Cùng tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận mỗi nhà thơ lại có cách khám phá và thể hiện riêng

Cùng tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận, mỗi nhà thơ lại có cách khám phá và thể hiện riêng. Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ trong bài "Tây Tiền" và "Việt Bắc.

Đề bài

Show

Cùng tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận, mỗi nhà thơ lại có cách khám phá và thể hiện riêng.

Trong bài “Tây Tiến”, Quang Dũng viết:

“Tây tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Trong thi phẩm “Việt Bắc”, Tố Hữu viết:

“Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan”

Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ trên.

Lời giải chi tiết

1. GIỚI THIỆU CHUNG

- Quang Dũng là gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca trong kháng chiến chống Pháp với hồn thơ đầy cảm hứng lãng mạn, hào hoa, thanh lịch, giàu chất mộng mơ. Trong suốt cuộc đời người nghệ sĩ tài hoa ấy, có lẽ khoảng thời gian đáng nhớ nhất là những năm tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến. Biết bao kỉ niệm sâu sắc, bao vẻ đẹp bi tráng và hào hùng của một quãng đời không thể quên nơi miền Tây tổ quốc được Quang Dũng tái hiện trong bài thơ “Tây Tiến”.

- Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Đường cách mạng, đường thơ của Tố Hữu gắn liền với các chặng đường của cách mạng Việt Nam. “Việt Bắc” là một trong những đỉnh cao của thơ Tố Hữu. Bài thơ như một khúc hát tâm tình, gợi lại những kỉ niệm gắn bó thủy chung giữa Việt Bắc và Cách mạng.

- Cùng viết về vẻ đẹp hào hùng của hình ảnh đoàn quân ra trận trong kháng chiến chống Pháp những trong hai bài thơ “Tây Tiến” và “Việt Bắc”, mỗi nhà thơ lại có cách khám phá riêng và thể hiện riêng.

2. PHÂN TÍCH

I. Cảm nhận về đoạn trích trong bài thơ “Tây Tiến”

* Vẻ đẹp bi thương và hào hùng của đoàn quân Tây Tiến trên đường hành quân:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

- Sự bi thương:hiện lên qua ngoại hình ốm yếu, tiều tụy của người lính: đầu trọc, nước da xanh xao như màu lá do sốt rét, thiếu thốn, gian khổ.

+ Hình ảnh đáng thương, tiều tụy của những người lính Tây Tiến là kết quả của những trận sốt sét trong những chuỗi ngày hành quân vất vả, luôn trong tình trạng đói, khát và thiếu thốn.

+ Sự bi thương của đoàn quân Tây Tiến, những cơn sốt rét rừng trong thơ Quang Dũng cũng tiêu biểu cho hình ảnh đau thương về những đoàn quân của ta trong kháng chiến chống Pháp nói chung.

+Liên hệ: Thơ ca thời kỳ kháng chiến khi viết về người lính thường nói về căn bệnh sốt rét hiểm nghèo.

Trong kháng chiến chống Pháp:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

(Đồng chí – Chính Hữu)

Giọt giọt mồ hôi rơi

Trên má anh vàng nghệ

Anh vệ quốc quân ơi

Sao mà yêu anh thế

(Cá nước – Tố Hữu).

Và cả trong kháng chiến chống Mĩ sau này:

Nơi thuốc súng trộn vào áo trận

Cơn sốt rừng đi dọc tuổi thanh xuân

- Cái hào hùng:

+ Người lính Tây Tiến không chỉ hiện lên với vẻ bi thương mà từ trong bi thương còn hiện lên cái hào hùng, khí phách. Bằng thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa ngoại hình ốm yếu bên ngoài và tâm hồn đầy khí phách bên trong đã làm nổi bật khí chất mạnh mẽ của người lính.

+ “Không mọc tóc”: là cách nói ngang tàng, độc đáo, như là người lính không cần, không thèm mọc tóc. Cách nói rất lính, thể hiện sự hóm hỉnh vui đùa của người lính với khó khăn gian khổ trong kháng chiến.

+ Thể hiện qua cách dùng từ Hán Việt “đoàn binh”. Chữ “đoàn binh” có âm vang mạnh mẽ hơn chữ“đoàn quân” đã gợi lên được sự mạnh mẽ lạ thường, đầy hùng dũng, phi thường của người lính.

+ Ba từ “dữ oai hùm” gợi lên dáng vẻ oai phong lẫm liệt như vị thế oai phong của chúa sơn lâm. Dường như, ở miền đất hoang sơ, bí ẩn đầy đe dọa với “cọp trêu người” thì người lính Tây Tiến cũng mang trong mình cái “oai hùm” dữ dội, uy nghi để chế ngự và chiến thắng mọi khó khăn.

⟹Bằng cảm hứng anh hùng, đoàn quân Tây Tiến hiện lên với vẻ dữ dội của núi rừng chứ không hề gợi vẻ tiểu tụy, ốm yếu dù cuộc sống của người linh trải qua muôn vàn khó khăn, gian khổ. Người lính Tây Tiến vẫn mạnh mẽ, hiên ngang làm chủ núi rừng, chế ngự mọi khắc nghiệt xung quanh, đạp bằng mọi gian khổ trong chiến đấu. Họ hiện lên với vẻ đẹp kiêu hùng, xem thường mọi khổ ải, thiếu thốn.

* Hình ảnh những chàng trai Hà Nội lãng mạn, hào hoa:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

- “Mắt trừng” là đôi mắt dữ tợn, căm thù, mạnh mẽ, nung nấu quyết đoán làm kẻ thù khiếp sợ. Sự căm thù mạnh mẽ đối với kẻ thù càng làm tăng thêm quyết tâm chiến đấu của những người lính Tây Tiền.

- Đôi mắt ấy cũng là đôi mắt thao thức của những chàng trai Hà Nội nhớ về quê hương, về giấc mộng có bóng hình một “dáng kiều thơm”.

- Mộng và mơ gửi về hai phía của chân trời: biên giới và Hà Nội.

- Liên hệ: Thơ ca kháng chiến chống Pháp cũng có nhiều nhà thơ nói về người lính với nỗi nhớ:

+ Nguyễn Đình Thi rạo rực với nhịp đập con tim:

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu

+ Chính Hữu: “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

+ Hồng Nguyên thì cồn cào, da diết trong tim:

Ba năm rồi gửi lại mái lều tranh

Luống cày đất đỏ

Tiếng mõ đêm trường

Ít nhiều người vợ trẻ

Mòn chân bên cối gạo canh khuya

⟹Những chàng trai của mảnh đất kinh kỳ đầy mộng mơ, họ lên đường ra trận “Tổ quốc gọi chúng tôi sẽ ra đi”, nhưng họ không chỉ biết cầm súng, cầm gươm mà những tâm hồn giàu mơ mộng giữa bao nhiêu gian lao, khắc nghiệt, trái tim họ vẫn rung động, nhớ nhung về vẻ đẹp của Hà Nội: đó có thể là phố cũ, trường xưa, về bóng hình của những dáng yêu kiều, diễm lệ hiện về trong nỗi nhớ da diết. Mảnh đất Hà thành với những “dáng kiều thơm” là cõi đi về trong mơ của những người thanh niên Hà Nội. Đó chính là động lực tiếp thêm sức mạnh để họ vững vàng tay súng, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ Tổ quốc.

II. Cảm nhận về đoạn trích trong bài thơ “Việt Bắc”

*Vẻ đẹp hào hùng:

Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

- Đại từ sở hữu “của ta” được vang lên một cách dõng dạc khẳng định niềm tự hào của những con người ở vị thế làm chủ đất nước. Đồng thời, đại từ sở hữu “của ta” cũng khẳng định sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, khẳng định chiến khu Việt Bắc là chiến khu tự do.

-Hai chữ “rầm rập” vừa gợi âm thanh, vừa tạo hình ảnh. Các từ láy “rầm rập”, “điệp điệp" và “trùng trùng" và hình ảnh so sánh “như là đất rung”: vừa tái hiện không khí sôi nổi trong những ngày chiến dịch của cuộc kháng chiến, vừa gợi lên sự đông đảo, vừa gợi lên sức mạnh, khí thế hào hùng của đoàn quân ra trận, giúp ta cảm nhận hình ảnh những đoàn quân đầy khí thế đang ngày đêm tiến về mặt trận.

⟹Mỗi bước đi của đoàn quân ra trận mang theo sức mạnh của lòng yêu nước, của lí tưởng cách mạng, khát khao chiến đấu và quyết tâm chiến thắng quân thù.

*Vẻ đẹp lãng mạn:

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

- Hình ảnh “ánh sao đầu súng” có thể là hình ảnh thực của ánh sao trên bầu trời đêm Việt Bắc, đồng thời cũng là hình ảnh mang tính biểu tượng: ánh sáng của ngôi sao gắn trên chiếc mũ nan của người lính, ánh sáng của lí tưởng cách mạng đang soi đường chỉ lối, dẫn bước người lính tiến lên.

- Hình ảnh “bạn cùng mũ nan”: những người lính trong kháng chiến, giản dị, đơn sơ, mộc mạc nhưng chứa đựng một sức mạnh phi thương, mang trong mình một lí tưởng cao cả, đẹp đẽ, sẵn sàng cống hiến vì sự nghiệp chung.

⟹Câu thơ thể hiện niềm tin, sự lạc quan, tin tưởng, niềm vui hân hoan khi hướng về “chiến thắng trăm miền”.

III. So sánh hai đoạn thơ

- Giống nhau: Hai đoạn thơ đều khắc họa người lính với vẻ đẹp vừa hào hùng, vừa lãng mạn.

- Khác nhau:

+ Đoạn thơ trong bài thơ “Tây Tiến”:được viết trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, thời kì đầu kháng chiến còn gian khổ, Quang Dũng đã tái hiện vẻ đẹp hào hùng của người lính phảng phất sự bi thương của hiện thực chiến tranh.

+ Đoạn thơ trong bài thơ “Việt Bắc”:sau chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, đất nước hân hoan niềm vui chiến thắng, Tố Hữu ca ngợi vẻ đẹp lãng mạn cách mạng của người lính được gắn liền với hiện thực.

⟹Cả hai tác giả là những người trực tiếp sống trong cuộc kháng chiến gian khổ, có trải nghiệm từ thực tế chiến đấu nên sáng tác đậm chất hiện thực. Bên cạnh nét chung, mỗi nhà thơ lại có một cách cảm nhận cho riêng mình. Từ một chàng trai Hà thành rất hào hoa, mơ mộng nên thơ Quang Dũng mang đậm chất lãng mạn rất riêng của người Hà Nội; còn ở Tố Hữu – đỉnh cao của thơ trữ tình chính trị, nhà thơ của lí tưởng cộng sản nênsáng tác của ông luôn có cái nhìn đầy hiện thực, lạc quan, tin tưởng vào cách mạng.

3. ĐÁNH GIÁ CHUNG

- Hai đoạn thơ vừa có điểm tương đồng (cùng thể hiện hình ảnh đoàn quân trong kháng chiến chống Pháp), vừa có nét riêng biệt (Phong cách nghệ thuật của mỗi nhà thơ, thời điểm sáng tác…). Tất cả góp phần thể hiện tài năng và phong cách riêng của mỗi nhà thơ.

- Khẳng định vị trí của hai tác giả trong nền thơ ca cách mạng nói riêng cũng như trong nền văn học Việt Nam và trong lòng độc giả nói chung.

Loigiaihay.com

  • Cùng tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận mỗi nhà thơ lại có cách khám phá và thể hiện riêng

    Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn trích trong bài thơ Việt Bắc và Tây Tiến

    Kết hợp kiến thức và kĩ năng làm nghị luận văn học để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ ràng; văn viết có cảm xúc; diễn đạt trôi chảy, bảo đảm tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.

  • Cùng tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận mỗi nhà thơ lại có cách khám phá và thể hiện riêng

    Cho hai đoạn thơ trong bài thơ Việt Bắc, đoạn 1 thường được coi là bức tranh tứ bình của bài thơ Việt Bắc, còn đoạn 2 là bức tranh Việt Bắc ra trận. Hãy phân tích và so sánh vẻ đẹp của hai bức tranh ấy.

