Chữa viêm gan b ở đâu tốt nhất

Viêm gan B là bệnh lý nguy hiểm. Nếu không được điều trị kịp thời, viêm gan B có thể dẫn tới xơ gan hoặc thậm chí là ung thư gan. Vậy viêm gan B có chữa khỏi được không?

Viêm gan B là bệnh gan nguy hiểm do siêu vi B (HBV) gây ra. Ước tính mỗi năm có khoảng 250.000 - 500.000 người trên thế giới tử vong vì căn bệnh này.

1.1 Đường lây truyền virus viêm gan B

Bệnh có tốc độ lây lan nhanh, thường qua 3 con đường:

  • Lây truyền từ mẹ sang con: Người mẹ bị nhiễm viêm gan B có thể truyền bệnh cho con;
  • Lây truyền qua quan hệ tình dục không an toàn: Nguy cơ cao bị lây nhiễm HBV khi quan hệ tình dục không an toàn với người nhiễm virus HBV;
  • Lây truyền qua đường máu: Virus HBV có thể lây truyền trong các trường hợp như tiêm, xăm mình, truyền máu, hiến máu,... sử dụng dụng cụ không được tiệt trùng tuyệt đối.

1.2 Phân loại viêm gan B

Viêm gan B được phân thành 2 loại: Viêm gan B cấp tínhviêm gan B mạn tính. Cụ thể là:

  • Viêm gan B cấp tính: Các triệu chứng của bệnh xảy ra từ 1 - 4 tháng sau khi nhiễm virus HBV và không kéo dài quá 6 tháng. Nhiều người không có bất kỳ triệu chứng nào, trong khi số khác có biểu hiện mệt mỏi, chán ăn, buồn nôn, vàng da, đau vùng bụng trên bên phải, đau khớp hoặc viêm khớp. Chỉ khoảng 0,1 - 0,5% bệnh nhân viêm gan B cấp tính phát triển bệnh nặng hơn thành suy gan. Hầu hết bệnh nhân viêm gan siêu vi B cấp tính đều phục hồi sức khỏe sau 6 tháng mà không gặp phải bất cứ vấn đề gì;

Chữa viêm gan b ở đâu tốt nhất

Xơ gan là hậu quả do viêm gan B mạn tính gây ra

  • Viêm gan B mạn tính: Tình trạng nhiễm virus HBV kéo dài trên 6 tháng được gọi là viêm gan mạn tính. Có khoảng 5% người trưởng thành mắc viêm gan B cấp tính tiến triển thành viêm gan B mạn tính. Khả năng tiến triển thành mạn tính phụ thuộc vào độ tuổi và tình trạng miễn dịch của bệnh nhân. Bệnh viêm gan B mạn tính thường không có triệu chứng hoặc chỉ có các triệu chứng không đặc hiệu như chán ăn, mệt mỏi, thỉnh thoảng có đợt tăng men gan. Trong trường hợp khi đã gây ra các tổn thương nặng nề cho gan, bệnh nhân sẽ có triệu chứng của xơ gan. Có khoảng 10 - 20% bệnh nhân viêm gan B mạn tính có biểu hiện ở các bộ phận ngoài gan, thường gặp là viêm mạch và viêm cầu thận. Hậu quả lớn nhất do viêm gan B mạn tính gây ra là xơ gan và ung thư biểu mô tế bào gan.

Cơ hội chữa khỏi viêm gan B phụ thuộc vào dạng cấp tính hoặc mạn tính. Cụ thể:

