Cung cấp những thông tin
và bằng chứng để làm luận cứ khoa học cho việc hoạc định chính sách xã hội là một
nhiệm vụ quan trọng của xã hội học. Với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã
hội như chính trị hay văn hóa,... cách nhìn xã hội học sẽ đưa đến một cách nhìn
mới, khá toàn diện về một vấn đề, theo nghĩa, mỗi một lĩnh vực là một thành tố
trong tổng thể xã hội nhất định, và nó phải được xem xét với tư cách là một hệ
thống. Theo cách nhìn đó, xã hội học khi nghiên cứu các chính sách xã hội
(trong đó có chính sách văn hóa) là nhằm tới việc giải quyết những vấn đề cấp
bách theo một cách khác hơn so với các quan điểm thuần văn hóa hay chính trị.
1.
Chính sách văn hóa.
Ở Việt Nam,
"Chính sách văn hóa" là một thuật ngữ mới, chính vì thế chưa được hiểu
thống nhất trên qui mô quốc gia. Tình trạng: mỗi ngành, mỗi cấp hiểu, quan niệm
"chính
sách" theo một
kiểu vẫn đang còn tiếp diễn ở Việt Nam.
Lâu nay, chúng ta vẫn
quen dùng cụm từ "đường lối của Đảng", "chủ trương của Đảng",
v.v. (ví dụ: đường lối quân sự, đường lối văn hóa,...). Điều đó có nghĩa là:
các cơ quan quản lý Nhà nước (các Bộ) trực tiếp hiện thực hóa các chủ trương,
đường lối của Đảng mà thường là không thông qua việc thể chế hóa các đường lối ấy
trên phương diện Nhà nước.
Ngày nay, Đảng và Nhà nước
Việt Nam
đã nhận thấy tính không đồng bộ và thiếu hoàn thiện của cơ chế trên và đã có những
thay đổi có tính chất triệt để trong quá trình xây dựng một chính sách văn hóa ở
thời kỳ mới.
Trước hết, về mặt nhận
thức, chúng ta tán thành cách quan niệm về chính sách văn hóa của UNESCO
"chính sách văn hóa là một tổng thể các nguyên tắc hoạt động quyết định
các cách thực hành, các phương pháp quản lý hành chính và phương pháp ngân sách
của Nhà nước dùng làm cơ sở cho các hoạt động văn hóa".
Chúng ta
hiểu rằng: cấu trúc của chính sách văn hóa
không phải chỉ là một văn bản có tính chất chủ trương, đường lối (của
Đảng, Nhà nước), hay không phải chỉ là những biện pháp bất thành hệ thống mà
phải là một tổng thể bao gồm:
- Mục tiêu
(mục đích): thường được thể hiện ở chủ trương, đường lối hay những quyết nghị
tương tự ở cấp lãnh đạo Nhà nước cao nhất (ở văn hóa là Quốc hội, sau đó là
Chính phủ).
- Hệ
thống thể chế tương ứng (Các biện pháp tài chính cũng như pháp luật để hệ thống
thể chế trên có thể vận hành được).
- Các
cơ cấu và tổ chức xã hội tương ứng, trong đó con người buộc phải tuân thủ các
thể chế xã hội và thống nhất hành động để đạt được mục tiêu xã hội.
Tiếp đó,
cách nhìn xã hội học có thể đem lại một cách lý giải mới, nói cách khác chính
sách văn hóa có những phương diện xã hội học của nó. Nếu nhà nghiên cứu hay nhà
quản lý lưu ý đến những phương diện này, thì việc xây dựng chính sách cũng như
đưa chính sách ấy vào vận hành trong đời sống xã hội sẽ tránh được những trục
trặc căn bản. Sau đây, chúng tôi xin nêu một vài khía cạnh xã hội học quan
trọng của chính sách văn hóa:
2.
Những phương diện xã hội học của chính sách văn hóa.
2.1. Xã hội
nào cũng vậy, nó tồn tại và phát triển là do nhu cầu và sự thỏa mãn nhu cầu của
xã hội ấy. Sự khác nhau giữa các xã hội, theo quan niệm Mác xít chính là
phương thức thỏa mãn các nhu cầu xã hội căn bản.