    Bức tranh tứ bình khắc họa vẻ đẹp trong hòa bình, chủ yếu khắc họa bằng bút pháp lãng mạn. Bức tranh Việt Bắc ra trận là vẻ đẹp trong thời chiến, khắc họa bằng khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.

  • Cùng tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận mỗi nhà thơ lại có cách khám phá và thể hiện riêng

    Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp riêng của hai đoạn thơ trong Tây Tiến (Quang Dũng) và Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm)

    Hai đoạn thơ cùng ngợi ca tinh thần yêu nước của những người đã ngã xuống trong công cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước. Họ hi sinh một cách tự nguyện, thanh thản, nhẹ nhàng mà thầm lặng.

  • Cùng tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận mỗi nhà thơ lại có cách khám phá và thể hiện riêng

    Cảm nhận về hai đoạn văn trong tác phẩm Người lái đò Sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông?

    Hiểu đề, biết cách làm bài văn nghị luận văn học. Biết phân tích dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề. Bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ. Hành văn trôi chảy. Văn viết có cảm xúc. Không mắc các lỗi diễn đạt, dùng từ, ngữ pháp, chính tả.

  • Cùng tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận mỗi nhà thơ lại có cách khám phá và thể hiện riêng

    Phân tích nhân vật bà cụ Tứ (Vợ nhặt – Kim Lân) và nhân vật người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu) để thấy được tình mẫu tử là cội nguồn tạo nên sức sống mãnh liệt trong tâm hồn của hai người mẹ này.

    Khẳng định tài năng của Kim Lân và Nguyễn Minh Châu trong việc miêu tả hai nhân vật bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài.

  • Cùng tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận mỗi nhà thơ lại có cách khám phá và thể hiện riêng

    Soạn bài Vợ nhặt - Ngắn gọn nhất

    Soạn Văn lớp 12 ngắn gọn nhất tập 2 bài Vợ nhặt - Kim Lân. Câu 1: Dựa vào mạch truyện có thể chia tác phẩm thành 4 đoạn:

  • Cùng tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận mỗi nhà thơ lại có cách khám phá và thể hiện riêng

    Soạn bài Vợ chồng A Phủ - Ngắn gọn nhất

    Soạn Văn lớp 12 ngắn gọn nhất tập 2 bài Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài. Câu 1: - Mị là một cô gái trẻ đẹp, giàu tình yêu, khát vọng sống, là biểu tượng đẹp của người phụ nữ miền núi Tây Bắc:

  • Cùng tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận mỗi nhà thơ lại có cách khám phá và thể hiện riêng

    Soạn bài Rừng xà nu - Ngắn gọn nhất

    Soạn Văn lớp 12 ngắn gọn nhất tập 2 bài Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành. Câu 1: a. Ý nghĩa nhan đề Rừng xà nu :

  • Cùng tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận mỗi nhà thơ lại có cách khám phá và thể hiện riêng

    Soạn bài Chiếc thuyền ngoài xa - Ngắn gọn nhất

    Soạn Văn lớp 12 ngắn gọn nhất tập 2 bài Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu. Câu 1: Phát hiện thứ nhất của nghệ sĩ nhiếp ảnh đầy thơ mộng.

Bài mẫu số 1: Cùng tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận mỗi nhà thơ lại có cách khám phá thể hiện riêng. Cảm nhận về đoạn thơ trong bài Tây Tiến và Việt Bắc

1. KHÁI QUÁT CHUNG:

- Giới thiệu Quang Dũng, Tố Hữu và hai tác phẩm:
+ Quang Dũng là gương mặt tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chống Pháp với hồn thơ hào hoa, lãng mạn thấm đượm tình đồng bào đồng chí. "Tây Tiến" là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian.
+ Tố Hữu là nhà thơ lớn của dân tộc, thơ ông theo sát những chặng đường của cách mạng Việt Nam. Bài thơ "Việt Bắc" là một thành công đặc biệt trong đời thơ Tố Hữu. Tác phẩm vừa là bản tình ca về tình cảm cách mạng - giữa đoàn cán bộ miền xuôi với nhân dân Việt Bắc, vừa là bản hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ mà vẻ vang của dân tộc.
- Hai đoạn thơ được trích từ hai bài thơ đều tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận song mỗi nhà thơ lại có cách khám phá, thể hiện riêng.

2. TRÌNH BÀY CẢM NHẬN:

a. ĐOẠN THƠ TRONG BÀI THƠ "TÂY TIẾN"

* Vẻ đẹp vừa bi thương vừa hào hùng của đoàn quân Tây Tiến trên đường hành quân:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm

- Cái bi thương của người lính được gợi lên từ ngoại hình ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc, da dẻ xanh như màu lá.
+ Sở dĩ người lính Tây Tiến đầu trọc da xanh là do hậu quả của những tháng ngày hành quân vất vả vì đói và khát, là dấu ấn của những trận sốt rét ác tính.
+ Những cơn sốt rét rừng ấy không chỉ có trong thơ Quang Dũng mà còn để lại dấu ấn đau thương trong thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung.
- Cái hào hùng:
+ Thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa ngoại hình ốm yếu và tâm hồn bên trong đã làm nên khí chất mạnh mẽ của người lính. "Không mọc tóc" là cách nói ngang tàng rất lính, hóm hỉnh vui đùa với khó khăn gian khổ của mình.
+ Thể hiện qua cách dùng từ Hán Việt "đoàn binh" . Chữ "đoàn binh" chứ không phải là đoàn quân đã gợi lên được sự mạnh mẽ lạ thường của sự hùng dũng, Ba từ "dữ oai hùm" gợi lên dáng vẻ oai phong lẫm liệt, oai của chúa sơn lâm. Qua đó ta thấy người lính Tây Tiến vẫn mạnh mẽ làm chủ tình hình, làm chủ núi rừng, chế ngự mọi khắc nghiệt xung quanh, đạp bằng mọi gian khổ. "Mắt trừng" là đôi mắt dữ tợn, căm thù, mạnh mẽ, nung nấu quyết đoán làm kẻ thù khiếp sợ.

*Họ cũng là những chàng trai Hà Nội lãng mạn, hào hoa:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

- " Mắt trừng gửi mộng qua biên giới" là đôi mắt thao thức nhớ về quê hương Hà Nội, về một dáng kiều thơm trong mộng.

Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động, nhớ nhung về vẻ đẹp của Hà Nội: đó có thể là phố cũ, trường xưa,... hay chính xác hơn là nhớ về bóng dáng của những người bạn gái Hà Nội yêu kiều, diễm lệ. Đó chính là động lực tiếp thêm sức mạnh để họ vững vàng tay súng, sẵn sàng cống hiến, hi sinh để bảo vệ Tổ quốc.

Cùng tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận mỗi nhà thơ lại có cách khám phá và thể hiện riêng

Vẻ đẹp của đoàn quân ra trận trong bải thơ Tây Tiến và Việt Bắc

b. ĐOẠN THƠ TRONG BÀI THƠ "VIỆT BẮC"

*Vẻ đẹp hào hùng của đoàn quân:

"Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng

- Các từ láy "rầm rập", "điệp điệp" và "trùng trùng" và hình ảnh so sánh "... như là đất rung" vừa gợi lên sự đông đảo, vừa gợi lên sức mạnh, khí thế hào hùng của đoàn quân ra trận. Mỗi bước đi của đoàn quân ấy mang cả sức mạnh của lòng yêu nước, của lí tưởng cách mạng, khát khao chiến đấu và chiến thắng quân thù.

*Vẻ đẹp lãng mạn:

"Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan"

Đây có thể là hình ảnh ánh sao trời treo trên đầu súng của những người lính trong mỗi đêm hành quân, cũng có thể là ánh sáng của ngôi sao gắn trên chiếc mũ nan của người lính, ánh sáng của lí tưởng cách mạng soi cho người lính bước đi. Họ là những con người có lí tưởng cao cả, đẹp đẽ, sẵn sàng cống hiến vì sự nhiệp chung. Ý thơ khiến người đọc liên tưởng tới hình ảnh "Đầu súng trăng treo" trong thơ Chính Hữu.

c. SO SÁNH HAI ĐOẠN THƠ:

- Giống nhau: Đều khắc họa người lính với vẻ đẹp vừa hào hùng, vừa lãng mạn, bay bổng.

- Khác nhau:
+ Trong đoạn thơ thuộc bài thơ "Tây Tiến", vẻ đẹp hào hùng của người lính phảng phất sự bi thương.
+ Trong đoạn thơ thuộc bài thơ "Việt Bắc", vẻ đẹp lãng mạn của người lính còn được Tố Hữu gắn liền với hiện thực.
- Cả hai tác giả đều có trải nghiệm từ thực tế chiến đấu nên thơ đậm chất hiện thực. Bên cạnh đó, Quang Dũng là một chàng trai Hà thành rất hào hoa nên thơ ông có cái lãng mạn rất riêng; còn ở Tố Hữu, thơ ông là thơ trữ tình chính trị, luôn có cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào cách mạng.

3. ĐÁNH GIÁ CHUNG:

- Hai đoạn thơ bên cạnh những điểm tương đồng còn có những nét riêng độc đáo, thể hiện tài năng của hai nhà thơ.

Khẳng định vị trí của hai tác giả trong nền văn học cũng như trong lòng độc giả.

Như vậy chúng tôi đã gợi ý cho các em cách làm bàiCùng tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận mỗi nhà thơ lại có cách khám phá thể hiện riêng. Cảm nhận về đoạn thơ trong bài Tây Tiến và Việt Bắc. Để chuẩn bị tốt cho các bài học, bài kiểm tra trên lớp, các em có thể thamkhảophần Cảm nhận về khổ 10 trong bài Việt Bắc và cùng với phần Cảm nhận 10 câu đầu bài thơ Việt Bắc để có thể hiểu rõ hơn về nội dung này.

Vẻ đẹp của đoàn quân ra trận trong hai bài thơ Tây Tiến và Việt Bắc hay nhất

Trang trước Trang sau

Đề bài: Cùng tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận, mỗi nhà thơ lại có cách khám phá và thể hiện riêng:

Trong bài “tây Tiến”, Quang Dũng viết:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

(Tây Tiến – Quang Dũng)

Trong thi phẩm “Việt Bắc”, Tố Hữu viết:

“Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”

(Việt Bắc – Tố Hữu)

Cảm nhận của anh, chị về hai đoạn thơ trên.

Quảng cáo

Đề tài người lính luôn mang lại cảm hứng và tạo nên những đứa con tinh thần xuất sắc của các nhà thơ nổi tiếng trong đó có Quang Dũng và Tố Hữu.Với hồn thơ phóng khoáng, lãng mạn và hào hoa, Quang Dũng đã ghi dấu ấn trong lòng người đọc với nhiều tác phẩm tiêu biểu. Và với tác phẩm Tây Tiến (được in trong tập Mây đầu ô) Quang Dũng thực sự đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc về hình ảnh người lính Tây Tiến trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Chỉ với bốn câu thơ sau đây trong bài thơ Tây Tiến nhưng Quang Dũng đã khắc họa thành công hình ảnh người lĩnh Tây Tiến trên đường hành quân ra trận :

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Cùng chung đề tài như thế, Tố Hữu –nhà thơ lí tưởng cộng sản và là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam cũng để lại những tập thơ mang dấu ấn riêng như : Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng,... Với bài thơ Việt Bắc, Tố Hữu đã khẳng định được vị trí của mình trong nền thơ ca nước nhà khi tái hiện một cách hoàn hảo hình ảnh người lính. Đặc biệt trong bốn câu thơ sau đây Tố Hữu đã khiến cho người đọc không thể quên được hình ảnh đoàn quân :

“Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”

Cả hai đoạn thơ trên của hai tác giả đều phác hoạ lại hình ảnh của đoàn quân khi ra trận nhưng mỗi nhà thơ lại có một cách cảm nhận và chính điều đó đã làm nên nét riêng biệt không thể nhầm lẫn giữa hai hồn thơ đầy tài năng Quang Dũng và Tố Hữu.

