi bàn thắng thứ 400 trong sự nghiệp vào lưới Chicago.[60]

Bạo loạn Richard[sửa | sửa mã nguồn]

"Campbell đã làm gì khi Jean Béliveau bị Bill Mosienko đội Chicago và Jack Evans bị Rangers cố tình gây thương tích hai lần? Không cấm, không phạt, không đình chỉ. Ông ta có đình chỉ Gordie Howe đội Detroit khi suýt đập vào mắt Dollard St. Laurent không? Không! ... Thật kỳ lạ là chỉ có Dick Irvin và tôi mới có đủ can đảm mạo hiểm sinh kế chính mình bằng cách bảo vệ quyền lợi của mình trước kẻ độc tài như vậy."

—Sau những lời này, Richard bị Campbell ép ngừng viết bài cho Samedi-Dimanche.[61]

Các cầu thủ đối phương tiếp tục cố gắng ngăn chặn Richard bằng va chạm, và anh thường trả đũa bằng sức mạnh tương ứng. Tình huống này dẫn đến mối thù truyền kiếp với Chủ tịch NHL Clarence Campbell.[62] Richard từng bị Campbell phạt rất nhiều lần vì các sự cố trên sân băng và có lúc bị buộc phải trả 1.000 đô la "án treo cho hạnh kiểm tốt"[c] sau khi chỉ trích Campbell trên chuyên mục hàng tuần của Samedi-Dimanche.[63] Richard là một trong nhiều người ở Québec tin rằng Campbell đối xử với các cầu thủ Canada gốc Pháp khắc nghiệt hơn cầu thủ gốc Anh.[64] Bất đồng âm ỉ nổ ra sau sự cố với đội Boston ngày 13 tháng 3 năm 1955 khi Hal Laycoe dùng gậy đánh vào đầu Richard.[65] Richard trả đũa bằng cú chém ác ý vào đầu Laycoe, sau đó đấm trọng tài biên Cliff Thompson khi can thiệp vào.[66] Cảnh sát Boston định bắt giữ Richard vì tội hành hung, nhưng ban huấn luyện Montréal và các đồng đội từ chối cho cảnh sát vào can thiệp.[67]

Sau hai ngày cân nhắc, Campbell thông báo cấm Richard các trận còn lại vòng tính điểm và cả vòng playoff. Richard khi đó đang dẫn đầu cuộc đua ghi điểm của mùa giải.[68] Trong cộng đồng Anh ở Canada, Campbell được tán dương vì đã làm những gì có thể để kiểm soát một Richard bất ổn. Hầu hết mọi người lúc đó không biết rằng Campbell đã từ lâu muốn ra lệnh cấm lâu dài với Richard vì những lần nóng tính của anh trước đó. Tuy nhiên, trên cương vị chủ tịch NHL, Campbell phải chịu trách nhiệm với các ông bầu giải đấu và họ không muốn thấy án cấm nặng như vậy dành cho cầu thủ ngôi sao đang giúp tăng lượng khán giả.[69] Ở Québec nói tiếng Pháp, án cấm thi đấu bị coi là sự bất công, hình phạt vô lý mà những kẻ Ăng-lê dành cho người hùng của cộng đồng Pháp ngữ.[8] Những người ủng hộ Richard phản ứng giận dữ với Campbell, gửi lời dọa giết. Khi ngồi xuống trong trận tiếp theo của Canadiens, ông bị người hâm mộ quá khích ném trứng, rau và các thứ khác vào người.[65] Một người còn ném cả bom hơi cay vào Campbell, khiến cả tòa Forum phải sơ tán và trận đấu bị hủy theo hướng có lợi cho Detroit. Những người hâm mộ chạy ra gặp ngay một đám đông biểu tình tụ tập bên ngoài trước cả lúc bắt đầu trận đấu.[65]

Đám đông hơn 20.000 người trở thành bạo loạn. Cửa sổ, cửa ra vào của Forum và các cửa hàng xung quanh bị đập phá. Cho đến sáng hôm sau, từ 65 đến 70 người đã bị bắt giữ.[70] Hơn 50 cửa hàng bị cướp phá và 37 người bị thương. Thiệt hại ước tính khoảng 100.000 đô la (quy đổi tương đương 971.631 đô la năm 2020[71]).[65] Richard cũng có mặt nhưng rời đi ngay sau khi trận đấu hủy. Frank Selke cố thuyết phục anh trở lại để giải tán đám đông, nhưng Richard từ chối vì sợ rằng thay vào đó sẽ lại làm họ quá khích hơn.[72] Hôm sau, Richard lên đài phát thanh và đề nghị mọi người giữ bình tĩnh: "Đừng làm hại gì thêm nữa. Hãy đứng sau đội tuyển cho vòng playoff. Tôi sẽ nhận hình phạt của mình và trở lại vào năm sau, giúp câu lạc bộ cũng như các cầu thủ trẻ hơn đoạt Cúp."[65]

Án cấm khiến Richard vuột mất Cúp Art Ross cho cầu thủ ghi nhiều điểm nhất, chỉ kém đồng đội Geoffrion đúng một điểm.[40] Richard không bao giờ giành được danh hiệu này, chỉ có năm lần về nhì trong cả sự nghiệp. Người hâm mộ Montréal la ó Geoffrion khi vượt qua Richard trong ngày cuối cùng của vòng tính điểm.[73] Những người hâm mộ tiếp tục chế nhạo Geoffrion trong mùa giải tiếp theo.[74] Không có Richard, Montréal để thua 4 trận (trong 7 trận) trong Chung kết Cúp Stanley 1955.[75] Richard đã phải cố gắng kiềm chế cơn tức giận trước thất bại cay đắng này.[76]

Đội trưởng của triều đại[sửa | sửa mã nguồn]

Richard thực hiện lời hứa với người hâm mộ Canadiens bằng cách dẫn dắt Montréal đoạt Cúp Stanley mùa giải 1955–56 – khởi đầu cho chuỗi vô địch 5 lần liên tiếp chưa từng có đối với một đội khúc côn cầu.[75] Khi mùa giải bắt đầu, em trai Henri gia nhập trở thành đồng đội chơi ở vị trí trung phong với biệt hiệu "Pocket Rocket" (Tên lửa bỏ túi) trong đội hình Canadiens.[77] Mùa giải cũng đánh dấu sự trở lại của đồng đội trong Punch line trước đây là Toe Blake với nhiệm vụ huấn luyện viên trưởng.[78] Cùng với tổng quản lý Frank Selke, Blake đã làm việc với Richard để tiết chế tính cách nóng nảy của anh và đối phó với sự khiêu khích của đối thủ bằng cách ghi bàn chứ không phải đánh lộn trả đũa.[79] Richard kết thúc mùa giải với 38 bàn thắng và 71 điểm, đứng thứ nhì sau Jean Béliveau được 47 bàn thắng và 88 điểm.[80] Richard ghi thêm 14 điểm sau 10 trận playoff khi Montréal đánh bại Detroit để giành Cúp Stanley.[81] Anh ghi bàn thứ hai và bàn quyết định trong trận cuối với chiến thắng 3–1.[82]

Bước vào mùa giải NHL thứ 15 của Richard 1956–57, đồng đội chỉ định anh làm đội trưởng Canadiens, kế nhiệm Émile Bouchard đã về hưu trước mùa giải.[83] Với 33 bàn thắng và 62 điểm, Richard một lần nữa xếp thứ nhì trong đội dưới Béliveau.[84] Ở vòng loại trực tiếp, anh ghi bàn trong hiệp phụ ở trận thứ năm bán kết loại New York, rồi ghi tiếp bốn bàn trong chiến thắng 5–1 trước Boston ở trận đầu tiên vòng chung kết trên đường giành chức vô địch thứ hai liên tiếp cho Montréal, nằm trong chuỗi 5 lần vô địch liên tiếp.[85]

Richard đạt mốc ghi bàn quan trọng vào đầu mùa giải 1957–58. Trong hiệp một của trận thắng 3–1 trước Chicago ngày 19 tháng 10 năm 1957, anh trở thành cầu thủ đầu tiên trong lịch sử NHL ghi được 500 bàn thắng trong sự nghiệp thi đấu.[86] Khi Richard đang ăn mừng bàn thắng cùng đồng đội, thông điệp đã lan truyền cả tòa Montreal Forum: "Bàn thắng của Canadiens, do chính ông Hockey ghi được, Maurice Richard".[87] Richard chỉ chơi 28 trận vòng tính điểm, ghi được 34 điểm,[13] và phải nghỉ ba tháng do đứt gân achilles.[88] Hồi phục kịp thời cho vòng loại trực tiếp, Richard dẫn dắt Montréal với 11 bàn thắng và 15 điểm giúp đội đoạt Cúp Stanley lần thứ ba liên tiếp. Anh ghi bàn thắng trong hiệp phụ ở trận đấu thứ năm vòng chung kết với Boston. Đó là bàn thắng thứ sáu trong các hiệp phụ trận playoff và là bàn thắng thứ ba trong các trận chung kết của Richard, cả hai đều là kỷ lục NHL.[89]

Áo thi đấu trong mùa giải cuối cùng của Richard

Ở tuổi 37, Richard là cầu thủ lớn tuổi nhất NHL mùa giải 1958–59.[90] Anh ghi 38 điểm trong 42 trận,[13] nhưng vắng mặt sáu tuần do vỡ mắt cá chân.[90] Chấn thương gãy xương gò má tiếp tục ập đến trong mùa giải 1959–60 khiến anh phải nghỉ thi đấu một tháng.[91] Tuy vậy, Montréal vẫn giành được Cúp Stanley trong cả hai mùa giải. Richard không ghi được điểm nào trong bốn trận Chung kết Cúp Stanley 1959 nhưng ghi được một bàn và kiến tạo ba bàn trong Chung kết năm 1960.[13] Đây là lần thứ bảy và thứ tám Richard cùng đội bước lên bục vô địch,[42] năm lần vô địch liên tiếp của Montréal vẫn là một kỷ lục.[92] Đội hình Canadiens những năm 1956–60 được NHL xếp hạng là một trong tám triều đại khúc côn cầu.[93]

Pha ghi bàn trong trận playoff là bàn thắng cuối cùng của Richard, vì anh tuyên bố giải nghệ cầu thủ ngày 15 tháng 9 năm 1960.[94] Mùa thu ấy, Richard đã trình diện đến trại huấn luyện Montréal nhưng Selke buộc Richard phải kết thúc sự nghiệp thi đấu vì lo sợ nguy cơ anh dính chấn thương nghiêm trọng. Trong bài phát biểu giải nghệ, Richard nói đã có dự định trong hai năm và trò chơi đã quá nhanh so với tuổi 39 của mình.[95] Nghe tin Richard giải nghệ, Gordie Howe dành lời khen ngợi cho đối thủ cũ: "Anh ấy chắc chắn là con át chủ bài. Anh ấy đã mang đám đông khán giả đến trả lương cho chúng tôi. Richard chắc chắn là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất và chúng tôi sẽ nhớ anh."[96]