  • Viêm gan B cấp tính: Không cần điều trị cụ thể theo một phác đồ nào vì có tới 95% bệnh nhân hồi phục sau thời gian tự phát. Phần lớn người bệnh chỉ cần nghỉ ngơi hợp lý và thực hiện các biện pháp điều trị hỗ trợ theo lời khuyên của bác sĩ;
  • Viêm gan B mạn tính: Gồm nhóm bệnh nhân có virus viêm gan B không hoạt động và nhóm bệnh nhân có virus viêm gan B hoạt động. Người bệnh có virus ở dạng không hoạt động cần theo dõi định kỳ, chưa cần điều trị đặc trị. Với bệnh nhân có virus hoạt động, bác sĩ sẽ dựa vào tình trạng cụ thể để lựa chọn thuốc điều trị đặc trị theo dạng uống hoặc dạng tiêm cho phù hợp. Tuy nhiên, mục đích của việc điều trị chỉ là ngăn chặn virus HBV phát triển gây tổn thương gan, hình thành xơ gan và ung thư gan. Thời gian điều trị tùy thuộc vào từng bệnh nhân, có thể kéo dài từ một vài năm đến cả đời. Cơ hội chữa khỏi bệnh dứt điểm rất thấp.

Viêm gan B mạn tính có khả năng chữa khỏi rất thấp. Trong khi đó, virus HBV có khả năng lây lan rất nhanh nên việc phòng ngừa là vô cùng cần thiết. Các biện pháp phòng bệnh hiệu quả nhất gồm:

  • Tiêm vắc-xin ngừa viêm gan B;
  • Sinh hoạt tình dục chung thủy, an toàn;
  • Không dùng chung vật dụng cá nhân như dao cạo râu, bơm kim tiêm, kìm cắt móng, kéo cắt tóc,...

Chữa viêm gan b ở đâu tốt nhất

Tiêm vắc-xin là biện pháp phòng ngừa bệnh viêm gan B tốt nhất hiện nay

Hiện nay, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec đang cung cấp dịch vụ tiêm phòng vắc-xin viêm gan B. Bên cạnh việc cung cấp dịch vụ tiêm vắc-xin lẻ, Vinmec triển khai thêm chương trình tiêm chủng trọn gói. Khi lựa chọn chương trình chủng trọn gói, khách hàng sẽ nhận được những lợi ích như:

  • Không lo hết/thiếu vắc xin;
  • Khách hàng được tư vấn và cung cấp đầy đủ thông tin về phác đồ tiêm chủng toàn diện cho trẻ;
  • Không phải chịu ảnh hưởng của việc thay đổi giá các loại vắc-xin có trong phác đồ tiêm chủng.

Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số 1900 232 389 (phím 0 để gọi Vinmec) hoặc đăng ký lịch khám tại viện TẠI ĐÂY. Nếu có nhu cầu tư vấn sức khỏe từ xa cùng bác sĩ Vinmec, quý khách đặt lịch tư vấn TẠI ĐÂY. Tải ứng dụng độc quyền MyVinmec để đặt lịch nhanh hơn, theo dõi lịch tiện lợi hơn

Sự khác nhau giữa viêm gan A và viêm gan B

XEM THÊM:

Trong khoảng 5 năm trở lại đây, chúng ta có thêm nhiều thuốc chữa viêm gan siêu vi B mạn. Bên cạnh đó cũng xuất hiện sự kháng thuốc, xuất hiện nhiều chủng kháng thuốc đột biến gen... nên phương pháp điều trị, dùng thuốc, chăm sóc có một số thay đổi...

Thực tế, người bị nhiễm virut viêm gan B (HBV) thường lo lắng về tình trạng bệnh và băn khoăn không biết nên dùng thuốc hay không. Nếu dùng thì dùng như thế nào?

Có phải cứ nhiễm HBV là dùng thuốc?

HBV phân làm 4 trường hợp:

- Trường hợp 1: Có kháng nguyên bề mặt HBsAg (+) chứng tỏ có virut;  có kháng nguyên nội sinh HBeAg (+) chứng tỏ virut đang sinh sôi, có dấu hiệu lâm sàng viêm gan B rõ (vàng mắt, vàng da, mệt mỏi chán ăn; enzym gan  ALT-alanin aminotranferase tăng. Bình thường ALT= 40U/L, khi bị bệnh ALT tăng gấp 2 lần trở lên). Đây là trường hợp  cần phải  dùng thuốc.

- Trường hợp 2: HBsAg (+) chứng tỏ có virut; HBeAg(-) chứng tỏ không có dấu hiệu virut sinh sôi; không có dấu hiệu lâm sàng rõ. Đây là trường hợp người lành mang mầm bệnh, không dùng thuốc.