Tây Tiến là một đơn vị bộ đội thành lập 1947. Sau một khoảng thời gian đoàn quân hoạt động ở Lào, đoàn quân Tây Tiến trở về Hoà Bình, thành lập trung đoàn 52. Quang Dũng là đại đội trưởng ở đó đến cuối năm 1948 thì ông chuyển sang đơn vị khác. Khi đó nhà thơ nhớ về đơn vị nên viết bài thơ này. Bao trùm lên bài thơ là nỗi nhớ da diết của một tâm hồn chứa chan tình cảm. Nỗi nhớ của nhà thơ hiện hữu thành hình ảnh con đường hành quân gian khổ, những kỉ niệm với dân quân trong đêm liên hoan và đặc biệt là hình ảnh của đoàn quân khi ra trận. Chân dung người lính được khắc họa thật đặc biệt bằng những nét vẽ thật khác thường như “không mọc tóc”, “xanh màu lá”, “dữ oai hùm”, “mắt trừng gửi mộng”. Nhưng tất cả những điều này lại bắt nguồn từ chính đời sống thực tế đầy khắc nghiệt và gian khổ. Trước sự thật đó Quang Dũng không hề né tránh mà tái hiện thật tài tình bằng màu sắc lãng mạn : “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”. Mới đọc qua thì có thể thấy đây là hình ảnh mang vẻ gì đó li kì, giật gân hay khó hiểu nhưng nhìn vào hiên thực thì có thể nhận thấy rằng những cơn sốt rét rừng liên miên hành hạ con người lại là nguyên nhân chính tạo nên ngoại hình của người lính. Cách nói của Quang Dũng cho thấy khẩu khí ngang tàng, hồn nhiên của người lính trẻ : tóc không thèm mọc chứ không phải tóc không mọc được do sốt rét rừng. Nơi rừng thiêng nước độc thiếu thốn đủ đường không thể có thuốc men đủ đầy nên “quân xanh màu lá” cũng là một điều dễ hiểu. Khi tìm hiểu về chi tiết này có nhiều ý kiến cho rằng “xanh màu lá” là màu của lá ngụy trang mà người lính mang bên mình khi ngụy trang hoặc quân phục mà người lính khoác lên mình. Nhìn chung khi nhìn vào hiện thực cuộc kháng chiến thì cả hai cách hiểu này đều không làm nổi bật được tính chất của cuộc kháng chiến. Cái “xanh màu lá” đó lại đi liền với cái “dữ oai hùm” khiến cho hình ảnh người lính trở nên hùng dũng, hiên ngang đầy ý chí và nghị lực. Vẻ hùng dũng và đầy nghị lực đó của những người lính khiến họ mang vẻ dữ dằn chẳng khác nào những con hổ nơi rừng thiêng nước độc. Quang Dũng đã cho người đọc thấy được sự dũng cảm, dữ dằn của người lính khi vượt lên trên hoàn cảnh và xem thường mọi khổ ải, thiếu thốn. Vẻ dữ dằn ấy còn được thể hiên qua ánh mắt của họ : “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”. Đôi mắt luôn chứa đựng những điều thật đặc biệt. Qủa thật là như vậy, qua từ “trừng” mà Quang Dũng dùng để diễn tả sự căm phẫn và ý chí luôn hướng về mục đích chiến đấu của cuộc kháng chiến chúng ta thấy được một lần nữa sự quyết tâm của người lính trong cuộc kháng chiến. Giấc mộng ở đây là giấc mộng lập công, giết giặc bảo vệ đất nước. Nếu như ba câu thơ đầu tiên trong đoạn thơ đã làm nổi bật ngoại hình dữ dằn và đầy sự oai hùng của những người lính thì câu thơ cuối tập trung thể hiện tâm hồn của những trái tim rạo rực và khát khao yêu thương của những người lính trẻ : “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. “Dáng kiều thơm” là một cách nói thật đặc biệt gợi lên vẻ đẹp của người con gái yêu kiều và duyên dáng. Có lẽ chính giấc mơ về dáng kiều thơm lại trở thành một trong những nguồn động lực để tiếp thêm sức mạnh cho những người lính trước những khó khăn gian khổ của cuộc kháng chiến. Nỗi nhớ về “dáng kiều thơm” như một yếu tố để cân bằng lại đời sống nội tâm của người lính sau những tháng ngày hành quân vất vả chứ không phải là sự yếu đuối như một số người vẫn nhầm tưởng. Bằng việc sử dụng những từ ngữ khắc họa tài tình Quang Dũng đã tạc lên bức tượng đài cụ thể về cả vẻ bề ngoài đầy ấn tượng và tâm hồn bên trong với vẻ lãng mạn, hào hoa.

Dưới ngòi bút của Quang Dũng thì vẻ đẹp của đoàn quân ra trân được thể hiện độc đáo như vậy còn dưới ngòi bút của Tố Hữu thì hình ảnh người lính ra trận hiện lên với một vẻ đẹp cũng không kém phần đặc biệt. Để tái hiện khung cảnh sôi động của Việt Bắc trong những ngày chiến đấu và chiến thắng Tố Hữu đã khắc họa thành công con đường ra trận ở chiến khu Việt Bắc vào ban đêm:

“Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung”

Chỉ với hai câu thơ ngắn gọn nhưng Tố Hữu đã gợi tả được không gian rộng lớn và khoảng thời gian dài của cuộc kháng chiến trường kì và vĩ đại. Đặc biệt khi Tố Hữu sử dụng từ láy “rầm rập” vừa diễn tả được tiếng động mạnh của bước chân người lính vừa tái hiện được nhịp độ khẩn trương, đông đảo của tất cả các lực lượng tham gia kháng chiến. Biện pháp nghệ thuật so sánh được sử dụng ở câu thơ thứ hai đã diễn tả được sức mạnh đoàn kết to lớn của dân tộc. Đoàn quân đi đến đâu cũng ngỡ như mặt đất cũng rung chuyển đến đó. Từ việc miêu tả một cách khái quát con đường ra trận đó thì Tố Hữu tiếp tục miêu tả cụ thể hình ảnh bộ đội hành quân ra trận :

“Quân đi điệp điệp trùng trùng

“Quân đi điệp điệp trùng trùng

Từ láy “điệp điệp”, “trùng trùng” khiến cho người đọc có được một hình dung về sự lớn mạnh của đông đảo của lực lượng quân đội trong cuộc kháng chiến. Nhịp thơ 2/2/2 như nhịp bước hành quân thể hiện sự mạnh mẽ và oai hùng của người chiến sĩ ra trận chiến trong hoàn cảnh thiếu thốn. Mặc dù chiến đấu trong hoàn cảnh như vậy nhưng họ vẫn luôn yêu đời và lạc quan. Chính điều này khiến cho họ như cảm nhận được “ánh sao đầu súng”. Ánh sao như là biểu tượng lí tưởng cách mạng soi sáng, dẫn đường để mỗi bước hành quân của người lính sẽ thêm vững chắc. Với thể thơ lục bát truyền thống mượt mà cùng với việc sử dụng thành công các từ láy thì Tố Hữu đã tái hiện được hình ảnh người lính ra trận đẹp biết bao nhiêu.

Cả hai đoạn thơ đều đã thể hiện thành công vẻ đẹp của đoàn quân ra trận. Hình ảnh người lính hiện lên ở cả hai đoạn thơ đều mang vẻ đẹp mạnh mẽ, oai hùng đầy tự hào cùng với tinh thần lạc quan yêu đời và niềm tin tưởng vào cuộc kháng chiến trường kì của toàn thể dân tộc. Thông qua hình ảnh người lính chúng ta cũng phần nào cảm nhận được tính chất khắc nghiệt của cuộc kháng chiến chống lại giặc ngoại xâm, bảo vệ bầu trời hòa bình cho dân tộc. Từ đó chúng ta cũng thấy được sự am hiểu cũng như tình yêu đất nước của cả hai tác giả. Sở dĩ có được những nét tương đồng này là do cả hai nhà thơ đều sáng tác trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp. Chính vì vậy, họ được chứng kiến và trải qua những thời khắc đó. Đối với họ kỉ niệm đó, hình ảnh đó thật đáng trân trọng và tươi dẹp biết bao nhiêu.

Bên cạnh những điều giống nhau đó thì chúng ta cũng không quá khó để nhận ra sự khác biệt giữa hai đoạn thơ. Với bốn câu thơ của Quang Dũng thì hình ảnh người lính hiện lên rõ ràng về ngoại hình, tâm hồn với vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng. Cách sử dụng từ ngữ của tác giả cũng thật thú vị gân guốc mà vẫn thi vị nên thơ. Còn đối với Tố Hữu hình ảnh đoàn quân ra trận nhấn mạnh sức mạnh của cả vật chất và tinh thần. Đồng thời hình ảnh đó tượng trưng cho khối đại đoàn kết dân tộc với sức mạnh to lớn. Có thể thấy rằng chính phong cách sáng tác và quan điểm của mỗi nhà thơ tạo nên nét riêng biệt như vậy. Nhờ nét riêng biệt này mà mỗi nhà để lại dấu ấn riêng trong lòng bạn đọc.

Qua việc tìm hiểu vẻ đẹp của đoàn quân ra trận trong thơ của Quang Dũng và thơ của Tố Hữu, chúng ta đã được trải nghiệm một cuộc hành trình trở về quá khứ, bước vào thế giới đầy gian nan mà hào hùng đó để mà cảm nhận. Hình ảnh đoàn quân ra trận hiện lên thật đẹp và thật đáng tự hào ở cả hai khổ thơ của hai nhà thơ. Cảm nhận về hình ảnh đoàn quân ra trận càng khiến chúng ta thấy biết ơn trước sự hi sinh của biết bao thế hệ đi trước và trân trọng hơn cuộc sống hòa bình hiện nay.

Xem thêm các bài văn mẫu lớp 12 Ôn thi THPT Quốc gia khác:

Giới thiệu kênh Youtube Tôi

Trang trước Trang sau

Tái hiện vẻ đẹp đoàn quân ra trận: Tây Tiến và Việt Bắc

A. ĐỀ BÀI

Phần I Đọc hiểu (3 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
Đi lễ đầu năm là truyền thống lâu đời và trở thành nét đẹp văn hóa trong đời sống tâm linh của người Việt Nam cứ mỗi độ Tết đến Xuân về. Phong tục này đã thấm nhuần vào sâu trong tâm trí của mỗi người dân, để rồi khi không khí Tết ùa về, mọi người lại chuẩn bị sắm sửa lễ quả, cùng gia đình bạn bè, người thân nô nức đến các nơi thờ phụng linh thiêng.

Tục lệ đi đền, chùa, phủ... đầu năm không chỉ thể hiện khát vọng về một cuộc hạnh phúc, no đủ mà đây còn là dịp để người dân Việt tìm về với cội nguồn dân tộc. Có lẽ trong từng nhịp thở của tiết Xuân, chúng ta lại cảm nhận được sự giao hòa của trời đất. Sự linh thiêng của những bức tượng Phật, mùi hương trầm lan tỏa, hương hoa ướt đẫm mưa Xuân, mùi của đất mới hòa trong sắc màu rực rỡ của đèn, hoa... tất cả quyện vào nhau tạo nên một không gian thanh tịnh, để lại trong lòng người sự thanh thản và bình yên. Sau một năm cổ gắng hết mình vì công việc, chìm trong những bộn bề lo toan của cuộc sống hàng ngày thì đây là thời khắc mọi người dân Việt được lắng đọng lại, một lòng hướng về nơi linh thiêng, cầu nguyện một cuộc sổng sung túc đủ đầy hơn cho năm sau.
(Phương Anh, Đi lễ đầu năm-Nét đẹp văn hóa tâm linh của người Việt, tạp chí Quê Hương, số 3/2015)

Câu 1: Đoạn trích trên nhắc đến tục lệ đẹp nào của dân tộc Việt ta?
Câu 2: Giá trị, ý nghĩa của tục lệ được tác giả miêu tả như thế nào?
Câu 3: Phân tích cấu trúc ngữ pháp của câu sau: Sự linh thiêng của những bức tượng Phật, mùi hương trầm lan tỏa, hương hoa ướt đẫm mưa Xuân, mùi của đất mới hòa trong sắc màu rực rỡ của đèn, hoa... tất cả quyện vào nhau tạo nên một không gian thanh tịnh, để lại trong lòng người sự thanh thản và bình yên.
Câu 4: Theo anh (chị), mỗi người dân cần có ý thức như thế nào trong việc lưư giữ, bảo tồn văn hóa Việt?
Phần II. Làm văn (7 điểm)