Phong cách thi đấu[sửa | sửa mã nguồn]

Richard có biệt danh "Sao chổi" thuở mới vào nghề. Khi đồng đội Ray Getliffe nhận xét rằng Richard "lao vào như tên lửa" lúc tiếp cận khung thành đối phương, một nhà báo thể thao địa phương gọi anh là "Rocket" (Tên lửa); cả Baz O'Meara của Montreal Star và Dink Carroll của Montreal Gazette đều dùng cái tên này cho Richard.[30] Biệt danh này cho thấy tốc độ, sức mạnh và lòng quyết tâm trong lối chơi của Richard. Đồng đội và huấn luyện viên Toe Blake cho biết biệt danh này rất phù hợp vì "khi anh ấy cất cánh, không gì trên đường có thể cản anh ấy lại".[97] Thủ môn Jacques Plante tuyên bố đây là một trong những biệt danh thích hợp nhất dành cho một vận động viên, ghi nhận mãnh lực ác liệt thường ánh lên trong mắt Richard giống như the rocket's red glare (vết sáng chói đỏ của tên lửa) trong bài hát "The Star-Spangled Banner".[30] Glenn Hall đồng tình: "Điều tôi nhớ nhất về Rocket là đôi mắt anh. Khi bay về phía bạn với gậy giữ trái puck, mắt anh ấy sáng lên, nháy chớp và rực rỡ như máy chơi pinball. Thật kinh hoàng."[97]

Cúp Maurice "Rocket" Richard Trophy trao hàng năm cho cầu thủ ghi nhiều bàn nhất NHL

Đỉnh cao sự nghiệp của Richard là ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khi những cầu thủ thiện chiến trở lại NHL và thể hiện phong cách "đấu sĩ" đặc trưng với lối chơi thô bạo, thể lực và thường có tính bạo lực.[98] Tính khí nóng nảy của Richard khá khét tiếng, thể hiện qua hành động từ đó dẫn đến cuộc bạo loạn Richard.[99]

Là tay săn bàn thuần túy, Richard không chơi cầu kỳ, cũng không nổi trội khi chuyền bóng.[8] Một trong những đồng đội nhận xét rằng "Maurice thậm chí sẽ không chuyền (đưa) muối cho bạn".[d] Richard dẫn đầu NHL về số bàn thắng năm lần, nhưng chưa bao giờ ghi được nhiều điểm nhất.[97] Anh nổi tiếng với cú đánh từ vạch xanh với tỷ lệ ghi bàn tay trái hay tay phải thành thạo như nhau. Chiến công của Richard đã làm hồi sinh hình tượng cho đội Canadiens, vốn phải vật lộn để thu hút người hâm mộ vào thập niên 1930.[100] Ngoài 14 lần xuất hiện tên trong đội hình ngôi sao sau mùa giải (tám lần trong đội hàng đầu, sáu lần ở đội thứ hai), Richard đã chơi 13 trận Toàn Ngôi Sao NHL liên tiếp từ năm 1947 đến năm 1959.[30]

Richard vẫn tiếp tục thi đấu sau khi bị Gordie Howe vượt kỷ lục về số điểm ghi được.[101] Howe vượt qua Richard với 544 bàn thắng vào năm 1963. Kỷ lục 50 bàn trong một mùa giải của Richard được giữ 20 năm cho đến khi Bobby Hull phá được vào năm 1965.[30] Năm 1999, Montréal trao lại Cúp Maurice Richard cho NHL để tặng thưởng thường niên cho cầu thủ ghi bàn hàng đầu mùa giải.[102]

Đời tư[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi giải nghệ cầu thủ, Selke đề nghị Richard làm đại sứ đội bóng và hứa sẽ trả nguyên lương thi đấu trong năm đầu tiên.[103] Năm 1964, Richard được bổ nhiệm chức phó chủ tịch Canadiens. Ông bất bình với vị trí danh dự mà không có thực quyền nên từ chức một năm sau đó.[104] Richard ngày càng xa rời khi bị phớt lờ mong muốn tham gia vào các hoạt động của đội, sự phân rẽ ngày càng nặng nề khi Canadiens buộc Frank Selke phải nghỉ hưu năm 1965.[105] Cuối cùng, Richard đã từ chối gắn tên mình với đội tuyển.[106]

Với nỗi sợ bị lãng quên cùng với nỗ lực tìm kiếm mục đích sống sau khi nghỉ hưu,[107] Richard nỗ lực gắn danh tính mình vào nhiều hoạt động. Ông giữ vai trò biên tập viên tư vấn cho tạp chí Maurice Richard's Hockey Illustrated,[108] sở hữu hàng quán "544 / 9 Tavern" (đặt tên theo tổng số bàn thắng trong sự nghiệp và số áo đấu của Richard) ở Montréal, và rao bán cả tá loại sản phẩm từ bia, thuốc nhuộm tóc, pin ô tô đến dụng cụ câu cá và đồ chơi trẻ em. Ông tiếp tục sử dụng tên mình cho quảng cáo hơn 30 năm sau khi nghỉ hưu.[109] Năm 1972, Richard trở lại với khúc côn cầu một thời gian ngắn làm huấn luyện viên trưởng cho Nordiques de Québec của Hiệp hội khúc côn cầu thế giới WHA.[110] Ông chỉ đạo được hai trận, một thắng và một thua, trước khi nhận ra không thể đảm đương được sức ép của nghề huấn luyện.[111] Năm 1981, Richard hòa giải với Canadiens và nối lại vai trò đại sứ cho đội tuyển.[112]

Richard và vợ Lucille sống ở Montréal, cùng nuôi dạy 7 người con: Huguette, Maurice Jr., Norman, André, Suzanne, Polo và Jean.[113] Họ có 14 cháu.[114] Năm 1994, hai năm sau kỷ niệm 50 năm ngày cưới,[115] Lucille qua đời vì bệnh ung thư.[116] Người phối ngẫu lúc cuối đời của Richard là Sonia Raymond.[117]

Bệnh tật và qua đời[sửa | sửa mã nguồn]

Mộ Richard tại Nghĩa trang Notre Dame des Neiges ở Montréal

Năm 1998, Richard được chẩn đoán bị ung thư dạ dày. Ngày 27 tháng 5 năm 2000, ông qua đời vì căn bệnh này[118] và được an nghỉ tại Nghĩa trang Notre Dame des Neiges ở Montréal.[119] Trước trận thứ nhất tại Chung kết Cúp Stanley 2000 giữa New Jersey Devils và Dallas Stars, có một đoạn video ngắn tưởng nhớ nêu bật những khoảnh khắc tuyệt vời và dấu ấn trong sự nghiệp của Maurice Richard.

Di sản[sửa | sửa mã nguồn]

Trong suốt sự nghiệp thi đấu và sau đó, Richard được trao tặng nhiều danh hiệu. Thông tấn xã Canadian Press ba lần dành tặng Giải thưởng Lionel Conacher cho nam vận động viên của năm.[120] Năm 1957, Richard nhận Cúp Lou Marsh cho vận động viên của năm của Canada.[121] Năm 1960, đội Canadiens quyết định không cho ai khoác áo số 9 của Richard ra sân nữa.[42] Đại sảnh Danh vọng Khúc côn cầu đã bỏ đi yêu cầu cần 5 năm chờ đợi sau khi giải nghệ để đưa tên Richard vào năm 1961.[8] Cùng năm đó, sân vận động Maurice Richard sức chứa 5.000 chỗ được xây dựng và đặt tên vinh danh ông.[122]

Khi Huân chương Canada ra đời năm 1967, Richard là một trong những thành viên được vinh danh đầu tiên[123] Năm 1998, ông được nâng lên hạng Companion của Huân chương Canada.[124] Năm 1975, Đại sảnh Danh vọng Thể thao Canada vinh danh Richard.[125] Năm 1999, Richard được trao ngôi sao trên Đại lộ Danh vọng Canada.[124] Năm 1992, ông được chỉ định vào Hội đồng Cơ mật cho Canada của Nữ hoàng.[112]

Tượng đài Richard bên ngoài công viên Jacques Cartier ở Gatineau, Québec

Là cầu thủ nổi tiếng khắp Canada, Richard cũng là một biểu tượng tại Québec.[23] Tác giả Roch Carrier đã giải thích niềm đam mê mà Richard khơi gợi từ những người hâm mộ trong truyện ngắn kinh điển Canada năm 1979 Le chandail de hockey.[126] Carrier viết về cách mà mình và bạn bè đều bắt chước phong cách và cư xử của Richard: "Chúng tôi là năm gã trai Maurice Richard đấu với năm Maurice Richard khác, cùng đến với trái puck. Chúng tôi là mười cầu thủ đều mặc đồng phục Montréal Canadiens, tất cả đều cùng một nhiệt huyết cháy bỏng. Tất cả chúng tôi đều đeo số 9 nổi tiếng."[127] Truyện được xuất bản rồi chuyển thể thành phim hoạt hình ngắn của National Film Board giúp cho hình ảnh Richard trở thành biểu tượng nổi tiếng khắp Canada.[128] Richard nổi tiếng đến tận cuối đời: khi được giới thiệu trong nghi thức sau trận khúc côn cầu cuối cùng tại tòa Forum, người hâm mộ Canadiens đã khiến Richard rơi nước mắt, họ nhiệt liệt hoan nghênh ông trong 11 phút.[129] Sau khi Richard qua đời, Québec vinh danh Richard bằng tang lễ cấp nhà nước đầu tiên dành cho một người không phải chính trị gia. Hơn 115.000 người bày tỏ lòng kính trọng khi đến viếng linh cữu Richard tại Trung tâm Molson.[130]

Cuộc bạo loạn Richard có được địa vị thần thoại trong văn hóa dân gian Canada.[131] Cuộc bạo loạn này thường được coi là biểu hiện bạo lực của những người nói tiếng Pháp bất mãn ở Québec đứng giữa số đông nói tiếng Anh ở Canada. Một số sử gia còn coi bạo loạn Richard là tiền thân của Cách mạng Yên lặng thập niên 1960.[65] Nhân dịp tưởng niệm bạo loạn Richard lần thứ 40, tờ La Presse của Montréal mở đầu như sau: "Bốn mươi năm trước đã khởi đầu một trong những giai đoạn kịch tính nhất trong lịch sử Québec và của môn khúc côn cầu."[132] Bản thân Richard đã công khai bác bỏ vai trò của mình là xúc tác thay đổi văn hóa hay chính trị.[133] Trong cuộc phỏng vấn năm 1975, Richard nói rằng mình chơi với "những chàng trai Anh" và không rõ phần lớn về tình hình Québec nói tiếng Pháp khi ấy.[134]