Tuy nhiên,
việc thỏa mãn các nhu cầu xã hội theo quan niệm của xã hội học là thể hiện mối
quan hệ tương tác giữa giai cấp thống trị (giai cấp đại diện cho phương thức
sản xuất đang chiếm ưu thế) và giai cấp bị trị. Ở đây có mối quan hệ hai chiều
là:
- Giai cấp thống trị (đại
diện cho xã hội toàn bộ) phải nắm bắt nhu cầu xã hội và định hướng cũng như thoả
mãn các nhu cầu xã hội ấy phù hợp với mục tiêu xã hội, cũng tức là mục tiêu của
giai cấp thống trị.
- Giai cấp bị trị đòi hỏi
giai cấp thống trị phải thoả mãn nhu cầu
của mình nhưng điều đó không có nghĩa là sự đòi hỏi vô điều kiện. Nói cách
khác, những nhu cầu của họ phải được giới hạn trong khuôn khổ của một xã hội nhất
định (cụ thể hơn là trong khuôn khổ của một nền sản xuất nhất định).
Vì thế, không chỉ trong
lĩnh vực kinh tế mà trong tất cả các lĩnh vực khác, sự thống nhất giữa hai mặt
trên sẽ bảo đảm cho một xã hội vận hành một cách ổn định.
Ta có thể lấy một ví dụ
trong lĩnh vực văn hóa:
Trong rất nhiều năm,
chúng ta không có những chính sách văn hóa nhằm bảo tồn các giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc, do đó, ngày nay những tổn thất về các di sản văn hóa
dân tộc khá nặng nề. Phân tích hiện tượng này ta có thể thấy:
- Giai cấp thống trị (ở
ta là Đảng và Nhà nước) đã không căn cứ vào nhu cầu của nhân dân (nhu cầu hội
hè đình đám, nhu cầu về lễ tết,...), lại cho rằng những sinh hoạt văn hóa cổ
truyền trên mang màu sắc phong kiến, mê tín hủ tục, không phù hợp với mục tiêu
của xã hội xã hội chủ nghĩa,... Vì thế, có những chính sách mang tính cấm đoán
đối với các hoạt động văn hóa cổ truyền trên.
- Nhân dân có nhu cầu thực
hành văn hóa cổ truyền (lễ hội, thờ cúng, các phong tục khác) nhưng không dám bộc
lộ hoặc có khi bị những nhu cầu chính trị và kinh tế lấn át; mặt khác cũng có
những bộ phận lại có những thực hành văn hóa cổ truyền ở những phương diện mà
đang bị "cấm kỵ" trong xã hội (Ví dụ đồng cốt).
Như thế, giữa giai cấp
thống trị và nhân dân chưa có một sự thống nhất chung. Mối quan hệ ở đây thực
chất là mối quan hệ một chiều: từ trên xuống (điều này có thể phát huy tác dụng
trong những thời điểm lịch sử nhất định trong lĩnh vực kinh tế hay chính trị,
nhưng trong lĩnh vực văn hóa, lại là một điều tối kỵ).
2.2. Về mặt
phương pháp, xã hội học là khoa học thực nghiệm, nó xuất phát từ thực tiễn,
tổng hợp khái quát hóa từ thực tiễn, sau đó, được tiêu chuẩn hóa và thể chế
hóa bởi giai cấp thống trị. Phương pháp này của xã hội học giúp cho việc hoạch
định các chính sách xã hội tránh khỏi tình trạng duy ý chí, chủ quan.
Vấn đề này,
Marx nói rất hay rằng: cũng giống như nhà sinh vật học, phải căn cứ vào những
thực nghiệm để rút ra những kết luận khoa học, nhà làm luật phải căn cứ vào
thực tiễn của xã hội để định ra luật.