Câu 1 (2 điểm):
"Khi trời đẹp hãy chuẩn bị cho thời tiết xấu". - Thomas Fuller
Bằng đoạn văn khoảng 200 từ, trình bày suy nghĩ của anh (chi) về vai trò của sự chủ động, chuẩn bị trước những tình huống xấu của cuộc sống.
Câu 2 (5 điểm):
Cùng tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận mỗi nhà thơ lại có cách khám phá thể hiện riêng. Trong bài Tây Tiến, Quang Dũng viết:
"...Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm..."
Trong Việt Bắc, Tố Hữu viết:
“...Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan..."
Cảm nhận của anh/ chị về hai đoạn thơ trên

B. GỢI Ý LÀM BÀI

Phần I: Đọc hiểu

Câu 1: Đoạn trích nhắc đến tập tục đi lễ chùa đầu năm của nhân tộc ta
Câu 2: Đoạn trích miêu ta tục lệ đi lễ đầu năm có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với dân tộc ta như sau:
“Phong tục này đã thấm nhuần vào tâm trí của người Việt”
- Thể hiện khát vọng về một cuộc sống hạnh phúc.
- Là thời điểm để mỗi người lắng đọng tâm hồn sau một năm cố gắng hết mình vì công việc
Câu 3: Câu văn được phân tích cấu trúc như sau:
Thành phần phụ chú: Sự linh thiêng của những bức tượng Phật, mùi hương trầm lan tỏa, hương hoa ướt đẫm mưa Xuân, mùi của đất mới hòa trong sắc màu rực rỡ của đèn, hoa...
- Chủ ngữ: tất cả
- Vị ngừ: quyện vào nhau tạo nên một không gian thanh tịnh, để lại trong lòng người sự thanh thản và bình yên.
Câu 4: Đối với câu hỏi này, học sinh trả lời theo ý hiểu của bản thân mình, dưới đây là một số gợi ý cơ bản:
Mỗi người dân cần có ý thức bảo tồn văn hóa Việt như sau:
- Gìn giữ những nét đẹp cổ truyền
- Hiểu được ý nghĩa của những hoạt động truyền thống của dân tộc để phát huy chúng một cách tích cực nhất
- Tuyên truyền, bảo vệ những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc nếu nó có nguy cơ bị mai một.

Phần II. Làm văn (7 điểm)

Câu 1(2 điểm):
Yêu cầu về hình thức:
- Viết đúng 01 đoạn vãn, khoảng 200 từ.
- Trình bày mạch lạc, rồ ràng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu,...
Yêu cầu về nội dung:
1) Giải thích từ ngữ
Thời tiết đẹp: Ý nói những hoàn cành thuận ỉợi, những điều kiện thuận lợi để thực hiện một công việc gì đó.
Thời tiết xấu: Ý nói những hoàn cảnh khó khăn, bất lợi trước mắt có thể xảy ra.
Hãy chuẩn bị: Thể hiện sự cần thiết của việc chủ động trước bất cứ hoàn cảnh nào.
- Ý kiến khẳng định để đạt được một việc nào đó, con người phải có cái nhìn thấu suốt không chỉ hiện tại mà còn cả tương lai, hướng đến một lối sống biết chừng mực, không quá vui với kết quả trước mắt mà quên nghĩ đến tương lai có thể xảy ra những điều khó khăn... Cái nhìn thấu suốt đó hướng con người đến một lối sống biết chủ động trước hoàn cảnh, chuẩn bị trước những giải pháp cho điều khó khăn có thể xảy ra.
2) Phân tích, bình luận
- Sự chuẩn bị, lường trước những khó khăn, trở ngại của cuộc sống được thể hiện như thế nào?
- Một người biết chủ động lường trước những tình huống xấu có thể xảy ra là những người chuẩn bị những điều kiện, những cơ sở để đổi phó với những điều không thể lường trước được. Họ không chủ quan trước những thuận lợi đã có từ trước mà luôn luôn đề phòng bằng những khả năng của mình.
- Dù hiện tại có kết quả như thế nào đi chăng nữa, những người chủ động là những người suy nghĩ điều xảy ra ở hiện tại có thể không đứng với tương lai.
- Tại sao cần phải chủ động trước mọi tình huống của cuộc sống?
- Cuộc sống là thiên biến vạn hóa, không thể lường trước được điều gì có thể xây ra trong tương lai. Nếu chúng ta chủ quan, dựa vào kết quả của hiện tại mà không nghĩ đến việc tương lai có thể thay đổi thì sớm muộn gì cuộc sống cũng đưa ra những sự cố mà mỗi người không thể lường trước được.
- Để cuộc sống không gặp phải những tình huống khó khăn, bất trắc cần phải có sự chuẩn bị những điều kiện vật chất và tinh thần.
- Muốn nắm bắt những cơ hội trong cuộc sống và không bỏ lỡ những dịp quan trọng thì mỗi người cần tạo cho mình những cơ hội một cách chủ động trong tương lai.
- Dẫn chứng: Adam Khoo, tác giả cuốn sách “Tôi tài giỏi, bạn cũng thế” nhờ đổi mới phương pháp học tập mà từ một học sinh kém đã thành học sinh giỏi, là một trong những sinh viên xuất sắc của Singapore, trở thành triệu phú khi chỉ mới 20 tuổi. Đó là một biểu hiện cho sự chủ động, sự đổi mới trên cơ sở những gì ý thức về thực tại học tập của mình để thay đổi trong tương lai.
Không ỷ lại vào những gì của hiện tại mà anh luôn luôn chù động thay đổi để tương lai được tốt đẹp hơn.
c) Mở rộng, phản đề: Sự chuẩn bị và chủ động trước mọi hoàn cảnh, không quá lệ thuộc vào những điều xảy ra ở hiện tại mà quên việc chuẩn bị cho tương lai không có nghĩa là lúc nào cũng lo âu, suy tính đến những điều chưa xảy ra một cách khổng cố căn cử.
d) Bài học nhận thức và hành động
+ Cuộc sống là những biến đổi xoay vần không ngừng, đó là lí do con người cần phải chủ động trong mọi việc đề ứng biến với mỗi biến động của cuộc sống. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là con người quá lo lắng vào tương lai để kìm nén bản thân và phức tạp hóa cuộc sống của họ.
+ Bài học nhận thức, hành động của bản thân
Câu 2 (5 điểm):
1. Mở bài
Trong cuộc đời ai cũng có ít nhất một niềm thương nỗi nhớ. Có lẽ vì thế mà nỗi nhớ đã trở thành đề tài quen thuộc được các nhà văn, nhà thơ ưu ái nói đến. Nếu như trong "Tây Tiến", Quang Dũng nhớ da diết thiên nhiên và con người miền Tây thì đến với Việt Bẳc, nhà thơ không chỉ nhớ về con người và thiên nhiên hùng vĩ thơ mộng, nhớ về những ngày tháng kháng chiến gian khổ, hào hùng mà hơn thế nữa là những dấu ấn tươi nguyên về những ngày chiến thắng. Trong rất nhiều nỗi nhớ đó nổi bật lên là những kí ức của Quang Dũng và Tố Hữu về hình ảnh những đoàn quân ra mặt trận. Và điều đó được thể hiện rõ nhất qua hai đoạn thơ sau:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá, dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
Và:
“Những đường Việt Bẳc của ta
Đêm đêm rầm rập như ỉà đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”.
2. Thân bài
a) Khái quát về tác giả, tác phẩm:
(*) Tây Tiến — Quang Dũng
- Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài, ngoài viết văn, làm thơ, ông còn vẽ tranh, soạn nhạc. Và ở bất kì một lĩnh vực nào, Quang Dũng cũng để lại những dấu ấn đặc sắc cho nền nghệ thuật của chúng ta. Riêng ở lĩnh vực thơ ca, ông không chỉ là thi sĩ mà còn là thi nhân, sống hết mình cho thơ bằng cách tài hoa, lãng mạn. Những vần thơ của Quang Dũng có sức gợi rất sâu sắc với người đọc, nhất là thơ tình.
++ Tây Tiến được sáng tác năm 1948, in trong tập "Mây đầu ô" (1986), là tác phẩm tiêu biểu cho đời thơ của Quang Dũng, thể hiện sâu sắc phong cách nghệ thuật của nhà thơ. Tây Tiến là tên của một đơn vị bộ đội thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt - Lào và đánh tiêu hao sinh lực địch. Địa bàn hoạt động của người lính Tây Tiến rất rộng, đó là núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng rất thơ mộng, trữ tình. Chiến sĩ Tây Tiến ra đi năm ấy phần đông là thanh niên Hà Nội, là những học sinh, sinh viên trí thức như Quang Dũng. Họ chiến đấu trong hoàn cảnh khắc nghiệt, điều kiện sinh hoạt thiếu thốn nhưng họ vẫn lạc quan, thể hiện được vẻ đẹp hào hùng, hào hoa của tuổi trẻ. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị mang theo nỗi nhớ tha thiết, một ngày ờ Phù Lưu Chanh, nhớ về đơn vị cũ của mình, tâm hồn Quang Dũng đã rung lên và cứ thế nỗi nhớ về thiên nhiên và con người cứ trào ra và kết tinh lại thành Tây Tiến. Thi phẩm bộc lộ nỗi nhớ sâu sắc của nhân vật trữ tình đối với miền Tây Bắc và đoàn binh Tây Tiến, thông qua đó khắc họa chân dung người lính Tây Tiến bi tráng và hào hoa.
(*) Việt Bắc - Tố Hữu
- Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Mỗi thời kì lịch sử, Tố Hữu lại để lại dấu ấn riêng mang đậm hồn thơ trữ tình chính trị như: Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa.. .Trong đó, "Việt Bắc" là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng và thơ ca chống Pháp nói chung. Cảm xúc bao trùm bài thơ là hoài niệm về một địa danh lịch sử biết bao gắn bó nghĩa tình. Trong hoài niệm ấy, sâu đậm nhất là nỗi nhớ cảnh, nhớ người, nhớ về những năm tháng gian nan mà hào hùng.
- Việt Bắc là địa danh cách mạng gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc Việt Nam (1945 - 1954). Địa danh được thành lập vào năm 1946 do yêu cầu của kháng chiến, Đảng và Bác Hồ phải rời Thủ đô Hà Nội để hoạt động và củng cố lực lượng ờ khu vực rừng núi phía Đông Bắc, gồm: Cao - Bắc - Lạng - Thái - Hà - Tuyên. Từ đó trở đi, Việt Bắc được coi là thủ đô cách mạng và trong thơ ca nỏ được gọi là “thủ đô gió ngàn”. Đây là cơ sở quan trọng để Đảng và cách mạng xây dựng chủ nghĩa xã hội, để củng cố và phát triển đất nước.
++Tháng 10/1954, Đảng và Chính phủ đã rời chiến khu Việt Bắc để về tiếp quản Thủ đô Hà Nội. Từ sự kiện lịch sử trọng đại này, Tố Hữu đã viết lên bài thơ Việt Bắc để ca ngợi tinh cảm gắn bó quân dân sâu năng giữa nhân dân và cách mạng.
b) Phân tích đoạn thơ:
(*) Tây Tiến - Quang Dũng
"TâyTiến đoàn bình không mọc tóc...
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm...”
- Hai câu thơ đầu, Quang Dũng khắc họa vè đẹp bi tráng của người lính:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm"
- “Bi” là đau thương, “Tráng” là hùng tráng, hào hùng. Bi tráng có nghĩa là trong gian khổ, đau thương vân hào hùng, lẫm liệt. Đầu tiên đó là cái bi thương gợi lên từ ngoại hình ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc, da dê xanh như màu lá. Đoàn quân trông thật khác lạ: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”.
- Trong thủ pháp tả thực, tác giả dũng cảm đối diện với thực tại của chiến tranh. Đó là con đường hành quân gian khổ, là những căn bệnh sốt rét rừng vì các anh sống ở nơi rừng sâu, nước độc làm cho người chiến binh Tây Tiến ốm yếu, bệnh tật, làm các anh xanh đa, rụng tóc. Bằng cái nhìn lãng mạn, sự tếu táo của lính tráng thì điểm yếu của họ trở thành nét đẹp riêng mang thương hiệu của người chiến binh Tây Tiến, đó là đoàn quân “Vệ trọc”.
- Bằng thủ pháp nghệ thuật đảo ngữ, Quang Dũng đã nhấn mạnh riêng vào vẻ đẹp riêng của những người chiến binh. Đoàn binh Tây Tiến là những người khôn mọc tóc, là quân xanh màu lá. Cũng là hình ảnh người chiến binh bi bệnh tật làm rụng tóc, xanh da nhưng thông qua cách miêu tả của tác giả thì điều đó lại không trở nên đáng sợ bởi họ ở tư thế chủ động là không mọc tóc, xanh da để “dữ oai hùm”.
- Những cơn sốt rét rừng, những gian khổ mà người chiến binh phải vượt qua không chỉ xuất hiện trong thơ Quang Dũng mà còn để lại dấu ấn đau thương trong thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung:
"Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi"
(Đồng chí - Chính Hữu)
Hay
"Cuộc đời gió bụi pha xương máu
Đói rét bao lần xé thịt da
Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa!
Lòng tôi xao xuyến tình thương xót
Muốn viết bài thơ thấm lệ nhòa
Tặng những anh tôi từng rỏ máu
Đem thân xơ xác giữ sơn hà."
(Lên Cấm Sơn — Thôi Hữu)
- Bên cạnh đó ta còn thấy cái hào hùng: thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa ngoại hình ốm yếu và tâm hồn bên trong đã làm nên khí chất mạnh mẽ của người lính. “Không mọc tóc” là cách nói ngang tàng rất lính, hóm hỉnh vui đùa với khó khăn gian khổ của người lính. Mặt khác, cái hào hùng còn hiện lên qua cách dùng từ Hán - Việt “đoàn binh”. Chữ “đoàn binh” chứ không phải là đoàn quân đã gợi lên được sự mạnh mẽ, hùng dũng lạ thường, trong đó có dáng dấp của “Quân đi điệp điệp trùng trùng” trong thơ Tố Hữu, của “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” (Sức mạnh ba quân nuốt trôi trâu) trong thơ Phạm Ngũ Lão. Ba từ “dữ oai hùm” gợi lên dáng vẻ oai phong lẫm liệt, oai của chúa sơn lâm. Qua đó, ta thấy người lính Tây Tiến vẫn mạnh mẽ làm chủ tình hình, làm chủ núi rừng, chế ngự mọi khắc nghiệt xung quanh, đạp bằng mọi khó khăn gian khổ.
- Hai câu thơ tiếp theo là vẻ đẹp của tâm hồn của những chàng trai Hà Nội lãng mạn, hào hoa:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm."
++ “Mắt trùng” gợi nhiều liên tưởng: mắt trừng là mắt mở to nhìn thẳng về phía kẻ thù với chí khí mạnh mẽ, quyết liệt, thề sống chết với kẻ thù. Nhưng đôi mắt trừng ấy còn “gửi mộng qua biên giới” là đôi mắt chan chứa tình, đôi mắt thao thức nhớ về quê hương Hà Nội, về một dáng kiều thơm trong mộng trong mơ. Với ý nghĩa đó ta thấy, người lính Tây Tiên không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động, nhớ nhung về vẻ đẹp của Hà Nội: đó có thể là phố cũ, trường xưa, những con đường mùa thu thơm lừng hoa sữa hay chính xác hơn là nhớ về một dáng kiều thơm, bóng dáng của những người bạn gái Hà Nội yêu kiều, diễm lệ. Có một thời người ta đã phiến diện hiểu rằng câu thơ này mang mộng tiểu tư sản quá nhiều làm giảm đi chất chiến đấu. Nhưng thời gian đã chứng minh rằng đó là một vẻ đẹp của tấm lòng luôn hướng về Tổ quốc, hướng về Thủ đô. Người lính ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi nhưng lòng lúc nào cũng hướng về Hà Nội, về quê hương.
++ Thơ ca kháng chiến chống pháp cũng đã khắc họa bao gương mặt nỗi nhớ như thế. Đó là nỗi nhớ ruộng đồng “Ba năm rồi gửi lại mái lều tranh/ Luống cày đất đỏ/ Tiếng mõ đêm trường/ Ít nhiều người vợ trẻ/ Mòn chân trên cối gạo canh khuya’ (Hồng Nguyên). Đó là nỗi nhớ “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” (Chính Hữu). Mỗi gương mặt nỗi nhớ ẩy là lính nông dân hay lính thành thị thì nỗi nhớ ấy cũng là nỗi nhớ của những tâm hồn luôn hưởng về đất nước, Tổ quốc, quê hương.