Trong bài báo được xuất bản bốn ngày sau bạo loạn, nhà báo André Laurendeau là người đầu tiên cho rằng đó là dấu hiệu chủ nghĩa dân tộc đang gia tăng ở Québec. Laurendeau xem cuộc bạo động "đã tiết lộ những gì phía sau bị coi là thờ ơ và thụ động bấy lâu nay của người Canada nói tiếng Pháp".[135] Ngược lại, trong cuốn sách The Rocket: A Cultural History of Maurice Richard (Rocket: Lịch sử văn hóa về Maurice Richard), Benoît Melançon tranh cãi về tầm quan trọng của cuộc bạo loạn đã gia tăng trở lại trong lịch sử cùng với huyền thoại Richard.[136] Melançon viết: "Theo câu chuyện phổ biến này, lần đầu tiên người Québec đứng lên vì chính mình; đặc biệt người Canada nói tiếng Anh thích thú khi thông báo một cách ngược đời rằng đây là sự khởi đầu của Cách mạng Yên lặng thập niên 1960."[137]

Richard là chủ đề của bộ phim tiểu sử The Rocket năm 2005.[138]

Thống kê sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

* Vô địch Cúp Stanley

Giải thưởng và vinh danh[sửa | sửa mã nguồn]

National Hockey League
Phần thưởng Năm Tham khảo
Đội thứ nhất Toàn Ngôi Sao 1944–45, 1945–46, 1946–47, 1947–48, 1948–49, 1949–50, 1954–55, 1955–56 [30]
Đội thứ nhì Toàn Ngôi Sao 1943–44, 1950–51, 1951–52, 1952–53, 1953–54, 1956–57 [30]
8 lần vô địch Cúp Stanley 1943–44, 1945–46, 1952–53, 1955–56, 1956–57, 1957–58, 1958–59, 1959–60
Cúp Hart
Cầu thủ xuất sắc nhất
1946–47 [139]
Quốc gia Canada
Giải thưởng Năm Tham khảo
Nam vận động viên của năm của Canadian Press 1952, 1957, 1958 [120]
Cúp Lou Marsh
Vận động viên Canada của năm
1957 [121]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ tiếng Anh: Richard Riot, tiếng Pháp: Émeute Maurice Richard
  2. ^ Shinny chỉ là tiếng lóng cho môn hockey ngoài trời (thường trên sông băng vào mùa đông hoặc sân trượt băng của thành phố, trường học).
  3. ^ Nguyên văn good-behaviour bond, trong ngành tòa án dùng để chỉ lời hứa của bị cáo sẽ giữ hạnh kiểm tốt trong một khoảng thời gian nào đó (để nhận án treo)
  4. ^ Nguyên văn pass you the salt. Chơi chữ "pass" – "chuyền bóng" với nghi thức các cầu thủ chuyền tay nhau muối ngửi smelling salts trước trận đấu, hoặc đơn giản là đưa giúp lọ muối cho người khác trên bàn ăn