- Trường hợp 3: HBsAg (+) chứng tỏ có virut; HBeAg(+) chứng tỏ virut đang sinh sôi, nhưng không có dấu hiệu lâm sàng. Đây là trường hợp người "dung nạp được miễn dịch" cũng chưa cần dùng thuốc. Nhưng trường hợp này có nguy cơ cao, virut có thể tái kích hoạt gây bệnh nên cần theo dõi, nếu thấy xuất hiện các biểu hiện lâm sàng thì khám ngay để kịp thời dùng thuốc.

- Trường hợp 4: HBsAg (+) chứng tỏ có virut; HBeAg (-) chứng tỏ không có dấu hiệu virut sinh sôi nhưng lại có dấu hiệu lâm sàng. Đây là trường hợp người bệnh đã từng bị viêm gan B mạn, virut từng kích hoạt âm thầm, sau đó ngừng kích hoạt gọi là người viêm gan B không hoạt tính; chưa cần dùng thuốc (vì virut chưa tái sinh sôi, chưa thực sự tái kích hoạt, dùng sẽ không có lợi). Tuy nhiên phải theo dõi chặt chẽ: khám lâm sàng, xét nghiệm định kỳ, khi cần thiết phải can thiệp ngay.

Chữa viêm gan b ở đâu tốt nhất

Thuốc điều trị viêm gan B mạn

+ Interferon: Có hiệu năng tăng cường khả năng miễn dịch, ngoài ra còn kháng virut. Thuốc bị thủy phân ở đường tiêu hóa nên chỉ dùng đường tiêm.  Khi dùng, một số người bệnh có thể gặp các triệu chứng như sốt, rụng tóc, mệt... Tuy nhiên, giá thành của thuốc còn cao, lại phải dùng lâu dài nên nhiều trường hợp không có điều kiện. Vì thế, thuốc tuy rất tốt nhưng ít người bệnh lựa chọn.

+ Lamivudin: Có hiệu năng kháng virut. Khi dùng đủ liệu trình thì dấu hiệu lâm sàng mất đi, ALT trở về bình thường, lượng virut (HBVDNA) giảm, hình ảnh mô học gan cải thiện. Thời gian đạt được mục tiêu này lệ thuộc vào từng người, ít nhất là 1 năm, trung bình 2 năm, có khi kéo dài tới 3 năm, nếu tái phát còn có thể dùng lại. Trước năm 2000, lamivudin được xem là thuốc đầu tay (rẻ tiền, dùng đường uống, tiện lợi). Nhưng hiện nay tỷ lệ kháng lamivudin lên  tới 70% (lamivudin bị kháng thuốc theo kiểu gen) nên hiện không được ưa dùng nhiều. Tuy nhiên, cũng có khoảng 20% người bệnh hầu như không bị kháng thuốc. Cần lưu ý điều này để có thể dùng lamivudin cho người có khả năng đáp ứng, nhất là với người kinh tế khó khăn (lamivudin vẫn là thuốc có giá rẻ).

+ Adefovir, entecavi, telbivudin:  Thời gian đạt được mục tiêu điều trị ngắn hơn lamivudin. Tỷ lệ kháng thuốc thấp hơn lamivudin và có hiệu quả với những người bệnh đã kháng với lamivudin.

+ Tenofovir: Là thuốc mới nhất được EU (Mỹ) mới cho dùng năm 2008. Qua các nghiên cứu cho thấy tenofovir tốt hơn các thuốc trước đó cả về mức đạt được hiệu quả và  chưa bị kháng thuốc.