Có thể bạn quan tâm:Nghệ thuật bài "Tây Tiến"

(*)Phân tích đoạn thơ: “Những đường Việt Bắc của ta.. .Ảnh sao đầu súng bạn cùng mù nan”.
- Nhà thơ đã tập trung thể hiện không khí hào hùng trong cuộc kháng chiến của quân ta. Theo dòng hồi tưởng, Tố Hữu đã đưa người đọc trở về khung cảnh chiến đấu ở Việt Bắc với không gian núi rừng rộng lớn, với những hoạt động tấp nập, những hình ảnh, âm thanh sôi nổi, dồn dập làm náo nức lòng người. Ánh sáng cách mạng đã xua tan màn đêm, vẻ u ám, hiu hắt của núi rừng đồng thời khơi dậy sức sống mạnh mẽ của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Đoạn thơ mang dáng vẻ của một khan sử thi hiện đại, tràn đầy âm hưởng anh hùng ca. Giọng điệu dìu dặt, du dương ở đoạn thơ trước đến đây đã chuyển thành giọng điệu dồn dập, rắn rỏi và phấn khích.
- Trước hết đó là ấn tượng chân thực và sinh động về khung cảnh chiến khu Việt Bắc với khí thế tiến công hào hùng của đoàn quân:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung.
++ Câu thơ vang lên rất đỗi tự hào. Đó là niềm tự hào về những con đường Việt Bắc. Những đường "Việt Bắc” đó là những con đường rất thực, rất cụ thể như tác giả từng viết:
"Ta đi giữa ban ngày
Trên đường cải, ung dung ta bước
Đường ta rộng thênh thang tám thước
Đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên
Đường qua Tây Bắc, đường lên Điện Biên
Đường cách mạng, dài theo kháng chiến..."
++ Chỉ với hai câu thơ trên, tác giả đã khái quát lên bức tranh toàn cảnh của đoàn quân. Hai từ “của ta” thể hiện quyền tự hào, tự chủ của đất nước và tự hào hơn nữa là những con đường kháng chiến, những con đường “Đêm đêm rầm rập như là đất rung”. Trong câu thơ ta bắt gặp từ láy “đêm đêm”. Từ láy ấy gợi không gian và thời gian, thời điểm hành quân của những người lính. Nó gợi tả cái khố khăn, gian khổ của đoàn quân. Thời gian kéo dài không chỉ còn là một đêm cụ thể mà có biết bao nhiêu đêm như thế, chính điều đó đã tô đậm những khó khăn, vất vả mả người lính gặp phải. Trong thơ ca kháng chiến, cũng có nhiều cuộc hành quân ban đêm như thế:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu
(Đất nước, Nguyễn Đình Thi).
++ Trong đời sống hằng ngày, đêm xuống là lúc vạn vật chìm trong giấc ngủ, là thời điểm nghi ngơi của con người sau một ngày dài mệt nhọc. Thế nhưng trong chiến tranh, đêm đến là thời điểm chiến đấu, hành quân với khí thế âm vang “rầm rập” của những bước chân người lính. Nó diễn tả sức mạnh của đoàn quân, là sức mạnh của số đông và cũng là sức mạnh của tinh thần chiến đấu. Những bước chân chuyển động “như là đất rung” thể hiện tác động của con người tới thiên nhiên, dường như sức mạnh của con người làm thiên nhiên rung chuyển. Biện pháp cường điệu hóa được sử dụng đã nêu bật được sức mạnh của đoàn quân, sự quyết tâm của đoàn quân đạp bằng mọi chông gai, thử thách, tiêu diệt kẻ thù bảo vệ nền độc lập, tự do. Như vậy, qua không gian rộng lớn, thời gian đằng đẵng và khí thế hào hùng ở Việt Bắc, có thể thấy rõ cuộc kháng chiến chống Pháp là trường kì, là gian khổ nhưng dân tộc Việt Nam bằng tinh thần yêu nước, đấu tranh quật cường đã vững vàng, kiên định trong gian khổ, chung sức đồng lòng đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi vè vang.
- Hai câu thơ tiếp theo miêu tả cụ thể hình ảnh bộ đội ta hành quân ra trận:
"Quân đi điệp điệp trùng trùng
Anh sao đầu súng bạn cùng mũ nan"
++ Đó là một hình ảnh vừa hào hùng, vừa lãng mạn. Từ láy “điệp điệp trùng trùng” khắc họa đoàn quân đông đảo, bước đi mạnh mẽ như những đợt sóng dâng trào, đợt này nối tiếp đợt kia tưởng chừng kéo dài vô tận. Qua đó, ta thấy được sức mạnh và khí thế của quân ta trong kháng chiến chống Pháp.
++ Từ cái nhìn viễn cảnh, tác giả chuyển sang cái nhìn cận cảnh, từ những nét vẽ trải ra theo chiều rộng, cỏ những nét vẽ theo chiều cao qua đó làm hiện lên vẻ đẹp bình dị của người chiến sĩ. Vẻ đẹp đó hiện ra qua hình ảnh chiếc mũ nan và hình ảnh cây súng. Đó là những hình ảnh quen thuộc. Tố Hữu đã tôn lên vẻ đẹp của những người lính khi nhìn và cảm nhận hình ảnh “Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan”. Trong những đêm dài hành quẫn chiến đấu ấy, ở mỗi đầu súng của người lính ngời ngời “ánh sao”. 
++ Hình ảnh “ánh sao” vừa mang nghĩa tả thực lại vừa mang nghĩa biểu tượng- Trước hết, đó là hình ảnh tả thực, ánh sáng của những ngôi sao làm cho không gian sáng sủa hơn, làm cho hình ảnh những người lính hiện ra rõ ràng hơn, đẹp hơn, là hình ảnh của thiên nhiên hiền dịu. Thiên nhiên đó có sự giao hòa, hòa quyện với con người, vì thế mà thiên nhiên làm đẹp cho con người. Ngoài ra, “ánh sao” còn mang ý nghĩa tượng tưởng. Đó là ánh sáng của niềm tin, của lí tưởng cách mạng soi đường dẫn lối cho người chiến sĩ chiến đấu chống kẻ thù bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc. Với ý nghĩa đó khiến ta liên , tường tới hình -ảnh “đầu súng trăng treo” trong Đồng chỉ của Chính Hữu. Nhưng nếu ánh trăng trong Đồng chỉ là hình ảnh biểu tượng cho khát vọng hòa bình, cho vẻ đẹp yên ấm của quê hương thì ánh sao của bài thơ này là biểu tượng của lí tường, của niềm lạc quan chiến thắng trong tâm hồn người lính ra trận.
++ Bộ ba hình ảnh: “ánh sao”, “đầu súng”, "mũ nan” hợp thành một hình tượng khỏe khoắn, vững chãi về mặt tạo hình, phản ánh tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến cũng như tỉnh thần lạc quan, tin tưởng vào chiến thắng tất yếu của quân dân ta.