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “100 Greatest NHL Players” [100 cầu thủ NHL vĩ đại nhất] (bằng tiếng Anh). National Hockey League. ngày 1 tháng 1 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2021.
  2. ^ Melançon 2009, tr. 11.
  3. ^ Foran 2011, tr. 30.
  4. ^ Foran 2011, tr. 23.
  5. ^ Foran 2011, tr. 29–31.
  6. ^ Foran 2011, tr. 25–26.
  7. ^ Foran 2011, tr. 26.
  8. ^ a b c d e f Podnieks 2003, tr. 723.
  9. ^ a b Carrier 2001, tr. 37.
  10. ^ O'Brien 1961, tr. 29.
  11. ^ Carrier 2001, tr. 36.
  12. ^ Foran 2011, tr. 37.
  13. ^ a b c d e f g h Maurice Richard (bằng tiếng Anh), National Hockey League, lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 4 năm 2021, truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2021
  14. ^ Carrier 2001, tr. 41.
  15. ^ Carrier 2001, tr. 45.
  16. ^ Carrier 2001, tr. 47.
  17. ^ Foran 2011, tr. 34.
  18. ^ Foran 2011, tr. 41.
  19. ^ a b Foran 2011, tr. 42.
  20. ^ Carrier 2001, tr. 48.
  21. ^ Carrier 2001, tr. 55.
  22. ^ Foran 2011, tr. 43.
  23. ^ a b Maurice Richard (bằng tiếng Anh), Hockey Hall of Fame, truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2021
  24. ^ a b c An emblematic icon of the Montreal Canadiens, Maurice Richard's influence and impact transcended the game [Biểu tượng tiêu biểu của Montreal Canadiens, ảnh hưởng và tác động của Maurice Richard vượt ra ngoài trận đấu] (bằng tiếng Anh), Montreal Canadiens Hockey Club, lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 11 năm 2021, truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2021
  25. ^ Foran 2011, tr. 44–45.
  26. ^ Carrier 2001, tr. 63.
  27. ^ Lavigne 2013, tr. 288.
  28. ^ Lavigne 2013, tr. 289.
  29. ^ Rocket's three stars [Ba sao của Rocket] (bằng tiếng Anh), Montreal Canadiens Hockey Club, lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2014, truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2021
  30. ^ a b c d e f g Cameron 2013, tr. 156.
  31. ^ “Maurice Richard holds new National League scoring mark” [Maurice Richard nắm giữ dấu ấn ghi bàn mới của Liên đoàn quốc gia], Nashua Telegraph (bằng tiếng Anh), tr. 9, ngày 29 tháng 12 năm 1944, truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2014
  32. ^ Campbell, Neil (ngày 9 tháng 2 năm 1976), “Sittler's 10 points bring bundle of records” [10 điểm của Sittler mang lại nhiều kỷ lục], Ottawa Citizen (bằng tiếng Anh), tr. 15, truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2021
  33. ^ a b c McKinley 2006, tr. 141.
  34. ^ “Maurice Richard sets torrid pace in NHL scoring” [Maurice Richard lập ra tốc độ ghi điểm kinh hoàng ở NHL], Ottawa Citizen (bằng tiếng Anh), tr. 9, ngày 13 tháng 2 năm 1945, truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2021
  35. ^ “Rocket gets 45th as Habs humble Leafs, 5–2” [Rocket có bàn 45 khi Habs hạ Leaf 5–2], Ottawa Citizen (bằng tiếng Anh), tr. 11, ngày 26 tháng 2 năm 1945, truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2021
  36. ^ Kreiser, John (ngày 24 tháng 11 năm 2010), Stamkos hoping to join the NHL's 50-in-50 club [Stamkos hy vọng tham gia câu lạc bộ 50-in-50 của NHL] (bằng tiếng Anh), National Hockey League, lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 11 năm 2021, truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2021
  37. ^ 50-in-50 [50 bàn trong 50 trận] (bằng tiếng Anh), Montreal Canadiens Hockey Club, lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 10 năm 2013, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  38. ^ “Bernie Geoffrion”. Hockey Reference. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021.
  39. ^ Pincus 2006, tr. 57.
  40. ^ a b Diamond 2013, tr. 154.
  41. ^ a b Pincus 2006, tr. 74.
  42. ^ a b c d e Cameron 2013, tr. 158.
  43. ^ Foran 2011, tr. 50.
  44. ^ “Maurice Richard finds himself in real trouble” [Maurice Richard tự kiếm rắc rối thực sự cho mình], Lewiston Evening Journal, tr. 19, ngày 11 tháng 4 năm 1947, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  45. ^ Foran 2011, tr. 62.
  46. ^ a b Foran 2011, tr. 63–64.
  47. ^ Lavigne 2013, tr. 295.
  48. ^ Melançon 2009, tr. 20–22.
  49. ^ Carrier 2001, tr. 194.
  50. ^ a b Carrier 2001, tr. 196.
  51. ^ a b Foran 2011, tr. 75.
  52. ^ The bloody meeting [Gặp gỡ đẫm máu] (bằng tiếng Anh), Canadian Museum of History, Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 11 năm 2021, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  53. ^ Degeer, Vern (ngày 16 tháng 4 năm 1952), Detroit sets record in capturing Stanley Cup [Detroit lập kỷ lục khi đoạt Cúp Stanley] (bằng tiếng Anh), tr. 18, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  54. ^ Carrier 2001, tr. 200.
  55. ^ “Rocket ties N.H.L. goal record but Leafs win 7–5” [Rocket cân bằng kỷ lục bàn thắng NHL nhưng Leafs thắng 7–5], The Gazette (bằng tiếng Anh), Montréal, tr. 19, ngày 30 tháng 10 năm 1952, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  56. ^ Carrier 2001, tr. 202.
  57. ^ Carroll, Dink (ngày 10 tháng 11 năm 1952), “Rafters shake as Rocket bags record goal” [Xà nhà rung chuyển khi Rocket lập kỷ lục bàn thắng], The Gazette (bằng tiếng Anh), Montréal, tr. 20, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  58. ^ Lavigne 2013, tr. 300.
  59. ^ Carrier 2001, tr. 209.
  60. ^ “Maurice Richard scores 400th goal” [Maurice Richard ghi bàn thắng thứ 400], Reading Eagle (bằng tiếng Anh), tr. 38, ngày 19 tháng 12 năm 1954, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  61. ^ Foran 2011, tr. 80–81.
  62. ^ Foran 2011, tr. 77.
  63. ^ Wheatley, W. R. (ngày 4 tháng 12 năm 1954), “Canadiens' Maurice Richard seeks no. 400. It may come Sunday against New York club” [Maurice Richard đội Canadiens tìm kiếm bàn thắng thứ 400. Có thể đạt được vào chủ nhật khi gặp câu lạc bộ New York], The Gazette (bằng tiếng Anh), Montréal, tr. 11, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  64. ^ Carrier 2001, tr. 211.
  65. ^ a b c d e f Pincus 2006, tr. 86.
  66. ^ “Rocket goes wild at Boston, clouts Laycoe, linesman” [Rocket nổi điên tại Boston, đánh Laycoe và trọng tài biên], The Gazette (bằng tiếng Anh), Montréal, tr. 23, ngày 14 tháng 3 năm 1955, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  67. ^ Foran 2011, tr. 89.
  68. ^ Wheatley, W. R. (ngày 17 tháng 3 năm 1955), “Richard out for season and playoffs” [Richard bị loại khỏi mùa giải và vòng playoff], The Gazette (bằng tiếng Anh), Montréal, tr. 1, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  69. ^ Foran 2011, tr. 82–83.
  70. ^ MacDonald, D. A. L. (ngày 18 tháng 3 năm 1955), “Mob rule wrecks Forum, game” [Đám đông làm hỏng Forum và trận đấu], The Gazette (bằng tiếng Anh), Montréal, tr. 1, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  71. ^ Canadian inflation numbers based on Statistics Canada tables 18-10-0005-01 (formerly CANSIM 326-0021) “Consumer Price Index, annual average, not seasonally adjusted”. Statistics Canada. Truy cập ngày 6 Tháng 3 năm 2019. and 18-10-0004-13 “Consumer Price Index by product group, monthly, percentage change, not seasonally adjusted, Canada, provinces, Whitehorse, Yellowknife and Iqaluit”. Statistics Canada. Truy cập ngày 6 Tháng 3 năm 2019.
  72. ^ Foran 2011, tr. 98.
  73. ^ Geoffrion, Bernie (bằng tiếng Anh), Hockey Hall of Fame, Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 4 năm 2014, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  74. ^ Carrier 2001, tr. 234–235.
  75. ^ a b Foran 2011, tr. 100.
  76. ^ Carrier 2001, tr. 229.
  77. ^ Henri Richard (bằng tiếng Anh), Hockey Hall of Fame, lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 11 năm 2021, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  78. ^ Carrier 2001, tr. 232.
  79. ^ Carrier 2001, tr. 234.
  80. ^ Lavigne 2013, tr. 304.
  81. ^ Lavigne 2013, tr. 305.
  82. ^ Carroll, Dink (ngày 11 tháng 4 năm 1956), “Canadiens defeat Red Wings, 3–1, win Stanley Cup” [Canadiens thắng Red Wings 3–1, đoạt Cúp Stanley], The Gazette (bằng tiếng Anh), Montreal, tr. 1, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  83. ^ “Rocket" captain” [Đội trưởng Rocket], Ottawa Citizen (bằng tiếng Anh), tr. 13, ngày 27 tháng 9 năm 1956, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  84. ^ Lavigne 2013, tr. 306.
  85. ^ Lavigne 2013, tr. 307.
  86. ^ Carroll, Dink (ngày 21 tháng 10 năm 1957), “Rocket gets 500th goal, Canadiens defeat Hawks 3–1” [Rocket có bàn thắng thứ 500, Canadiens thắng Hawks 3–1], The Gazette (bằng tiếng Anh), Montreal, tr. 25, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  87. ^ Curran, Pat (ngày 21 tháng 10 năm 1957), “Happy like a rookie” [Vui mừng như một tân binh], The Gazette (bằng tiếng Anh), Montreal, tr. 25, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  88. ^ 'Rocket' Richard to return” ['Rocket' Richard trở lại], Spokane Daily Chronicle (bằng tiếng Anh), ngày 12 tháng 2 năm 1958, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  89. ^ Lavigne 2013, tr. 309.
  90. ^ a b “Rocket Richard out 6 weeks” [Rocket Richard vắng mặt 6 tuần], Daytona Beach Morning Journal (bằng tiếng Anh), tr. 11, ngày 21 tháng 1 năm 1959, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  91. ^ “Rocket Richard out for month” [Rocket Richard nghỉ một tháng], Daytona Beach Morning Journal (bằng tiếng Anh), tr. 7, ngày 28 tháng 11 năm 1959, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  92. ^ Lavigne 2013, tr. 313.
  93. ^ Dynasties: Standings [Triều đại: Thứ hạng] (bằng tiếng Anh), National Hockey League, lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 11 năm 2021, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  94. ^ “Maurice (the Rocket) Richard Retires” [Maurice (the Rocket) Richard nghỉ hưu], The Gazette (bằng tiếng Anh), Montreal, tr. 25, ngày 16 tháng 9 năm 1960, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  95. ^ “Gave fans more thrills than any star in history” [Đem lại hồi hộp cho người hâm mộ hơn bất cứ ngôi sao nào trong lịch sử], Ottawa Citizen (bằng tiếng Anh), tr. 25, ngày 16 tháng 9 năm 1960, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  96. ^ “One of greats says Gordie” [Gordie nói đó là một trong những người vĩ đại], The Gazette (bằng tiếng Anh), Montreal, tr. 25, ngày 16 tháng 9 năm 1960, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  97. ^ a b c Grimsley, Will (ngày 22 tháng 10 năm 1988), “Richard: The original Rocket” [Richard: Rocket nguyên bản], The Telegraph (bằng tiếng Anh), Nashua, NH, tr. C10, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  98. ^ Foran 2011, tr. 59.
  99. ^ Murray, Jim (ngày 22 tháng 4 năm 1966), “'Rocket' used sheer terror on puck foes” ['Rocket' làm đối thủ khiếp hãi], Milwaukee Sentinel (bằng tiếng Anh), tr. 3, Pt. 2
  100. ^ Carroll, Dink (ngày 7 tháng 2 năm 1985), “Players owe a large debt to Richard” [Các cầu thủ mắc nợ lớn với Richard], The Gazette (bằng tiếng Anh), Montreal, tr. E8, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  101. ^ “Gord Howe ties Rocket Richard but Wings lose” [Gord Howe bằng với Rocket Richard nhưng Wings thất trận], Ottawa Citizen (bằng tiếng Anh), tr. 17, ngày 14 tháng 1 năm 1960, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  102. ^ Maurice "Rocket" Richard Trophy (bằng tiếng Anh), Hockey Hall of Fame, Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 11 năm 2021, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  103. ^ Foran 2011, tr. 129.
  104. ^ “Maurice Richard resigning as Canadiens' vice-president” [Maurice Richard thôi chức phó chủ tịch Canadiens], The Gazette (bằng tiếng Anh), Montréal, tr. 21, ngày 30 tháng 8 năm 1965, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  105. ^ Foran 2011, tr. 134.
  106. ^ Foran 2011, tr. 135.
  107. ^ Foran 2011, tr. 133.
  108. ^ “Richard branches out” [Richard ra kinh doanh], Reading Eagle (bằng tiếng Anh), tr. 36, ngày 7 tháng 11 năm 1962, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  109. ^ Melançon 2009, tr. 52.
  110. ^ Bauch, Hubert (ngày 28 tháng 7 năm 1972), “Rocket returns – as Quebec WHA pilot” [Rocket trở lại, thử nghiệm tại Quebec WHA], The Gazette (bằng tiếng Anh), Montréal, tr. 15, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  111. ^ “Filion follows Richard as Nordiques' coach” [Filion tiếp bước Richard làm huấn luyện viên cho Nordiques], The Gazette (bằng tiếng Anh), Montréal, tr. 33, ngày 28 tháng 10 năm 1972, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  112. ^ a b Vigneault, Michel (2005), “Richard, Maurice, known as the Rocket” [Maurice Richard, biệt hiệu Rocket], Dictionary of Canadian Biography, University of Toronto, lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 11 năm 2021, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  113. ^ Foran 2011, tr. 164.
  114. ^ “Rocket Richard, Montreal's Goal-Scoring Hero, Dies at 78” [Người hùng ghi bàn của Montréal, Rocket Richard qua đời ở tuổi 78], New York Times (bằng tiếng Anh), ngày 28 tháng 5 năm 2000, lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2020, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  115. ^ “Richard: 50 goals, 50 years of marriage” [Richard: 50 bàn, 50 năm hôn nhân], Lakeland Ledger (bằng tiếng Anh), tr. 2D, ngày 15 tháng 9 năm 1992, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  116. ^ Foran 2011, tr. 166.
  117. ^ Melançon 2009, tr. 13.
  118. ^ Rocket Richard dead at 78 [Rocket Richard qua đời ở tuổi 78] (bằng tiếng Anh), Canadian Broadcasting Corporation, ngày 18 tháng 12 năm 2000, lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 11 năm 2021, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  119. ^ Répertoire des personnages inhumés au cimetière ayant marqué l'histoire de notre société [Danh mục những người ghi dấu lịch sử xã hội chúng ta được chôn cất trong nghĩa địa] (bằng tiếng Pháp), Montréal: Notre Dame des Neiges Cemetery
  120. ^ a b Winners [Người chiến thắng] (bằng tiếng Anh), Canada's Sports Hall of Fame, lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 11 năm 2021, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  121. ^ a b “Lou Marsh winners” [Những người được cúp Lou Marsh], Toronto Star (bằng tiếng Anh), ngày 9 tháng 12 năm 2008, lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 11 năm 2021, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021
  122. ^ “Sunday opening Richard arena” [Chủ nhật khai mạc sân Richard], The Gazette (bằng tiếng Anh), Montreal, tr. 32, ngày 7 tháng 12 năm 1961, truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2021
  123. ^ “Canada honors its own after long hesitation” [Canada vinh danh quốc dân sau thời gian dài do dự], Toledo Blade (bằng tiếng Anh), tr. 11, ngày 25 tháng 12 năm 1967, truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2021
  124. ^ a b Maurice Richard (bằng tiếng Anh), Canada's Walk of Fame, lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 2 năm 2012, truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2021
  125. ^ Maurice Richard (bằng tiếng Anh), Canada's Sports Hall of Fame, Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 8 năm 2020, truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2021
  126. ^ Campbell 2010, tr. 38.
  127. ^ Tarasoff, Tamara, Roch Carrier and The Hockey Sweater (bằng tiếng Anh), Canadian Museum of History, lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 5 năm 2021, truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2021
  128. ^ The Hockey Sweater (bằng tiếng Anh), Canadian Broadcasting Corporation, lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2021, truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2021
  129. ^ Brodie, Rob (ngày 3 tháng 6 năm 2000), “Forum for a true icon: Magical TV moment said it all about Rocket's legendary status” [Tòa Forum đối với một biểu tượng thực sự: khoảnh khắc TV kỳ diệu nói dành tất cả cho huyền thoại Rocket], Ottawa Sun (bằng tiếng Anh)
  130. ^ A hero's funeral for Maurice Richard [Tang lễ anh hùng cho Maurice Richard] (bằng tiếng Anh), Canadian Broadcasting Corporation, lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 6 năm 2018, truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2021
  131. ^ Melançon 2009, tr. 186–187.
  132. ^ Melançon 2009, tr. 114.
  133. ^ Canadian Broadcasting Corporation 1975, phút 12:47.
  134. ^ Canadian Broadcasting Corporation 1975, phút 5:51.
  135. ^ Laurendeau, André (ngày 21 tháng 3 năm 1955), “Suspension de Rocket: on a tué mon frère Richard” [Cấm Rocket thi đấu: chúng ta đã giết người anh em Richard], Le Devoir (bằng tiếng Pháp), tr. 4, lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 11 năm 2021, truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2021
  136. ^ Melançon 2009, tr. 115.
  137. ^ Blake, Jason (tháng 8 năm 2009), Two Hockey Solitudes in the Rocket: A Cultural History of Maurice Richard [Hai mặt khúc côn cầu trong Rocket: Lịch sử văn hóa về Maurice Richard] (bằng tiếng Anh), Humanities & Social Sciences Online, lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 11 năm 2021, truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2021
  138. ^ Field 2014, tr. 17.
  139. ^ Richard, Maurice (bằng tiếng Anh), Hockey Hall of Fame, lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2017, truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2021