Trong lĩnh
vực văn hóa, chúng ta có thể lấy vấn đề lễ cưới để làm ví dụ:
Do những
biến thiên của lịch sử (chiến tranh, kinh tế thị trường, giao lưu quốc tế) mà
xã hội ta hiện nay tồn tại nhiều mô hình của lễ cưới. Vì sự thống nhất văn hóa,
chúng ta đã có những nghị định nhằm hướng dẫn nhân dân tổ chức lễ cưới theo một
vài kiểu nhất định. Tuy nhiên, các văn bản có tính chất pháp quy này không có
hiệu lực trong đời sống bởi chúng không dựa vào những kết quả nghiên cứu khoa
học: không có khái quát hóa từ thực tiễn, cũng không có việc tiêu chuẩn hóa các
khuôn mẫu lễ cưới. Giá như có một sự nghiên cứu xã hội học thực nghiệm về vấn
đề này, trong đó tổng kết được bao nhiêu % mong muốn tổ chức lễ cưới theo
mô hình A, bao nhiêu % mong muốn tổ chức lễ cưới theo mô hình B hoặc C
thì những người làm chính sách văn hóa chắc chắn sẽ đưa ra được một vài mô hình
vừa thỏa mãn được mong đợi của các tầng lớp nhân dân, vừa thỏa mãn được những
yêu cầu chính trị, kinh tế và xã hội của xã hội toàn bộ.
2.3. Cũng về
mặt phương pháp, xã hội học là khoa học nghiên cứu xã hội trong lòng nhóm,
nói cách khác, một trong những đặc trưng của các phân tích xã hội học là đặt
các hiện tượng xã hội vào phân tầng xã hội. Trong lĩnh vực văn hóa, đặc biệt là
trong các chính sách đối với người tiêu thụ văn hóa - nghệ thuật, quan điểm này
cần được vận dụng một cách khoa học: không nên lấy tiêu chí thưởng thức văn hóa
nghệ thuật của một giai cấp tầng lớp nào đó làm tiêu chuẩn cho những tầng
lớp và những nhóm xã hội khác. Vấn đề này có thể dẫn tư tưởng của B. Brech về
vấn đề thị hiếu nghệ thuật như sau: Ngay cả khi bạn nói đến những thú vui thấp
kém lẫn thú vui cao đẳng thì nghệ thuật đối với bạn vẫn lạnh tanh. Nghệ thuật
mong muốn vận động ở cả những vùng cao thượng lẫn những vùng thấp kém và nếu
như khi như thế nó có thể làm cho con người vui thú thì hãy để yên cho nó làm.
[dẫn theo 90, tr. 25]
Điều này
hoàn toàn đúng với thực tiễn văn hóa - nghệ thuật ở Việt Nam: Đã có một thời kỳ
chúng ta lấy những tiêu chuẩn chính trị làm tiêu chuẩn cho mọi thị hiếu văn hóa
nghệ thuật, lại có thời kỳ chúng ta lấy tiêu chuẩn của một tầng lớp cao
đẳng nào đó làm tiêu chuẩn cho thị hiếu lành mạnh Nói cách khác, những thị
hiếu khác với thị hiếu chính thống ấy đều bị coi là thấp kém, không lành
mạnh, thậm chí đồi trụy. Chính sự áp đặt về thị hiếu ấy không tạo nên được
một thị trường văn hóa - nghệ thuật, tức là việc thỏa mãn nhu cầu và thị hiếu
văn hóa không căn cứ vào quy luật cung cầu, như thế nó vừa kìm hãm nhu cầu đa
dạng vừa kìm hãm sức sáng tạo của cá thể.
Trong những
năm gần đây, sự mạch lạc trong kinh tế thị trường dường như đã có ảnh hưởng tốt
đến thái độ của các nhà quản lý văn hóa trong vấn đề đáp ứng nhu cầu và thị
hiếu văn hóa - nghệ thuật : Người ta không còn thắc mắc và chê bai những phim
hàng chợ, nhạc rẻ tiền, báo lá cải, sách chữ to nữa. Thực tiễn cũng đã
chứng minh được bên cạnh những thứ trước kia bị coi là thấp kém, những tác phẩm
có giá trị vẫn được sáng tạo và được tiếp nhận một cách trân trọng. Điều quan
trọng hơn là không những sự đa dạng về thị hiếu không làm rối loạn xã hội mà ngược
lại sự thỏa mãn ấy lại củng cố thêm cho những ổn định xã hội.
2.4. Xã hội
học và xã hội học văn hóa xem xét văn hóa không chỉ là sản phẩm của quá trình
sáng tạo của con người, mà luôn xem xét văn hóa với tư cách là một quá trình.
Những nhà xã hội học Mácxít đã mượn mô hình tái sản xuất mà Mác dùng trong lĩnh
vực kinh tế để diễn tả quá trình văn hóa ấy là sự thống nhất của các khâu :
sáng tạo - phân phối - tiêu dùng - tái sáng tạo những sản phẩm văn hóa.