Có thể bạn quan tâm:Hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc

c) Nét tương đồng:
- Cả hai bài thơ đều viết trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
- Đều sử dụng bút pháp sử thi, lãng mạn để miêu tả đoàn quân, đặc biệt là cảm hứng lãng mạn được các nhà thơ khai thác triệt để.
d) Điểm khác biệt:
- Người lính trong thơ Quang Dũng có cái đẹp vừa bi vừa hùng, vừa kiêu hùng, bi tráng vừa lãng mạn hào hoa mang chất lính tiểu tư sản không trộn lẫn. Còn Tố Hữu chủ yếu miêu tả cái đẹp toàn thể, hưởng tới số đông.
Tầm vóc của câu thơ lãng mạn đẩy hình ảnh người lính chống Pháp sánh ngang với vẻ đẹp của thiên nhiên, vũ trụ.
- Quang Dũng viết bài thơ "Tây Tiến" trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp do đó hình ảnh người lính hiện lên với nhiều khó khăn, gian khổ, đói cơm, sốt rét đến xanh da, rụng tóc nhưng không vì thế mà mất đi chất thép vốn có của người lính, rất "dữ oai hùm” nhưng vẫn đỗi mơ mộng chất Hà thành. Qua đó ta thấy hồn thơ Quang Dũng thiên về miêu tả những cái phi thường trong những hoàn cảnh rất phi thường.
- Thi phẩm Việt Bắc được.-Tố Hữu-viết-sau. chiến thắng Điện Biên Phủ. Dù có gian khổ, hi sinh, có bịn rịn, lưu luyến khi chia tay nhưng cũng là chia tay trong chiến thắng, trong khúc khải hoàn. Mặt khác, nét trữ tình chính trị thấm đẫm trong hồn thơ Tố Hữu nên ngòi bút của tác giả thiên về xu hướng ngợi ca, biểu dương nên hình ảnh thơ bay bổng, tự hào. Hình ảnh đoàn quân ra trận trong Việt Bắc vì thế mà mang tẩm vóc lớn lao, kì vĩ của "Bốn mươi thế ki cùng ra trận”.

3. Kết bài
Tóm lại, cùng miêu tả vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận nhưng do xuất phát từ cảm hứng miêu tả khác nhau của các nhà thơ nên hành trình đó rất khác nhau. Chính vì thế mà hình ảnh người lính thời chống Pháp hiện lên trong hai đoạn thơ vừa có nét chung, lại vừa có những nét riêng độc đáo. Cũng từ nét riêng đó làm nổi bật tầm vóc con người Việt Nam trong kháng chiến, kiêu hùng, bất khuất. Năm tháng rồi cũng qua đi, mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ kết thúc nhưng những bản anh hùng ca về người lính đã anh dũng chiến đấu vl nền hòa bình, độc lập của dân tộc sẽ không bao giờ phai mờ trong trái tim độc giả nhiều thế hệ.

Xem thêm>>>Sóng - Xuân Quỳnh

Trên đây là những gợi ý về cách làm bài đọc hiểu và làm văn cảm nhận về hai tác phẩm thơ "Tây Tiến" - Quang Dũng và "Việt Bắc" - Tố Hữu. Hãy đưa ra cảm nhận và ý kiến riêng của bản thân ở phía dưới commnet nhé!

Tags thpt quốc gia Tây Tiến quang dũng việt bắc tố hữu đề thi thử thpt quốc gia 2017
Bài trước Bài sau

So sánh hình ảnh đoàn quân trong Tây Tiến và Việt Bắc

Cập nhật ngày 04/12/2020 - Tác giả: Huyền Chu

[Văn mẫu 12] Dàn ý nêu cảm nhận và so sánh hình ảnh đoàn quân ra trận tái hiện trong Tây Tiến và Việt Bắc dựa qua 2 đoạn thơ: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc và Những đường Việt Bắc của ta...

Mục lục nội dung
  • 1. Dàn ý
  • 2. So sánh sựgiống và khác nhau
  • 3. Bài văn mẫu
Mục lục bài viết

So sánh hình ảnh đoàn quân ra trậntrong Tây Tiến và Việt Bắc - Hướng dẫn lập dàn bài chi tiết và bài văn tham khảo.

Đề bài: Cùng tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận mỗi nhà thơ lại có cách khám phá và thể hiện riêng:

Trong bài Tây Tiến, Quang Dũng viết:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

Trong thi phẩm Việt Bắc, Tố Hữu viết:

“Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cũng mũ nan”.

Em hãy nêu cảm nhận của mình về hai đoạn thơ trên?

Dàn ý so sánh hình ảnh đoàn quân trong Tây Tiến và Việt Bắc

1. Khái quát chung: Giới thiệu Quang Dũng, Tố Hữu và hai tác phẩm:

+ Quang Dũng là gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca kháng chiến chống Pháp. Ông có một hồn thơhào hoa, lãng mạn thấm đượm tình đồng bào đồng chí. Tây Tiếnlà bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của ông. Bài thơ được tác giả viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian.

+ Tố Hữu là nhà thơ lớn của dân tộc, thơ của ông song hành cùng những chặng đường của cách mạng Việt Nam. Bài thơ Việt Bắclà một thành công đặc biệt trong đời thơ Tố Hữu. Tác phẩm vừa là bản tình ca về tình cảm cách mạng – giữa đoàn cán bộ miền xuôi với nhân dân Việt Bắc, vừa là bản hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ mà vẻ vang của dân tộc.

Nêu cảm nhận chung của em về hình ảnh vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận, song mỗi nhà thơ lại có những cách khám phá, cách thể hiện riêng trong 2 đoạn thơ.

2. Nêu cảm nhận của em về 2 đoạn thơ

a. Đoạn thơ trong bài thơ Tây Tiến:

* Vẻ đẹp bi thương vừa hào hùng của đoàn quân Tây Tiến trên đường hành quân:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”.

- Cái bi thương của người lính được gợi lên từ ngoại hình ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc, da dẻ xanh như màu lá.

+ Sở dĩ người lính Tây Tiến "không mọc tóc", "xanh màu lá" do hậu quả của những tháng ngày hành quân vất vả vì đói và khát, là dấu ấn của những trận sốt rét ác tính làm con người ta tiều tụy.

-> Hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc” không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng mà nét vẽ này xuất phát từ 1 hiện thực trong cuộc sống của người lính Tây Tiến: họ phải cạo trọc đầu để giảm bớt những bất tiện trong sinh hoạt ở rừng và để tạo thuận lợi trong đánh trận; có khi những cái đầu không mọc tóc kia là hậu quả của những trận sốt rét liên miên nơi rừng thiêng nước độc. Và dù hiểu theo cách nào thì đó cũng là hình ảnh gợi lên sự gian khổ thiếu thốn, khắc nghiệt của chiến tranh. Tuy nhiên với cách diễn đạt độc đáo của Quang Dũng, người lính Tây Tiến hiện lên không tiều tụy, nhếch nhác mà kiêu dũng, ngang tàng. Nói về họ, Quang Dũng vẫn dùng từ “đoàn binh” – gợi cảm giác về 1 đội ngũ đông đảo, hừng hực khí thế.

-> Hình ảnh “quân xanh màu lá” ở đây có thể hiểu là màu xanh áo lính hay màu xanh của lá ngụy trang khiến cho cả doàn quân xanh màu lá. Nhưng theo mạch thơ có lẽ còn nên hiểu đây là câu thơ miêu tả gương mặt xanh xao, gầy yếu vì sốt rét rừng, vì cuộc sống kham khổ. Ở đây, cách diễn đạt của của Quang Dũng khá tinh tế khi miêu tả đoàn quân “xanh màu lá” chứ không phải xanh xao, người lính do đó mà như hài hòa cùng với thiên nhiên, ốm mà không yếu, ốm mà vẫn trẻ trung, vẫn tràn đầy sức sống.

-> Đặc biệt, kết hợp từ “dữ oai hùm” gợi cho người đọc thấy trên gương mặt xanh xao, gầy ốm của người lính vẫn toát lên vẻ dữ dội, kiêu hùng của những con hổ nơi rừng thiêng. Dường như, ở miền đất hoang sơ, bí ẩn có bóng hổ rình rập, đe dọa với “cọp trêu người” thì người lính cũng có “oai hùm” dữ dội, uy nghi để chế ngự và chiến thắng.

* Liên hệ: Những cơn sốt rét rừng ấy không chỉ có trong thơ Quang Dũng mà còn để lại dấu ấn đau thương trong thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Thơ ca thời kỳ kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”

(“Đồng chí” – Chính Hữu)

“Giọt giọt mồ hôi rơi

Trên má anh vàng nghệ

Anh vệ quốc quân ơi

Sao mà yêu anh thế”.

(“Cá nước” – Tố Hữu)

Sau này một nhà thơ trẻ thời kì kháng chiến chống Mĩ cũng viết về căn bệnh sốt rét rừng của những người lính bằng những vần thơ tê tái:

“Nơi thuốc súng trộn vào áo trận

Cơn sốt rừng đi dọc tuổi thanh xuân”.

* Nghệ thuậtsử dụng tài ngữ tài tìnhcủa Quang Dũng:

+ Thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa ngoại hình ốm yếu và tâm hồn bên trong đã làm nên khí chất mạnh mẽ của người lính. “Không mọc tóc” là cách nói ngang tàn rất lính, hóm hỉnh đùa vui với khó khăn gian khổ của mình.

+ Thể hiện qua cách dùng từ Hán Việt “đoàn binh”. Chữ “đoàn binh” chứ không phải “đoàn quân” đã gợi lên được sự mạnh mẽ lạ thường của sự hùng dũng. Ba từ “dữ oai hùm” gợi lên dáng vẻ oai phong lẫm liệt, oai của chúa sơn lâm. Qua đó ta thấy người lính Tây Tiến mạnh mẽ làm chủ tình hình, làm chủ núi rừng, chế ngự mọi khắc nghiệt xung quanh, đạp bằng mọi gian khổ. “mắt trừng” là đôi mắt dữ tợn, căm thù, mạnh mẽ, nung nấu quyết đoán làm kẻ thù hoảng sợ.

* Họ còn là những chàng trai Hà Nội hào hoa, lãng mạn:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

+ “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới” là đôi mắt thao thức về quê hương Hà Nội, về một dáng kiều thơm trong mộng. Mộng và mơ gửi về hai phía của chân trời: biên giới và Hà Nội.

-> Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động, nhớ nhung về vẻ đẹp của Hà Nội: đó có thể là phố cũ, trường xưa,… hay chính xác hơn là nhớ về bóng dáng của những người bạn gái Hà Nội yêu kiều, diễm lệ. Đó chính là động lực tiếp thêm sức mạnh để họ vững vàng tay súng, sẵn sàng cống hiến, hi sinh để bảo vệ Tổ Quốc, vì mục tiêu lí tưởng cao đẹp: “Quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh”.

>> Có thể em cần xem thêm bài văn mẫu: Phân tíchbài Tây Tiến để hiểu rõ hơn về vẻ đẹp và hình ảnh đoàn quân được xây dựng chân thực, mạnh mẽ nhưng cũng lãng mạn ra sao.

b. Đoạn thơ trong bài thơ “Việt Bắc”:

* Vẻ đẹp hào hùng của đoàn quân:

“Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng”

+ Đại từ sở hữu “của ta” vang lên một cách dõng dạc thể hiện niềm tự hào của những con người được làm chủ đất nước, đồng thời khẳng định Việt Bắc là chiến khu tự do.

+ Không khí sôi nổi của những ngày chiến dịch được tác giả tái hiện sinh động qua những từ ngữ, hình ảnh: rầm rập, đất rung, những từ láy: điệp điệp, trùng trùng. Hai chữ “rầm rập” vừa gợi âm thanh, vừa tạo hình ảnh. Biện pháp nghệ thuật so sánh, tượng trưng được tác giả sử dụng triệt để giúp ta cảm nhận hình ảnh những đoàn quân đang ngày đêm tiến về mặt trận. Mỗi bước đi của đoàn quân ấy mang cả sức mạnh của lòng yêu nước, của lí tưởng cách mạng, khát khao chiến đấu và chiến thắng quân thù.

* Vẻ đẹp lãng mạn, hình ảnh đầu súng xuất hiện rất nhiều trong thơ ca:

“Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”.

-> Đây có thể là hình ảnh sao trời treo trên đầu súng của những người lính trong mỗi đêm hành quân, cũng có thể là ánh sáng của ngôi sao gắn trên chiếc mũ nan của người lính, ánh sáng của lí tưởng cách mạng soi cho người lính bước đi. Họ là những con người có lí tưởng cao cả, đẹp đẽ, sẵn sàng cống hiến vì sự nghiệp chung. Ý thơ khiến người đọc liên tưởng đến hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong thơ Chính Hữu.

So sánh sựgiống và khác nhautrong vẻ đẹp đoàn quân trong Tây Tiến và Việt Bắc

Giống nhau: Đềulà hình ảnh khắc họa đoàn quân anh dũngvới vẻ đẹp vừa hào hùng, vừa lãng mạn, bay bổng.

Khác nhau:

+ Trong đoạn thơ thuộc bài thơ Tây Tiến, vẻ đẹp hào hùng của đoàn quânphảng phất sự bi thương nhưng vẫnthể hiện đượcước mơ một cuộc sống hòa bình.