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Cameron, Steve biên tập (2013), Hockey Hall of Fame Book of Players [Sách Sảnh danh vọng cầu thủ khúc côn cầu] (bằng tiếng Anh), Richmond Hill, Ontario: Firefly Books, ISBN 978-1-77085-224-2
  • Looking back on the milestone Richard Riot [Nhìn lại chặng đường bạo loạn Richard] (bằng tiếng Anh), Canadian Broadcasting Corporation, ngày 17 tháng 3 năm 1975, truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2021
  • Campbell, Ken (2010), “The Greatest Jerseys of All Time” [Những Jerseys vĩ đại nhất mọi thời đại], The Hockey News (bằng tiếng Anh), ISSN 0018-3016
  • Carrier, Roch (2001), Our Life With The Rocket: The Maurice Richard Story [Cuộc sống chúng ta cùng với The Rocket: Câu chuyện Maurice Richard] (bằng tiếng Anh), Fischman, Sheila biên dịch, Toronto, Ontario: Penguin Books, ISBN 0-670-88375-1
  • Diamond, Dan (2013), National Hockey League Official Guide & Record Book 2014 [Sách hướng dẫn & kỷ lục chính thức NHL 2014] (bằng tiếng Anh), Toronto, Ontario: Diamond Sports Data, Inc., ISBN 978-1-894801-26-3
  • Field, Russell (2014), “Representing "The Rocket": The Filmic Use of Maurice Richard in Canadian History” [Đại diện cho "The Rocket": Maurice Richard trong lịch sử Canada lên phim], Journal of Sport History (bằng tiếng Anh), 41, JSTOR 10.5406/jsporthistory.41.1.15 – qua JSTOR
  • Foran, Charles (2011), Maurice Richard (bằng tiếng Anh), Toronto, Ontario: Penguin Books, ISBN 978-0-670-06412-0
  • Lavigne, Carl biên tập (2013), 2013–14 Montreal Canadiens Media Guide [Hướng dẫn media của Montreal Canadiens 2013–14] (bằng tiếng Anh), Montreal Canadiens Hockey Club
  • McKinley, Michael (2006), Hockey: A People's History [Khúc côn cầu: Lịch sử một dân tộc] (bằng tiếng Anh), Toronto, Ontario: McClelland & Stewart, ISBN 0-7710-5769-5
  • Melançon, Benoît (2009), The Rocket: A Cultural History [The Rocket: Lịch sử văn hóa] (bằng tiếng Anh), Reed, Fred A. biên dịch, Vancouver, British Columbia: Greystone Books, ISBN 978-1-55365-336-3
  • O'Brien, Andy (1961), Rocket Richard (bằng tiếng Anh), Toronto, Ontario: Ryerson Press
  • —— (2001), Rocket Richard (bằng tiếng Anh), Toronto, Ontario: Ryerson Press, ISBN 978-0-9686220-4-9
  • Pincus, Arthur (2006), The Official Illustrated NHL History [Lịch sử NHL bằng hình ảnh bản chính thức] (bằng tiếng Anh), Montreal, Quebec: Readers Digest, ISBN 0-88850-800-X
  • Podnieks, Andrew (2003), Players: The ultimate A–Z guide of everyone who has ever played in the NHL [Cầu thủ: Hướng dẫn toàn bộ từ A-Z về những người đã chơi trong NHL] (bằng tiếng Anh), Toronto, Ontario: Doubleday Canada, ISBN 0-385-25999-9

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Maurice Richard.
  • Thông tin tiểu sử và thống kê sự nghiệp tại Elite prospects hoặc Hockey Reference hay Dictionary of Canadian Biography (tiếng Anh)
  • "Rocket" Richard: The Legend – The Legacy – Bảo tàng Lịch sử Canada (tiếng Anh)
Vị trí thể thao
Tiền nhiệm
Émile Bouchard
Đội trưởng Montréal Canadiens
1956–60
Kế nhiệm
Doug Harvey
Tiền nhiệm
Mới tạo
Huấn luyện viên trưởng Nordiques de Québec
2 trận, 1972
Kế nhiệm
Maurice Filion
Giải thưởng
Tiền nhiệm
Max Bentley
Cúp Hart
1947
Kế nhiệm
Buddy O'Connor

Ai được coi là cầu thủ khúc côn cầu vĩ đại nhất mọi thời đại?

Vì vậy, cảnh báo spoiler, Wayne Gretzky là số 1 trong danh sách của chúng tôi. Người ta có thể tranh luận Gretzky thực sự thuộc về Hall of Fame trong hai hạng mục - với tư cách là một người chơi và là một người xây dựng. Có thể cho rằng, không có cá nhân nào làm nhiều hơn để phát triển trò chơi NHL, trong và ngoài băng, hơn Gretzky.Wayne Gretzky is No. 1 on our list. One could argue Gretzky actually belongs in the Hall of Fame in two categories – as a player and as a builder. Arguably, no single individual did more to grow the NHL game, on and off the ice, than Gretzky.

10 cầu thủ NHL tốt nhất mọi thời đại là ai?

Top 10 cầu thủ khúc côn cầu tốt nhất mọi thời đại..

Wayne Gretzky ..

Mario Lemieux ..

Gordie Howe ..

Mark Messier ..

Bobby Orr ..

Steve Yzerman ..

Sidney Crosby ..

Guy Lafleur ..

Ai đều có 500 bàn thắng trong lịch sử NHL?

Mục tiêu thứ 500..

Sidney Crosby.Chim cánh cụt Pittsburgh.C. 2021-22.....

Patrick Marleau.Cá mập San Jose.C. 2016-17.....

Marian Hossa.Chicago Blackhawks.R. 2016-17.....

Alex Ovechkin.Thủ đô Washington.L. 2015-16.....

Jarome Iginla.Ngọn lửa Calgary.R. 2011-12.....

Keith Tkachuk.St. Louis Blues.L. ....

Jeremy Roenick.Cá mập San Jose.C. ... .

Mike Modano.Ngôi sao Dallas.C..

Ai là cầu thủ NHL nhanh nhất đạt 1000 điểm?

Các trò chơi NHL ít cần thiết để đạt được điểm là 424, được thiết lập bởi Wayne Gretzky.Thứ hai nhanh nhất là Mario Lemieux, đạt được dấu ấn trong trận đấu thứ 513 của mình.Wayne Gretzky. Second quickest was Mario Lemieux, achieving the mark in his 513th game.

Xếp hạng 30 người chơi hàng đầu trong NHL hôm nay

0 trên 10

    Top 100 người chơi nhl hôm nay năm 2022

    David Zalubowski/Associated Press

    Cách chúng tôi đánh giá người chơi NHL đã phát triển rất nhiều trong thập kỷ qua hoặc lâu hơn.

    Trở lại từ đầu đến giữa những năm 2000, một chuyên gia có thể đã có thể thoát khỏi việc sử dụng cộng với cộng đồng để mô tả sự không thể bảo vệ của một người phòng thủ trong khu vực của họ.Người ta thậm chí có thể sử dụng chỉ số này để giành được một hoặc hai đối số.

    Điều tương tự cũng xảy ra đối với các số liệu thống kê đếm truyền thống cho netminder.

    Tất cả chúng ta đều hiểu những gì tiết kiệm tỷ lệ phần trăm và mục tiêu trung bình đang cố gắng nói với chúng ta.Ditto cho các phần cộng với phần đầu đã nói ở trên và tương tự.Chỉ là, nhờ vào công việc không mệt mỏi của vô số nhà nghiên cứu, nhà phân tích và nhà thống kê, chúng tôi có những cách tốt hơn để phá vỡ những gì người chơi và không làm trên băng.trying to tell us. Ditto for the aforementioned and similarly archaic plus-minus. It's just that, thanks to the tireless work of countless researchers, analysts and statisticians, we have better ways to break down what players are and are not doing out on the ice.

    Điều đó không có nghĩa là những gì mắt chúng ta đang nói với chúng ta là không liên quan.Dữ liệu trinh sát và quan sát vẫn có vai trò trong một trò chơi có thể ngẫu nhiên như khúc côn cầu. & NBSP;

    Cuộc thảo luận xung quanh Seth Jones sau khi Chicago Blackhawks có được anh ta vào mùa hè vừa qua là một ví dụ hoàn hảo về cách hai trường phái tư tưởng này có thể đụng độ.Một mặt, các trinh sát xung quanh giải đấu thường nghĩ rất cao về người phòng thủ Rangy.Rốt cuộc, anh là một trong ba người chơi đầu tiên được đặt tên cho Đội Hoa Kỳ, người sẽ hướng đến Thế vận hội giữa mùa giải.

    Tuy nhiên, những người có xu hướng dựa vào các số liệu thống kê xem Jones được đánh giá cao.Một người chơi đã chứng kiến trò chơi của anh ta suy giảm trong ba mùa liên tiếp để đi cùng với một gia hạn hợp đồng có thể là một thảm họa cho Chicago.could be a disaster for Chicago.

    Tất cả điều này là để nói rằng xếp hạng 30 người chơi hàng đầu theo thứ tự có ý nghĩa là một bài tập phức tạp và phức tạp.Chúng tôi sẽ cố gắng làm như vậy ở đây với một vài cảnh báo để ghi nhớ.

    Điều quan trọng là phải nhận ra những hạn chế của dữ liệu khi phân tích một số loại người chơi nhất định.Cụ thể là phòng thủ phòng thủ và netminder.Cụm từ "thủ môn là voodoo" bị mắc kẹt vì một lý do;Vị trí này là cả quan trọng nhất và biến động nhất đối với các đội NHL.Những trở ngại đó rõ ràng đang diễn ra trong suốt danh sách này.

    Nó cũng có thể an toàn nhất để xem điều này trong các tầng.Khoảng cách giữa số 4 và số 8, chẳng hạn, sẽ không đặc biệt rộng.Nhưng bước nhảy từ số 2 đến số 22 sẽ không đáng kể.

Số 30-26: Eichel, Shesterkin, Bergeron, Kaprizov, Hamilton

1 trên 10

    Top 100 người chơi nhl hôm nay năm 2022

    Andy Clayton-King/Associated Press

    30. Jack Eichel

    Chúng tôi đang đặt Jack Eichel ở đây ở vị trí thứ 30 với hy vọng anh ấy trở lại chơi trong mùa giải 2021-22.NHL không có đủ cầu thủ ghi bàn điện, và đó chính xác là lựa chọn thứ hai trước đây.

    Khi khỏe mạnh, Eichel có khả năng thử thách cho Rocket Richard Trophy.Anh ấy cũng có được danh tiếng này với tư cách là thành viên của Buffalo Sabers.Chỉ cần tưởng tượng những gì anh ấy có thể làm chơi với các đồng đội lành nghề hơn.

    29. Igor & nbsp; Shesterkin

    Điều này có thể làm tăng một số lông mày.Đặc biệt là khi bạn xem xét một số netminder được thiết lập hơn, những người mà chúng tôi quyết định rời khỏi danh sách này hoàn toàn.Tuy nhiên, chỉ có một cái gì đó đặc biệt về & nbsp; igor & nbsp; shesterkin.Khi các kiểm lâm viên New York tiếp tục phát triển thành các ứng cử viên, chúng tôi nghĩ rằng ánh đèn sân khấu sẽ còn sáng hơn cho cầu thủ 25 tuổi.