+ Dùng phối hợp thuốc: Mấy năm gần đây, có một số nghiên cứu phối hợp thuốc trong điều trị viêm gan siêu vi B. Phối hợp chất tăng cường miễn dịch (interferon- pegylat) với chất kháng virut (lamivudin) cho kết quả tốt hơn dùng mỗi thứ riêng lẻ, nhưng phối hợp hai chất kháng virut thì cho kết quả không đều. Chẳng hạn dùng lamivudin+ adefovir với người đã bị kháng lamivudin thì tính trên người dùng có 80% có đáp ứng, 80% giảm HBVDNA đến mức không phát hiện được, 84% ALT trở lại bình thường. Sau khi ngừng dùng 3 năm không nhận thấy có sự bùng nổ đảo ngược về virut hay lâm sàng  học, không hình thành sự đề kháng kiểu gen, không mất bù trừ ở người xơ gan. Nhưng có trường hợp không cho kết quả tốt hơn. Chẳng hạn: dùng lamivudin+ telbivudin thì tốt hơn dùng riêng lamivudin nhưng lại không tốt hơn dùng riêng telbivudin. Vì sự phối hợp chưa ổn định, hơn nữa làm tăng chi phí điều trị nên các nghiên cứu này chưa áp dụng lâm sàng.

Khi nào ngừng dùng thuốc?

Tải lượng HBV càng cao (số lượng bản sao HBVDNA/1ml máu lớn) thì nguy cơ xơ gan, ung thư gan càng lớn. Tải lượng HBV là yếu tố tiên đoán độc lập cho sự phát triển xơ gan, ung thư gan. Nồng độ ALT càng cao thì nguy cơ xơ gan, ung thư gan cũng càng lớn. Vì thế, khi điều trị viêm gan siêu vi B mạn, cần đưa HVNDNA về dưới ngưỡng và đưa ALT về mức bình thường mới ngừng thuốc. Sau khi ngưng thuốc, cần theo dõi định kỳ, kể cả người bệnh mà khi ngừng điều trị HBVDNA ở ngưỡng thấp.

Chỉ dùng thuốc khi hội đủ các tiêu chí (trường hợp 1) và ngừng điều trị  khi đạt mục đích điều trị. Ở các bệnh viện tuyến trên, thường xét nghiệm HBVDNA. Đây là chỉ số cho biết tình trạng sinh sản (nhân đôi tế bào) của virut. HBVDNA (+) chứng tỏ virut đang sinh sôi (khi điều trị HBVDNA thường giảm, lý tưởng là đạt đến mức không còn HBVDNA, nhưng trong thực tế chỉ có thể đạt được mức tối đa, tức là vẫn có thể còn HBVDNA nhưng không còn phát hiện được bằng các phương pháp thông thường). Có lúc HBVDNA chỉ giảm đến một mức nhất định. Ví dụ lúc đầu, HBVDNA = 200.000 bản sao/1ml máu, sau điều trị chỉ còn 300 bản sao/1ml máu thì coi như bệnh đã ổn định, có thể ngừng thuốc.

Hiện có xuất hiện sự kháng thuốc, đặc biệt xuất hiện các chủng kháng thuốc đột biến gen.  Khi đã  điều trị đủ liệu trình, đạt kết quả, cho ngừng thuốc thì vẫn theo dõi định kỳ để xử lý việc bùng phát virut. Khi bị kháng thuốc, cần chấp nhận một liệu trình khác, không bi quan bỏ mặc vì có thể bột phát nguy hiểm. Không tự ý dùng thuốc cũng như tự ý bỏ dở điều trị, tự ý kéo dài thời gian điều trị. Trong quá trình điều trị, cần khám và xét nghiệm định kỳ. Trong trường hợp  không hoặc chưa dùng thuốc (trường hợp 2- 3- 4) thì cần hiểu rõ lời dặn thầy thuốc, tự theo dõi chặt chẽ, khi cần phải khám, xét nghiệm ngay (trường hợp 3- 4).

Hiện có nhiều loại thuốc được đánh giá là có hiệu năng, nhưng khác nhau về mức đạt được hiệu quả, sự kháng thuốc, thời gian điều trị, giá cả. Khi thảo luận, người bệnh cần  nghe đủ các thông tin, trình bày nguyện vọng để thầy thuốc căn cứ vào đó và tình trạng bệnh mà chọn liệu trình thích hợp.

(Theo DS. Hà Thủy Phước - www.suckhoedoisong.vn)