+ Trong đoạn thơ thuộc bài thơ Việt Bắc, vẻ đẹp lãng mạn của người lính còn được Tố Hữu gắn liền với hiện thực.
Cả hai tác giả đều có trải nghiệm từ thực tế chiến đấu nên thơ đều có chất hiện thực. Bên cạnh đó, Quang Dũng là một chàng trai rất hào hoa nên thơ ông có cái lãng mạn rất riêng; còn ở Tố Hữu, thơ ông là thơ trữ tình chính trị, luôn có cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào cách mạng.

3. Kết luận vấn đề:

- Hai đoạn thơ bên cạnh những điểm tương đồng còn có những nét riêng độc đáo, thể hiện tài năng của hai nhà thơ.
Khẳng định vị trí của hai tác giả trong nền văn học cũng như trong lòng độc giả.

- Đưa ra cảm nhậncủa em vềhình ảnh đoàn quân trong Tây Tiến và Việt Bắc.

Bài văn mẫu tham khảo

Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 có một nguồn cảm hứng bao trùm đó là cảm hứng sử thi và lãng mạn. Cảm hứng ấy hướng về cuộc kháng chiến của nhân dân chống thực dân và đế quốc xâm lược. Trongnguồn cảm hứng bất tận ấy, hình tượng người lính là hình tượng được khắc họa rõ nét để lại nhiều dấu ấn trong lòng bạn đọc. Hai đoạn thơ sau trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng và Việt Bắc của Tố Hữu đã phần nào mang đến cho chúng ta vẻ đẹp sáng ngời ấy:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

(Tây Tiến – Quang Dũng)

Và:

“Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”

(Việt Bắc – Tố Hữu)

Quang Dũng là nhà thơ của lính, đã sống một đời lính oanh liệt hào hùng. Có lẽ chính vì vậy mà đời lính đã ăn sâu vào đời thơ. “Tây Tiến” là bài thơ của lính viết về lính nên khi đọc lên ta đã thấy ngay chất hào hùng bi tráng của những chàng trai “Thạch Sanh của thế kỷ XX”. Bài thơ được viết năm 1948 in trong tập “Mây đầu ô”.

Tố Hữu đến với thơ sớm hơn Quang Dũng, ông là nhà thơ của lý tưởng cộng sản, lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Mỗi thời kỳ lịch sử đi qua, Tố Hữu đều để lại dấu ấn riêng mang đậm hồn thơ trữ tình chính trị: Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa… Trong đó, “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng và thơ ca chống Pháp nói chung. Việt Bắc được viết trong cảm hứng về buổi chia tay lịch sử sau chiến thắng Điện Biên Phủ, cán bộ về xuôi, kẻ ở người đi.

Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập năm 1944 tại Tân Trào, Tuyên Quang do đồng chí Võ Nguyên Giáp lãnh đạo. Trải qua bao năm tháng đầy khó khăn, thiếu thốn, quân đội ta đã trưởng thành và lớn mạnh. Trong văn học, hình ảnh người lính cụ Hồ và quân đội nhân dân Việt Nam trở thành đề tài trung tâm, đối tượng phản ánh của các ngòi bút. Qua mỗi trang thơ văn khác nhau, hình ảnh ấy để lại bao nét vừa hài hòa vừa có những nét riêng, độc đáo, hấp dẫn.

Tây Tiến là một phân hiệu bộ đội được thành lập đầu năm 1947. Thành phần chủ yếu là thanh niên trí thức Hà Nội trong đó có Quang Dũng. Hơn ai hết, Quang Dũng là nhà thơ của lính, đã sống hết đời lính với Tây Tiến. Vậy nên bao khó khăn gian khổ, bao thiếu thốn, bao tự hào đã dệt nên những vần thơ đẹp về lính:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Hai câu thơ mở đầu gợi lên vẻ đẹp bi tráng. Đầu tiên đó là cái bi thương gợi lên từ ngoại hình của người lính ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc, da dẻ xanh như màu lá. Đoàn quân trông thật kì dị. Hai câu thơ có hai cách hiểu khác nhau. Cách hiểu thứ nhất: Sở dĩ người lính Tây Tiến đầu trọc da xanh là do hậu quả của những tháng ngày hành quân vất vả vì đói và khát, là dấu ấn của những trận sốt rét ác tính làm tóc rụng không mọc lại được, da dẻ thì héo úa như tàu lá. Những cơn sốt rét rừng ác tính ấy không chỉ có trong thơ Quang Dũng mà còn để lại dấu ấn đau thương trong thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung:

Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vừng trán đẫm mồ hôi

(Đồng chí - Chính Hữu)

Cuộc đời gió bụi pha xương máu

Đói rét bao lần xé thịt da

Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh

Đâu còn tươi nữa những ngày hoa!

Lòng tôi xao xuyến tình thương xót

Muốn viết bài thơ thấm lệ nhoà

Tặng những anh tôi từng rỏ máu

Đem thân xơ xác giữ sơn hà

(Lên Cấm Sơn – Thôi Hữu)

Cách hiểu thứ hai: Đó là hình ảnh bộ đội ta cạo trọc đầu để dễ dàng trong sinh hoạt và đánh giáp lá cà. Thời kháng Pháp những anh lính như vậy còn gọi là anh “Vệ túm”, “Vệ trọc”. “Quân xanh màu lá” là trang phục màu xanh áo lính, màu xanh của lá ngụy trang, màu của núi rừng. Hai cách hiểu ấy, hiểu theo cách thứ nhất là hay nhất, ấn tượng nhất và chính xác nhất.

Bên cạnh cái bi ta còn thấy cái hào hùng: thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa ngoại hình ốm yếu và tâm hồn bên trong đã làm nên khí chất mạnh mẽ trong tư thế của người lính: “Đoàn binh không mọc tóc”. Câu thơ tả cái ngang tàng của người lính, lại như có nét đùa vui, hóm hỉnh: không cần tóc mọc. Lại có thêm “Quân xanh màu lá”, tương phản với “dữ oai hùm”. Cách nói ấy cho thấy những người lính Tây Tiến rất lạc quan, yêu đời, coi thường gian khổ. Hãy nhìn kỹ ta sẽ thấy ở họ: nước da xanh và đầu không mọc tóc vì sốt rét rừng, thế mà họ vẫn quắc thước hiên ngang, xung trận đánh giáp lá cà “dữ oai hùm” làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía. Mặt khác cái hào hùng còn hiện lên qua cách dùng từ Hán Việt “Đoàn binh”. Chữ “đoàn binh” chứ không phải là đoàn quân đã gợi lên được sự mạnh mẽ lạ thường của sự hùng dũng, trong đó có dáng dấp của “Quân đi điệp điệp trùng trùng”, của“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” (Sức mạnh ba quân nuốt trôi trâu) trong thơ Phạm Ngũ Lão. Ba từ “dữ oai hùm” gợi lên dáng vẻ oai phong lẫm liệt. Qua đó ta thấy người lính Tây Tiến vẫn mạnh mẽ làm chủ tình hình, làm chủ núi rừng, chế ngự mọi khắc nghiệt xung quanh, đạp bằng mọi gian khổ.

Bên cạnh chất bi hùng, đoạn thơ còn để lại dấu ấn lãng mạn của những chàng trai Hà Nội mang tâm hồn hào hoa:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Hai chữ “mắt trừng” gợi nhiều liên tưởng: “mắt trừng” là mắt mở to nhìn thẳng về phía kẻ thù với chí khí mạnh mẽ thề sống chết với kẻ thù. Nhưng đôi mắt trừng ấy còn “gửi mộng qua biên giới” là đôi mắt có tình, đôi mắt thao thức nhớ về quê hương Hà Nội về một dáng kiều thơm trong mộng trong mơ. Với ý nghĩa ấy ta thấy, người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động, nhớ nhung về vẻ đẹp của Hà Nội: đó có thể là phố cũ, trường xưa, những con đường mùa thu thơm lừng hoa sữa… hay chính xác hơn là nhớ về một “dáng kiều thơm”, bóng dáng của những người bạn gái Hà Nội, thanh lịch, yêu kiều, diễm lệ. Có một thời người ta hiểu rằng câu thơ này mang mộng tiểu tư sản quá nhiều làm giảm đi chất chiến đấu. Nhưng thời gian đã chứng minh rằng đó là một vẻ đẹp của tấm lòng luôn hướng về Tổ quốc, hướng về Thủ đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi nhưng lòng lúc nào cũng hướng về Hà Nội, về quê hương. Chính quê hương tăng thêm cho họ sức mạnh để đi “Lấy máu nó trả thù này”.

Thơ ca kháng chiến chống Pháp cũng đã khắc họa bao gương mặt nỗi nhớ như thế. Đó là nỗi nhớ ruộng đồng “Ba năm rồi gửi lại mái lều tranh/ Luống cày đất đỏ/ Tiếng mõ đêm trường/ Ít nhiều người vợ trẻ / Mòn chân trên cối gạo canh khuya” (Hồng Nguyên). Đó là nỗi nhớ “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Mỗi gương mặt nỗi nhớ ấy là lính nông dân hay lính thành thị thì nỗi nhớ ấy cũng là nỗi nhớ của những tâm hồn luôn hướng về đất nước, tổ quốc, quê hương. Vì thế càng khó khăn gian khổ, càng hi sinh mất mát, họ càng quyết tâm:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Ra đi chiến đấu là “đầu không ngoảnh lại”, là “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” nên “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Vì nợ nam nhi thời loạn là nợ nước thù nhà. Thật cao đẹp thay lý tưởng sống trọn tình, trọn nghĩa ấy của người chiến binh.

Sáu câu thơ trong bài Tây Tiến là sáu câu thơ được viết bằng bút pháp sử thi và cảm hứng lãng mạn. Ngòi bút Quang Dũng thường hướng về những con người phi thường trong hoàn cảnh phi thường. Nhiều biện pháp nghệ thuật khác như: đối lập, tương phản, ẩn dụ… cũng được sử dụng một cách triệt để mang đến hình ảnh đoàn quân thời chống Pháp gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng.

Với Tố Hữu, nhà thơ trữ tình chính trị, thường lấy những sự kiện chính trị làm đề tài cho thơ. Cuộc chia tay giữa cán bộ, chiến sĩ với nhân dân Việt Bắc cũng trở thành đề tài của ông. Bài thơ “Việt Bắc” là cảm hứng từ cuộc chia tay ấy. Trong bài thơ Tố Hữu tự sự về những kỷ niệm với thiên nhiên và con người Việt Bắc. Những kỷ niệm ấy được diễn tả bằng những câu thơ mang đậm dấu ấn ca dao dân ca đậm đà tình nghĩa. Trong hồi ức đầy nghĩa tình ấy, nhà thơ không quên nhắc đến bức tranh ra trận đầy khí thế của quân và dân ta :

Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay

Đoạn thơ đãtập trung miêu tả cuộc khángchiến của dân tộc “Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận”. Đoạn thơ là những hình ảnh gợi ra ấn tượng chung về sức mạnh của dân tộc trong kháng chiến, là hình ảnh của những đoàn quân ra trận vô tận điệp trùng, là hình ảnh hùng vĩ của cuộc chiến tranh nhân dân từ hình ảnh những đoàn dân công, hình ảnh những đoàn xe cơ giới trên đường ra trận làm bừng sáng những đêm kháng chiến.

Trước hết đó là ấn tượng chung về sức mạnh tổng hợp của dân tộc ta trong kháng chiến qua hai câu thơ đầu:

Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Câu thơ đầu tiên vang lên rất đỗi tự hào. Đó là niềm tự hào về những con đường Việt Bắc. Hai chữ “của ta” vang lên khẳng khái, chắc nịch, hùng hồn. Khi tác giả nói “Những đường Việt Bắc” đó là những con đường vừa rất thực như tác giả từng viết:

Ta đi giữa ban ngày

Trên đường cái, ung dung ta bước.

Đường ta rộng thênh thang tám thước

Đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên

Đường qua Tây Bắc, đường lên Điện Biên

Đường cách mạng, dài theo kháng chiến…

Đến hôm nay đường xuôi về biển

Mới tinh khôi màu đất đỏ tươi

Đẹp vô cùng, Tổ quốc ta ơi!