    Có thể cho rằng không có nơi nào tốt hơn để tạo dựng tên tuổi cho mình như một vận động viên hơn thành phố New York, và chúng ta có thể thấy & nbsp; Shesterkin kết thúc mùa giải 2021-22 như một phần của cuộc trò chuyện Vezina Trophy.Anh ấy đã hoàn thành thứ tư về tỷ lệ phần trăm khởi động chất lượng năm ngoái, và chúng tôi nghĩ rằng anh ấy tiến thêm một bước từ đó.Shesterkin finishing the 2021-22 season as a part of the Vezina Trophy conversation. He finished fourth in quality start percentage last year, and we think he takes another step forward from there.

    28. Patrice Bergeron

    Những gì có thể được nói về Patrice Bergeron chưa được nói?Nếu bạn có thể phát triển một trung tâm số 1 trong phòng thí nghiệm, tỷ lệ cược là tốt, họ sẽ xuất hiện trông rất giống đội trưởng Boston Bruins.Có trách nhiệm phòng thủ, có khả năng tấn công và là một nhà lãnh đạo xuất sắc để khởi động.

    Không có một đội nào trong giải đấu sẽ không lấy bản sao Bergeron (hoặc thỏa thuận thực sự) trong danh sách của họ.

    27. & nbsp; Kirill Kaprizov

    Điều duy nhất thú vị hơn & NBSP; Kirill Kaprizov trên một tảng băng là trò chơi gà mà anh ấy và Minnesota Wild chơi với nhau suốt mùa hè.Sau khi giành được chiếc cúp Calder, & nbsp; Kaprizov có một số đòn bẩy trên tự nhiên như một RFA.Kaprizov had some leverage over the Wild as an RFA.

    Mặc dù chỉ xuất hiện trong 55 trận đấu thường xuyên, cánh đã giành được hợp đồng năm năm trị giá 45 triệu đô la.Một số người chơi có thể thu hẹp từ áp lực thêm của một cú đánh mũ trị giá 9 triệu đô la.Chúng tôi không thấy & nbsp; Kaprizov làm như vậy, và đến thời điểm này vào năm tới, anh ấy cũng có thể ở trong Top 10. & nbsp của chúng tôi;Kaprizov doing so, and by this time next year, he could well be inside of our top 10. 

    26. Dougie Hamilton

    Một trong những người chơi gây chia rẽ hơn trong NHL, một số trinh sát và học giả tin rằng Dougie Hamilton là một người phòng thủ ưu tú bonafide, có khả năng lái cặp và dòng của riêng mình.Những người khác coi anh ấy là một sản phẩm của các đội và đối tác tốt.

    Bất kể anh ấy có ưu tú hay không, không có câu hỏi nào về việc anh ấy tốt.Và ở New Jersey mùa này, anh ấy sẽ có mọi cơ hội để chứng minh rằng anh ấy thực sự mạnh mẽ như thế nào.Hiện tại, anh quanh quẩn ngay bên trong 30 cầu thủ giỏi nhất trong NHL.

Nos. 25-21: Pettersson, Ovechkin, Fox, Barzal, Kane

2 trên 10

    Top 100 người chơi nhl hôm nay năm 2022

    Patrick McDermott/Getty Images

    25. Elias Pettersson

    Elias Pettersson đã là người chơi quan trọng nhất trong đội của anh ấy.Trong khi Vancouver Canucks có một số ít các cầu thủ lành nghề trong top sáu của họ, trung tâm số 1 (và sức khỏe của anh ấy) rất quan trọng đối với thành công của đội.

    Anh ta lái xe buýt trên một hàng với J.T.Miller và & NBSP; Brock Boeser, và bộ ba đó có thể kết thúc mùa giải với tư cách là một trong những đơn vị chuyển tiếp hiệu quả nhất của NHL.Liệu nó có phụ thuộc vào Pettersson hay không.Chỉ mới 22 tuổi, chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi chỉ thấy sự khởi đầu của những gì anh ấy có khả năng.

    24. Alexander Ovechkin

    Mục tiêu ghi bàn trong NHL là khó khăn.Tạo ra hành vi phạm tội là điều khó khăn nhất để làm trong môn thể thao này.Tuy nhiên, đó chưa bao giờ là vấn đề đối với Alexander Ovechkin.Anh ấy là cầu thủ ghi bàn tốt nhất của thế hệ này và đang trong một cuộc thập tự chinh để đạt được kỷ lục ghi bàn mọi thời đại của Wayne Gretzky.

    Anh ta chưa bao giờ là một lực lượng hai chiều, nhưng Thủ đô Washington không cần anh ta.Và cho đến khi phòng thủ tìm ra một cách để ngăn chặn một lần của mình từ vòng tròn bên trái, Ovechkin sẽ vẫn là một mối đe dọa ghi điểm cao cấp.

    23. Adam Fox

    Giống như một vài người chơi khác trong danh sách này, rất có thể Adam Fox có thể được xem là một người chơi top 10 hoặc top 15 vào cuối năm 2021-22.Người ta thậm chí có thể đưa ra lập luận rằng anh ta đã có.Các kiểm lâm viên sử dụng anh ta trong mọi tình huống cấp cao mà bạn có thể nghĩ đến.

    Anh ta đã tung ra những cầu thủ giỏi nhất của phe đối lập, được yêu cầu điều hành đơn vị chơi quyền lực hàng đầu và kiểm soát dòng chảy chơi ở năm trên năm.Mặc dù chỉ mới 23 tuổi, anh ấy vẫn xuất sắc trong vai trò này và đã có một chiếc cúp Norris với tên của mình.Đừng ngạc nhiên nếu anh ấy quản lý để bảo vệ danh hiệu đó trong mùa giải này.

    22. Mathew Barzal

    Mathew Barzal là một trong những điều tốt nhất tuyệt đối của giải đấu về việc giúp đội của anh ấy chuyển từ phòng thủ sang tấn công.Anh ấy là loại người chơi mà bạn sẽ trả tiền để xem trực tiếp, và anh ấy là người ở New York Islanders có kỹ năng nhất.

    Đây là một đội muốn khó khăn để chơi.

    Mặc dù vậy, ai đó phải tạo ra hành vi phạm tội, và Barzal được cho là ưu tú khi nói đến việc đó.Anh ấy chưa hoàn toàn được coi là một cầu thủ tầm cỡ nền tảng nhượng quyền, nhưng anh ấy gần gũi.

    21. Patrick Kane

    Thật dễ dàng để quên rằng Patrick Kane đã ở độ tuổi 30.Mặc dù chúng ta thường thấy người chơi bắt đầu giảm ở mức 32, nhưng đó không phải là trường hợp của Blackhawks.Anh ấy đã hoàn thành tổng thể thứ năm trong việc ghi bàn một năm trước, và với Chicago làm tất cả những gì có thể để thêm tài năng, có lý do để tin rằng Kane sẽ là nhà sản xuất top 10 một lần nữa.

Nos 20-16: Marner, Stone, Hellebuyck, Josi, Heiskanen

3 trên 10

    Top 100 người chơi nhl hôm nay năm 2022

    Icon Sportswire/Getty Images

    20. Mitch Marner

    Chúng tôi chắc chắn rằng mọi người đang kêu gọi phần bình luận đồng ý với chúng tôi rằng Mitch Marner là cầu thủ giỏi thứ 20 trong NHL.Nếu bạn tin rằng Auston Matthews là một cầu thủ ghi bàn ưu tú (mà bạn nên) thì bạn phải cung cấp cho Marner tín dụng vì rất giỏi trong việc thiết lập dòng dõi của anh ấy.

    Anh ấy đứng thứ bảy trong giải đấu về điểm mỗi trận đấu vào năm 2021, theo dõi Matthews chỉ với 0,05 điểm mỗi 60.

    Anh ấy sẽ có tốc độ gần 100 điểm nếu mùa giải không bị rút ngắn, và anh ấy là một đồng nghiệp quan trọng trong những gì có thể là dòng nguy hiểm nhất trong giải đấu.Toronto Maple Leafs và Marner có rất nhiều điều để chứng minh trong mùa giải này.

    Có vẻ như anh ấy cũng phụ thuộc vào nhiệm vụ.

    19. Mark Stone

    Có khả năng mạnh mẽ là Mark Stone được trồng trong cùng phòng thí nghiệm với Bergeron.Anh ta là phiên bản cánh của một trung tâm có trách nhiệm, người vẫn có thể có tác động đến hành vi phạm tội.Và trong khi Stone nhận được rất nhiều sự chú ý về việc anh ta mạnh mẽ như thế nào trong cả ba khu vực, đừng ngủ với việc người đi đường tốt như thế nào.

    Mùa trước, anh ấy đã có tốc độ cho 60 hỗ trợ trong một chiến dịch đầy đủ 82 trận, điều này sẽ tốt cho thứ 10 trong giải đấu.

    Các Hiệp sĩ Vàng Vegas đang thúc đẩy một Cup Stanley mùa này, và người đàn ông 29 tuổi có thể là tác phẩm quan trọng nhất cho đội lên phía trước.

    18. Connor & nbsp; Hellebuyck

    Chúng tôi có thể có Connor Hellebuyck đánh giá hơi thấp ở đây.Điều đó nói lên nhiều hơn về việc phân tích Netminder khó khăn hơn là anh ta mạnh mẽ như thế nào.Nếu bạn đã thổi bay giải đấu và để cho tất cả 32 đội bắt đầu từ đầu thông qua một bản nháp giả tưởng hoang dã, & nbsp; Hellebuyck & nbsp; có thể sẽ là netminder thứ hai được thực hiện.Hellebuyck would likely be the second netminder taken.

    Các máy bay phản lực Winnipeg được vượt trội gần như mỗi khi họ lấy băng;Đó là & nbsp; Hellebuyck giữ chúng trong hầu hết các trò chơi này.Với một đường màu xanh được tân trang lại trước mặt anh ta, cầu thủ 28 tuổi có thể thách thức một Vezina khác.Hellebuyck keeping them in most of these games. With a revamped blue line in front of him, the 28-year-old could challenge for another Vezina.

    17. La Mã Josi

    Năm ngoái là một câu chuyện về hai mùa cho Roman Josi.Trong nửa đầu của chiến dịch, người phòng thủ đã đấu tranh để tác động đến các trò chơi như anh ta đã làm trong năm 2019-20.Tuy nhiên, khi năm trôi qua, Blueliner đã lấy lại được hình dạng của mình ở phía sau.

    Hầu như không có người bảo vệ nào trong giải đấu tác động đến trò chơi như Josi.

    Khả năng của anh ta để mang puck cả hai ra khỏi khu vực phòng thủ và vào khu vực tấn công gần như không thể so sánh với bất kỳ đồng nghiệp nào của anh ta.Dù anh ta đi theo con đường nào, vì vậy hãy đi những kẻ săn mồi ở Columbia.Chúng tôi không chắc chắn nếu đó là một điều tốt.