Ý nghĩa
phương pháp luận của quan điểm này đối với việc hoạch định chính sách văn hóa
là ở chỗ: Để thúc đẩy sự phát triển văn hóa - nghệ thuật, người ta phải có
những chính sách, biện pháp đồng bộ chứ không phải là những biện pháp phiến
diện chú trọng vào một khâu nào đó của quá trình.
Chúng tôi
xin dẫn một ví dụ, trong chương trình tổng thể của quốc gia về văn hóa có một
chương trình nhánh là Chấn hưng điện ảnh Việt Nam. Mục đích của chương trình là:
Nhà nước cung cấp thêm vốn để thúc đẩy khâu sáng tạo điện ảnh - khâu mà Bộ Văn
hóa thông tin cho là then chốt nhất, nếu làm tốt khâu này (tức là nếu có nhiều
kịch bản điện ảnh hay, nhiều phương tiện kỹ thuật hiện đại) thì có thể có những
tác phẩm điện ảnh có tầm cỡ, và tình trạng bế tắc của điện ảnh Việt Nam có thể
được giải quyết. Đúng là, sản xuất là khâu có tính quyết định nhưng nếu chỉ chú
trọng vào đó mà không tính đến những mất cân đối, những thiếu hụt ở những khâu
khác thì - theo chúng tôi - sẽ không mang lại lợi ích gì. Rõ ràng là, không có
sản xuất thì không có tiêu thụ, nhưng không có tiêu thụ thì sản xuất cũng trở
thành không có mục đích. Các nhân tố trung gian cũng không kém phần quan trọng:
Có một nền điện ảnh hay không nếu không có công chúng hoặc không có những thiết
chế điện ảnh hiệu quả? [1]
Thực tiễn
phim ảnh ở Việt Nam trong
những năm vừa qua cũng đã chứng minh nguyên lý này: Khán giả Việt vẫn chưa trở
lại rạp mặc dù ở đó đã có chiếu những phim hay nhất của Hollywood
hoặc của Trung Quốc.
Ở Trung
Quốc, do nắm vững nguyên lý trên, các nhà quản lý xã hội đã có những chính sách
toàn diện lên các khâu trên nên không những khán giả Trung Quốc ngày nay đã đến
xem phim ở rạp mà các phim nội địa đã trở thành những hàng hóa cao cấp, có
thể xuất khẩu.
3.
Kết luận
Trên đây chỉ là những
phương diện xã hội học chính của chính sách văn hóa. Đi sâu vào việc nghiên cứu
chính sách văn hóa, xã hội học còn một loạt các vấn đề khác nữa (ví dụ: thiết
chế văn hóa, cơ cấu - tổ chức xã hội nhằm thực hiện những định chế về văn hóa,
cácvăn bản pháp qui, chế độ thưởng phạt,...) mà trong khuôn khổ của bài này
chúng tôi chưa thể trình bày hết.
Dù sao,
nhãn quan xã hội học chắc chắn sẽ giúp ích cho việc quản lý xã hội nói chung và
quản lý văn hóa nói riêng.
Bùi Quang Thắng-
Tạp chí văn hóa nghệ thuật
[1]. Đó chỉ là những biện
pháp bất thành hệ thống, lẽ ra phải là một tổng thể bao gồm:
- Mục tiêu (mục đích):
thường được thể hiện ở chủ trương, đường lối hay những quyết nghị tương tự ở cấp
lãnh đạo Nhà nước cao nhất (ở ta là Quốc hội, sau đó là Chính phủ).
- Hệ thống thể chế tương
ứng (Các biện pháp tài chính cũng như pháp luật để hệ thống thể chế trên có thể
vận hành được.)
- Các cơ cấu và tổ chức
xã hội tương ứng, trong đó con người buộc phải tuân thủ các thể chế xã hội và
thống nhất hành động để đạt được mục tiêu xã hội.
Qua một thời gian tập
trung vào việc xây dựng chính sách văn hóa ở Việt Nam, chúng ta nhận thấy rằng: thiết
lập một chính sách văn hóa quốc gia là một vấn đề cực kỳ khó khăn, phức tạp.
Khó khăn lớn nhất ở đây lại không phải là vấn đề chính trị hay tài chính mà: làm
thế nào để có một hệ thống thể chế tương ứng?