    16. Miro Heiskanen

    Mỗi mùa, NHL ngày càng tiến tới hướng đi của Miro Heiskanen.Anh ấy là một hậu vệ thời đại mới theo mọi ý nghĩa của cụm từ.Anh ấy đã đi chân, cố gắng nhảy vào các vở kịch khi có thể và tích cực tham gia vào cả ba khu vực.

    Mới ra khỏi phần mở rộng tám năm, & NBSP; Heiskanen ảnh hưởng đến trò chơi như Josi.Anh ta có một số phòng để phát triển tấn công, đó, đó là lý do tại sao chúng tôi cho anh ta cái gật đầu nhẹ trong bảng xếp hạng ở đây.Đây có thể là một mùa đặc biệt cho Dallas Stars.Điều này có nghĩa là nó có thể là một chiến dịch đặc biệt cho & nbsp; Heiskanen cũng vậy.Heiskanen impacts the game like Josi does. He has some room to grow offensively, though, which is why we give him the slight nod in the rankings here. This could be a special season for the Dallas Stars. This means it could be a special campaign for Heiskanen, too.

Số 15-11: Barkov, Aho, Point, Marchand, Makar

4 trên 10

    Top 100 người chơi nhl hôm nay năm 2022

    Maddie Meyer/Getty Images

    15. Aleksander Barkov

    Nếu Aleksander Barkov chơi cho một nhượng quyền sáu ban đầu, anh ta sẽ được đánh giá cao như một người như Bergeron.Anh ấy là loại đội tầm cỡ trung tâm hai chiều được xây dựng xung quanh, đó là lý do tại sao Florida Panthers khôn ngoan để khóa anh ấy cho & NBSP; tám năm tới. next eight years.

    Đây là một đội đang gia tăng, và khi Panthers thu hút được sự chú ý nhiều hơn, thì Barkov cũng vậy.Các trung tâm như anh ấy rất, rất khó đến.Anh ấy ngoan cường, có thể xử lý các trận đấu khó khăn nhất và lái xe chơi khi anh ấy ở trên băng.

    14. Sebastian Aho

    Một trung tâm trẻ khác mà chúng tôi đang mang lại một số lợi ích cho sự nghi ngờ, Sebastian Aho có tài năng để một ngày nào đó tham gia vào cuộc trò chuyện về chiến lợi phẩm của Hart.Trần nhà của anh ấy cao như vậy, và khi anh ấy ở trên, anh ấy là một trong những cầu thủ khó khăn nhất trong giải đấu.

    Chúng tôi nghĩ rằng cầu thủ 24 tuổi này có một bước tiến trong mùa này, tự mình trở thành một trụ cột thực sự ưu tú trong một đội có khát vọng của Stanley Cup.

    13. Điểm Brayden

    Có một cuộc tranh luận được đưa ra cho Brayden Point với tư cách là một cầu thủ top 10 trong giải đấu.Nếu chúng tôi chỉ nhìn vào các số playoff, anh ấy sẽ phải ở trong 10 tốt nhất, và anh ấy thậm chí có thể đẩy vào top năm.Anh ấy là trung tâm số 1 trong một đội sắp giành chiến thắng ở Stanley Cup.

    Nếu điều đó không kiếm được sự tôn trọng của bạn, chúng tôi không chắc nó sẽ mất gì.

    12. Brad Marchand

    Sau khi được coi là "chỉ là" một dịch hại của những người hâm mộ bên ngoài Boston, Brad Marchand đã phát triển thành một trong số, nếu không phải là cánh trái tốt nhất trong NHL.Vào thời điểm tất cả được nói và thực hiện, anh ta có thể được coi là một trong những người giỏi nhất từng chơi vị trí của mình.

    B có dòng đầu tiên tốt nhất trong giải đấu, như đã từng xảy ra kể từ Marchand, Bergeron và & NBSP; David Pastrnak lần đầu tiên cùng nhau băng.Về phần mình, Marchand đã ghi bàn với tốc độ hơn 100 điểm trong mỗi bốn mùa giải trước của anh ấy, và gần đây, anh ấy là người lái xe trên cái gọi là hoàn hảo.

    11. Cale Makar

    Chỉ có một người bảo vệ được xếp hạng trước Cale Makar ở đây.Chúng tôi không chắc chắn rằng chúng tôi không nên lật hai người, nhưng không thể phủ nhận rằng anh ấy sẽ tham gia cuộc trò chuyện Trophy Norris trong nhiều năm tới.Tác động trên băng của anh ấy ở độ bền chẵn là gần như thứ hai đến không.

    Makar di chuyển puck lên băng tốt hơn bất kỳ ai không tên là Roman Josi, và một khi anh ta ở trong khu vực tấn công, anh ta có khả năng biến những điều đặc biệt xảy ra.Trượt băng của anh ấy là tuyệt vời, và cách anh ấy đi trên đường màu xanh nhắc nhở một trong & nbsp; Nicklas Lidstrom.

Nos 10-6: Pastrnak, Crosby, Vasilevskiy, Hedman, Draisaitl

5 trên 10

    Top 100 người chơi nhl hôm nay năm 2022

    Icon Sportswire/Getty Images

    10. David Pastrnak

    Chúng tôi sẽ không chống lại bạn nếu bạn muốn lật Marchand và David Pastrnak ở đây.Có những vấn đề tồi tệ hơn là cố gắng tìm ra cánh nào tốt hơn nếu bạn là một người hâm mộ Bruins.

    Đây là một nhượng quyền thương mại hợp pháp về phía trước;Loại cầu thủ mà các đội hy vọng sẽ hạ cánh với một lựa chọn hàng đầu trong dự thảo.Rằng người Bruins đã chộp lấy anh ta với lựa chọn thứ 25 là đáng kinh ngạc.

    Chúng tôi không chắc chắn chính xác những gì & nbsp; pastrnak sẽ trông giống như nếu không có hai người chơi ưu tú khác trên dòng của anh ấy, nhưng điều đó không thực sự quan trọng.Anh ấy là một người chơi top 10 bonafide trong mắt chúng tôi.Trong ba năm qua, chỉ có bảy tiền đạo đã tạo ra điểm với clip cao hơn trên 60 so với Pastrnak.Pastrnak would look like without two other elite players on his line, but it doesn't really matter. He's a bonafide top-10 player in our eyes. Over the past three years, only seven forwards have produced points at a higher clip per 60 than Pastrnak.

    9. Sidney Crosby

    Một vài năm trước, Sidney Crosby sẽ là người chơi đầu tiên được đề cập trong bất kỳ "người chơi giỏi nhất thế giới" & cuộc trò chuyện NBSP;Tuổi đã dần đưa người đàn ông 34 tuổi xuống một hoặc hai cái.Vấn đề là, số 87 luôn luôn tốt đến nỗi ngay cả một phiên bản chậm lại của anh ta cũng là một trong những cầu thủ giỏi nhất trong NHL.

    Anh ấy vô cùng tham gia vào vở kịch mọi lúc cho Pittsburgh Penguins.Crosby vẫn là một người qua đường ưu tú, và trong khi đây có thể là mùa giải cuối cùng chúng ta thấy anh ta là một tài năng top 10, thì nói chung là không khôn ngoan khi đặt cược chống lại đứa trẻ.

    8. Andrei & nbsp; Vasilevskiy

    Và bây giờ chúng tôi đến NetMinder tốt nhất trong giải đấu.Có một số người thách thức chắc chắn, nhưng người đàn ông 27 tuổi có khả năng tiếp nhận tất cả những người đến.

    Athletic gần đây đã thực hiện một cuộc khảo sát ẩn danh của các tổng giám đốc và huấn luyện viên NHL, yêu cầu họ xếp hạng các thủ môn tốt nhất trong giải đấu.Anh ấy đã tiết kiệm được 21 bàn thắng trên mức trung bình trong mùa giải thông thường và thậm chí còn tốt hơn trong vòng playoffs.Vasilevskiy was No. 1, despite some responders believing that he's actually underrated. He saved 21 goals above average during the regular season and was even better in the playoffs.

    Để trở thành người đàn ông, bạn phải đánh bại người đàn ông.Cho đến khi một thủ môn khác vượt qua "VAS" trong loạt bảy trận, anh ta là người đàn ông.

    7. Victor Hedman

    Victor Hedman đã có rất nhiều sức nóng mùa trước.Anh ta bước vào năm thường được xem là một trong những người phòng thủ thống trị nhất của trò chơi, chỉ xuất hiện một bước lùi lại cho Lightning.Hóa ra anh ta lặng lẽ chơi qua một chấn thương, một người hạn chế sự bùng nổ của anh ta.

    Lấy lại ở tuổi 30 có thể là một yêu cầu lớn đối với Hedman, nhưng anh ấy quá tốt để tăng xe tăng vì một chấn thương.Sẽ rất thú vị để xem liệu Hedman có thể nhập lại cuộc trò chuyện Trophy Norris hay không.Nếu anh ta không thể, một cầu thủ như Makar có thể ở đây vào thời điểm này mùa tới.

    6. Leon & nbsp; Draisaitl

    Nếu Leon Draisaitl thậm chí có thể là một hậu vệ trung bình, thì anh ta sẽ bẻ khóa top năm mà không có câu hỏi.Khoảng cách giữa anh ấy và số 5 không phải là tất cả;Nó chỉ đơn giản là đến mức độ linh hoạt của người đàn ông 25 tuổi.Hoặc, đúng hơn, không phải.

    Mặc dù phải vật lộn một chút, anh ấy vẫn là một trong những tay đua giỏi nhất trong giải đấu, và sự hiện diện của anh ấy trên dòng thứ hai ở Edmonton mở ra một số điều cho McDavid fella '.

    Draisaitl có khả năng trở thành người chơi giỏi nhất thế giới trong bất kỳ đêm nào, và chúng tôi đã phải tôn trọng điều đó ở đây.

Số 5: Artemi Panarin

6 trên 10

    Top 100 người chơi nhl hôm nay năm 2022

    Bruce Bennett/Getty Images

    Rất ít người chơi trong NHL có khả năng tiếp quản các trò chơi như & nbsp; Artemi Panarin.Thông thường, chúng tôi tìm đến những người chơi cao cấp để mở ra mọi thứ cho một hoặc hai ca cùng một lúc, nhưng cánh New York Rangers chỉ đơn giản là đưa mọi thứ lên một cấp độ khác.

    Anh ấy có thể là người qua đường giỏi nhất trong giải đấu;Tầm nhìn của Panarin cho phép anh ta nâng cao những người cấp độ thay thế thành các mối đe dọa ghi bàn.Tất cả các đường chuyền không được tạo ra như nhau, và khả năng tìm đồng đội của anh ấy trong các điểm bắn súng cao cấp là ưu tú.

    Bởi vì điều này, New York là một đội khác biệt rõ rệt khi Panarin ra ngoài băng trong năm trên năm.Các điểm thậm chí có sức mạnh của anh ta trên 60 (3.6) & nbsp; xếp thứ hai & nbsp; chỉ có Connor McDavid vào năm 2021. Nếu sau này không đạt đến cấp độ thống trị tấn công của Wayne Gretzky, cả hai có thể thậm chí còn gần hơn về mặt sản lượng. ranked second to only Connor McDavid in 2021. If the latter hadn't reached Wayne Gretzky's levels of offensive dominance, the two might appear to be even closer in terms of output.

    Rangers ít tài năng hơn một năm trước, vì vậy Panarin sẽ phải đối mặt với nhiều áp lực hơn để lái xe từ dòng đầu tiên.Các tác động trên băng lịch sử của anh ta cho thấy rằng đó sẽ không phải là một điều tồi tệ đối với New York.

    Panarin là một trong số ít những người chơi trong giải đấu có thể hình dung ra khỏi rào cản 100 điểm vào năm 2021-22, và anh ta là vận động viên trượt băng quan trọng nhất trên Rangers.Họ đã đi 5-9-0 trong các trò chơi mà cánh không xuất hiện trong một năm trước.

    Nếu bạn đang tìm kiếm một người ngủ Hart Trophy, đừng tìm đâu xa ngoài Panarin.

Số 4: Nikita Kucherov

7 trên 10

    Top 100 người chơi nhl hôm nay năm 2022

    Phelan M. Ebenhack/Associated Press

    Đôi khi bạn không biết những gì bạn đã có cho đến khi nó biến mất.Đó là trường hợp của Nikita Kucherov, người đã không chơi một trận đấu thường xuyên cho Lightning mùa trước.Tuy nhiên, bất cứ ai quên mất việc một cầu thủ 28 tuổi này đã nhanh chóng được nhắc nhở như thế nào khi trận playoff bắt đầu, tuy nhiên.

    Kucherov ghi được 32 điểm chỉ trong 27 trận đấu tranh chấp, đưa ra 4,56 điểm vô lý cho mỗi 60 trong mọi tình huống trên đường đi.

    Sự đồng thuận chung là NHL là giải đấu của Connor McDavid và mọi người khác chỉ đang chơi trong đó.Sau những gì đội trưởng Oilers đã làm trong mùa giải 2021 bị cắt ngắn, thật dễ dàng để biết lý do tại sao.

    Mặc dù hạ cánh ở vị trí thứ 4 trong danh sách của chúng tôi ở đây, Kuucherov có thể là người chơi có cơ hội tốt nhất để giành chiến thắng nghệ thuật Ross khỏi McDavid.1,06 điểm của anh ấy trên 60 điểm trong ba mùa qua chỉ có McDavid, và có cảm giác như Kucherov có thể có một thiết bị khác mà anh ấy có khả năng đánh trong vài năm cuối cùng của anh ấy.

    Ngay cả khi tất cả những gì chúng tôi kết thúc là một Kucherov trung bình, anh ấy vẫn là một trong những người chuyển tiếp tốt nhất trên hành tinh và có thể thổi các trò chơi mở hiệu quả hơn và thường xuyên hơn bất kỳ ai anh ấy xếp hạng trước trong danh sách này.

Số 3 Auston Matthews

8 trên 10

    Top 100 người chơi nhl hôm nay năm 2022

    Hình ảnh Claus Andersen/Getty

    Tìm hiểu làm thế nào để xếp hạng ba người chơi hàng đầu ở đây là khó khăn.Cho dù bạn cắt nó như thế nào, tuy nhiên, có ba tiền đạo, chúng tôi sẽ phá vỡ phần còn lại của con đường ... và sau đó có những người khác.Đúng, Kucherov có thể ghi được nhiều điểm hơn bất kỳ điểm nào trong ba điểm này, nhưng các tác động trên băng của anh ta không hoàn toàn ở nơi kỳ lân này.

    Auston Matthews là người thừa kế rõ ràng đối với Ovechkin về việc trở thành cầu thủ ghi bàn hàng đầu của giải đấu.Không quá khó để tranh luận rằng anh ta đã đứng đầu về khả năng hoàn thiện.

    Anh ấy là cầu thủ duy nhất trong giải đấu ghi được hơn hai bàn thắng mỗi 60 phút chơi vào năm 2021, một tốc độ 65 mục tiêu lố bịch trong một mùa giải 82 trận đầy đủ.Mặc dù chúng tôi có thể xem những điểm nổi bật về điểm số của anh ấy cả ngày và khá hạnh phúc với cuộc sống của chúng tôi, Matthews là một cầu thủ hai chiều hoàn chỉnh hơn anh ấy được ghi nhận.

    Đó là sự khác biệt giữa một người như anh ta và một người chuyển tiếp như & nbsp; Draisaitl.Cả hai đều là những tài năng tấn công đáng chú ý, có khả năng ghi bàn từ bất cứ nơi nào bên trong cuộc tấn công.Tuy nhiên, Toronto Maple Leafs là một câu lạc bộ tốt hơn nhiều trong cả ba khu vực khi Matthews ở trên băng, tuy nhiên, đó là điều khiến anh ấy trở thành một cầu thủ đặc biệt như vậy.

    Maple Leafs có rất nhiều điều để chứng minh trong mùa này.Matthews cũng vậy.Có ai có thể ngăn anh ta bảo vệ chiếc cúp Rocket Richard trong năm thứ hai liên tiếp không?Chấn thương, chúng tôi không thấy nó.

Số 2: Nathan Mackinnon

9 trên 10

    Top 100 người chơi nhl hôm nay năm 2022

    RJ Sangosti/Medianews Group/The Denver Post qua Getty Images/Getty Images

    Không có hai cách nào về nó: McDavid đã đi hạt nhân vào năm 2021. Nathan Mackinnon xếp thứ hai ở đây có liên quan nhiều đến việc trước đây là một năm trước đây không phải là một tài năng đặc biệt.

    Đây là "năm" cho Avalanche.

    Đó là mùa mà mọi thứ được cho là sẽ đến với nhau và lên đến đỉnh điểm trong một cuộc diễu hành của Stanley Cup.Một số mô hình công khai tốt nhất có sẵn có chúng & nbsp; được đánh dấu là mục yêu thích vô địch, và Mackinnon là trung tâm của toàn bộ.

    Boston có thể đưa ra yêu sách cho dòng chuyển tiếp tốt nhất trong NHL, nhưng Colorado có khả năng đóng băng đơn vị năm trên năm tốt nhất trong giải đấu, không có gì.Khi MacKinnon đánh băng với Linemates Gabriel Landeskog, & nbsp; Mikko Rantanen, Devon Toews và Makar, trò chơi khúc côn cầu trông giống như một trò chơi tránh xa.

    Mackinnon đã ghi được khoảng một clip 110 điểm trong ba trong bốn chiến dịch cuối cùng của anh ấy và đó chỉ là vấn đề thời gian trước khi anh ấy bắt đầu giành được một số phần cứng cá nhân.Colorado xuất hiện dành cho một mùa giải thực sự đặc biệt, và cầu thủ giỏi nhất của nó sẽ đi đầu trong bất cứ điều gì nó đạt được vào năm 2021-22.

Số 1: Connor McDavid

10 trên 10

    Top 100 người chơi nhl hôm nay năm 2022

    Darcy Finley/Getty Images

    Cố gắng mô tả những gì McDavid đã làm vào năm 2021 sẽ giống như cố gắng giải thích cho một người bạn cảm giác như thế nào khi thấy & nbsp; trực tiếp "hoa loa kèn" ngoạn mục của Claude Monet.Hoặc lần đầu tiên cảm thấy như vậy khi nhìn con người trên mặt trăng.

    OK, vì vậy có lẽ đó là một chút hyperbolic, nhưng Holy Wow là đặc biệt năm 2021 của McDavid.Hầu hết các tài năng cao cấp trong giải đấu đều có giá trị khoảng 2,5 hoặc ba chiến thắng.Thật khó để di chuyển kim nhiều như một cá nhân trong NHL.

    McDavid đã phá vỡ khuôn mẫu đó trong mỗi mùa của mình và 2021-22 dường như không đi theo một hướng khác cho tài năng thế hệ. & NBSP; Dom Luszczyszyn & nbsp;5,8 chiến thắng trong mùa giải.Dom Luszczyszyn of The Athletic projected that the forward will be worth a mind-boggling 5.8 wins during the season.

    Luszczyszyn hùng hồn đã phá vỡ năm 2021 của McDavid như thế này và chúng tôi không chắc chắn liệu có cách nào rõ ràng hơn để minh họa cho sự thống trị của Trung tâm:

    "Trong thời đại này, tôi sẽ không bao giờ tưởng tượng ra bất cứ điều gì giống như những gì chúng ta đã chứng kiến vào năm 2021, nơi anh ấy đã ghi được 105 điểm trong 56 trận đấu, tốc độ 154 điểm đáng kinh ngạc. Nó tốt hơn 21 điểm so với đồng đội của anh ấy, Draisaitl và 36Điểm tốt hơn so với người chơi không phải là người không phải là người giỏi nhất tiếp theo. Được điều chỉnh theo ERA, nó được gắn với mùa ghi bàn tốt thứ tám từ trước đến nay và xếp thứ năm trong kỷ nguyên hiện đại. "

    Tiêu đề của cầu thủ khúc côn cầu giỏi nhất trên hành tinh Trái đất thuộc về McDavid, và trừ khi anh ta lùi lại một bước hoặc Matthews và/hoặc Mackinnon đánh một thiết bị khác, điều đó sẽ không thay đổi trong mùa giải này.

    Thống kê nâng cao từ Stathead.com hoặc khúc côn cầu Quant trừ khi có ghi chú khác. & NBSP;

Ai là người chơi giỏi nhất trong NHL 2022?

2022-23 NHL xếp hạng: Dự đoán người chơi hàng đầu giữa các đội..
Kris Letang, D, Pittsburgh Penguins ..
Mats Zuccarello, RW, Minnesota hoang dã.....
Thomas Chabot, D, Thượng nghị sĩ Ottawa.....
Alex Pietrangelo, D, Hiệp sĩ Vàng Vegas.....
Bo Horvat, C, Vancouver Canucks.....
Seth Jones, D, Chicago Blackhawks.....
Tomas Hertl, C, San Jose Sharks.....

Ai là người chơi số 1 trong NHL?

Connor McDavid, C, Edmonton Oilers.Đối với mùa thứ ba liên tiếp, McDavid đứng đầu danh sách.Cầu thủ 22 tuổi đứng thứ hai trong NHL với 116 điểm (41 bàn thắng, 75 pha kiến tạo), sau Kucherov và có ít nhất một điểm trong 66 trong số 78 trận đấu của anh cho Oilers., C, Edmonton Oilers. For the third straight season, McDavid tops the list. The 22-year-old finished second in the NHL with 116 points (41 goals, 75 assists), behind Kucherov, and had at least one point in 66 of his 78 games for the Oilers.

Ai là cầu thủ khúc côn cầu Canada giỏi nhất ngay bây giờ?

Người chơi NHL của Canada-số liệu thống kê 2019-2020.