Đó là những con đường mở ra cùng với chiến thắng của quân dân ta, nhưng cũng là con đường đầy ý nghĩa tượng trưng khái quát cả một quá trình đi lên của kháng chiến và cách mạng. Con đường ấy đang mở tới chiến công.

Con đường đầy lửa máu ấy đã trở thành con đường chiến thắng trong Việt Bắc. Vì thế ấn tượng chung về sức mạnh của dân tộc đã gắn liền với ấn tượng về con đường chiến thắng này, một con đường “Đêm đêm rầm rập như là đất rung”. Đó chính là sức mạnh của quân và dân ta, sức mạnh đã được đo bằng thước đo sông núi. Đọc câu thơ ta đã thấy ngay âm hưởng hết sức hùng tráng của bài ca kháng chiến vang lên từ những điệp từ “đêm đêm”, từ láy “rầm rập”. Và từ gợi tả hình ảnh “đất rung”. Những từ ấy đều là những từ được cấu tạo bởi phụ âm nổ (đ – “đêm đêm”), những phụ âm rung (r – “rầm rập”). Tất cả đã tạo nên bức tranh tổng hợp của sức mạnh Việt Nam “Nước Việt Nam từ trong biển máu/ Người vươn lên như những thiên thần”.

Hình ảnh một Việt Bắc trong những năm tháng hào hùng bỗng trở nên rực sáng và hùng vĩ bởi hình ảnh của những đoàn quân ra trận. Đó là sức mạnh của quân đội nhân dân Việt Nam:

“Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”.

Còn nhớ ngày 22 tháng 12 năm 1944, tại cây đa Tân Trào, đồng chí Võ Nguyên Giáp làm lễ xuất quân cho đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Khi đó quân đội ta mới chỉ 34 người. Đến thời điểm Điện Biên Phủ quân đội ta đã trưởng thành với “Quân đi điệp điệp trùng trùng”. Sự hùng tráng, sự mạnh mẽ của đoàn quân được thể hiện qua nghệ thuật điệp từ “điệp điệp”, “trùng trùng” tạo ấn tượng về một sự lớn mạnh khổng lồ của quân đội nhân dân Việt Nam có thể đương đầu đáp trả và đập tan mọi hành động gây hấn của kẻ thù. Đoàn quân nối dài trên những con đường Việt Bắc thật hùng vĩ đông đảo như trải dài vươn rộng khắp mọi nẻo đường Việt Bắc.

Hình ảnh đoàn quân ra trận đã được cảm hứng lãng mạn tạo nên tầm vóc vũ trụ bởi hình ảnh “ánh sao đầu súng”, một hình ảnh rất thực nhưng cũng rất lãng mạn. Đó là hình ảnh những người lính trong đêm hành quân. Đi dưới trời sao, ánh sao trời soi vào đầu súng thép ánh lên lấp lánh, cũng có thể hiểu là những ngôi sao trên mũ người chiến sĩ ánh lên dưới sao trời. Có lẽ vì vậy mà ta như thấy cả đất trời đang hành quân cùng người lính ra trận. Khẩu súng tượng trưng cho ý chí đánh giặc của người lính, chiếc mũ là cách nói hoán dụ để nói về người lính nhưng đồng thời lại để chỉ tầm vóc vươn tới sao trời của người lính. Quang Dũng cũng có cách nói tương tự “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”. Từ hình ảnh ấy Tố Hữu như dựng lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của những đoàn binh ra trận mà như một dải ngân hà lấp lánh cuồn cuộn đổ về phía tiền phương.

Trong bức tranh tổng hợp về sức mạnh của dân tộc ta trong kháng chiến, Tố Hữu đã khái quát thêm một sức mạnh. Đó là sức mạnh của đoàn dân công, những con người đã cùng quân đội ta làm nên trang sử vàng cho dân tộc:

“Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đã muôn tàn lửa bay”

Dân công là những người đi mở đường, xẻ núi, lăn bom… góp phần làm nên chiến thắng vẻ vang. Trong bài Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Tố Hữu từng viết về các anh chị dân công:

Mấy tầng mây, gió lớn mưa to

Dốc pha Đin, chị gánh anh thồ

Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát

Dù bom đạn, xương tan thịt nát

Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh.

Câu thơ không hề có một chữ “điệp điệp”, “trùng trùng” nào mà ta vẫn thấy sự điệp trùng ấy. Đó là cảm giác có được bởi cấu trúc hết sức độc đáo của câu thơ. Tác giả không viết “Từng đoàn dân công đỏ đuốc”, mà mở đầu câu thơ là hai chữ “dân công”, cuối câu thơ là hai chữ “từng đoàn”. Cấu trúc ấy gợi ra sự điệp trùng vô tận của những đoàn dân công. Ở đây là hình ảnh “Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”. Hình tượng bàn chân là hình tượng biểu trưng cho sức mạnh của con người gắn liền với những chặng đường đấu tranh cách mạng.

Với thể thơ lục bát, âm điệu hùng tráng, kết hợp với chất sử thi, lãng mạn. Sử dụng nhiều sự tương phản, đối lập, điệp từ, điệp ngữ, phóng đại, thậm xưng… Tất cả đã tạo nên một đoạn thơ giàu ấn tượng về không khí kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta hơn 60 năm về trước. Gấp trang sách lại mà không khí xuất trận ấy như vẫn còn đọng lại mãi trong tiềm thức của ta về những ngày gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng.

Qua việc phân tích ở trên ta thấy: Cả hai bài thơ đều viết trong thời chống Pháp. Đều sử dụng bút pháp sử thi, lãng mạn để miêu tả đoàn quân. Nhất là cảm hứng lãng mạn được hai nhà thơ khai thác triệt để. Người lính trong thơ Quang Dũng có cái đẹp vừa bi vừa hùng, có cái đẹp lãng mạn hào hoa mang chất lính tiểu tư sản không trộn lẫn. Tố Hữu chủ yếu miêu tả cái đẹp toàn thể, hướng tới số đông. Tầm vóc của câu thơ lãng mạn đẩy hình ảnh người lính chống Pháp sánh với sao trời. Từ hai đoạn thơ mà ta vừa phân tích, người lính hiện lên thật đẹp, thật hào hùng biết bao.

Nét riêng ở đây là, Quang Dũng viết bài thơ “Tây Tiến” trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Do đó, hình ảnh người lính hiện lên rất hiện thực với nhiều khó khăn gian khổ, đói cơm, đói áo, sốt rét đến xanh da trọc tóc. Nhưng không vì thế mà mất đi chất thép vốn có của lính. Dưới ngòi bút ấy, người lính cụ Hồ thật “dữ oai hùm” trong bộ dạng dị thường mà cũng rất đỗi mộng mơ đượm chất lính Hà Thành. Qua đó thấy hồn thơ Quang Dũng thiên về miêu tả cái phi thường trong hoàn cảnh phi thường. Bài thơ “Việt Bắc” thì được Tố Hữu viết sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Hồn thơ Tố Hữu là hồn thơ trữ tình chính trị nên thiên về ngợi ca, biểu dương nên hình ảnh thơ bay bổng, tự hào. Hình ảnh đoàn quân ra trận trong Việt Bắc vì thế mà mang tầm vóc lớn lao, kỳ vĩ của “Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận”.

Tóm lại, cùng biểu hiện hình ảnh những đoàn quân ra trận nhưng cảm hứng từ hai nhà thơ rất khác nhau. Chính vì vậy mà hình ảnh người lính thời chống Pháp hiện lên trong hai đoạn thơ vừa có điểm chung vừa có điểm riêng biệt mang đến cho người đọc những ấn tượng khó phai nhòa.

Có thể em quan tâm:Liên hệ và so sánh hai tác phẩm Việt Bắc và Từ Ấy

So sánh “Tây Tiến” và “Việt Bắc”: Vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận - Bài mẫu 1

Cùng tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận mỗi nhà thơ lại có cách khám phá và thể hiện riêng

Lịch sử ghi dấu ấn ở lại đời không chỉ trong kí ức, không chỉ trong những sử sách thiêng liêng mà còn ẩn hiện trong những áng thơ cách mạng mà “Tây Tiến” của Quang Dũng và “Việt Bắc” của Tố Hữu là những áng thơ điển hình. Nhưng ta không hề thấy một sự lặp lại sáo rỗng mà tìm được trong mỗi bài những nét đặc sắc riêng, những vẻ đẹp riêng. Như Quang Dũng viết trong Tây Tiến rằng:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm.”

Nhưng Tố Hữu lại viết:

“Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”.

Đối với Quang Dũng, Tây Tiến vừa là một miền nhớ, vừa là một miền thương. Ra đời khi tác giả đã trở về làng Phù Lưu Chanh, “Tây Tiến” là câu từ của nỗi nhớ, là kỉ niệm cùng anh em chiến sĩ nơi núi rừng miền Tây, chất chứa bao tình cảm của tác giả với những tháng ngày dài cùng nhau chiến đấu. Cho nên cả bài thơ thấm đẫm cảm xúc của nhà thơ chiến sĩ, là lời ca ngợi vẻ đẹp vừa hào hùng vừa hào hoa của người lính, cái chất lãng mạn của những thanh niên trai trẻ vừa rời khỏi ghế nhà trường đã anh dung xung phong đi chiến đấu:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Lời thơ vang lên như khúc sử thi ngàn năm xưa còn mãi. Giọng thơ ngang tàng, ngạo nghễ, khắc họa cái khổ, thử thách gian truân mà người lính phải gánh chịu. Những trận sốt rét rừng vàng da rụng tóc khiến họ trở nên kiệt quệ về thân xác nhưng không thể nào lấy đi ở họ sức mạnh của lòng quả cảm, sự lạc quan của anh bộ đội cụ Hồ. “Không mọc tóc” – cách diễn đạt vừa khắc họa đậm nét khí chất ngang tàng của người lính, vừa thể hiện tâm thế chủ động, lạc quan, vượt lên trên mọi gian khổ, thậm chí là kiểm soát nó. Lời thơ vì thế mà không mô tả khó khăn một cách tàn khốc, trần trụi, trái lại, hiện thực gian khổ ấy chỉ là cái nền để vẻ đẹp người lính lộ ra rõ nét. “Không mọc tóc” hay “xanh màu lá” chỉ là vẻ bề ngoài, còn sâu thẳm trong con người họ lúc này là sức mạnh của những binh tướng, sự mạnh mẽ oai hùng của chúa tể núi rừng. Những khó khăn chỉ là liều thuốc thử để họ vững bước hơn trước con đường gian nan sắp tới.

Gian khổ, khó khăn nhưng họ vẫn giữ trong mình những tình cảm, những bóng hình con gái thật đẹp. Bởi lẽ đó là những chàng trai đất thủ đô trẻ trung, vừa bước ra khỏi giảng đường đại học, cho nên họ mộng mơ và lãng mạn vô cùng. Họ gửi ước mộng của mình về miền biên giới xa xôi, cũng không quên ngước nhìn về Hà Nội với “mộng giai nhân” đẹp đẽ. Tác giá không dùng từ “nhớ”, bởi “nhớ” thiên về tâm trạng còn “mơ” lại là điệu cảm xúc của tâm hồn. Người lính hiện lên với những nét đa tình của tuổi trẻ, họ duyên dáng trong tính cách và lãng mạn trong tâm hồn. Đối lập với hiện thực và bệnh tật tàn khốc mà họ đang phải gánh chịu, họ vẫn lạc quan để mơ về những mộng tưởng đẹp đẽ. Có lẽ điều ấy lại trở thành nguồn động lực để họ vượt qua gian khổ, nét hào hoa ấy chắp cánh trong sự hào hùng của chính họ trên con đường hành quân ra mặt trận.

Vẫn là đoàn quân kháng chiến nhưng “Việt Bắc” của Tố Hữu lại đưa người đọc về xúc cảm mới lạ:

““Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”

Những câu thơ đưa ta về những ngày hành quân rõng rã của dân tộc ba nghìn ngày không nghỉ, đến nỗi “Bắp chân đầu gối đã săn gân”. Những từ láy “rầm rập, điệp điệp, trùng trùng” khắc họa khí thế hành quân hào hùng, mãnh liệt của đoàn quân Tây Bắc. Mọi ngả đường ra trận đều xuất hiện ánh sao lấp lánh trên mũ của anh bộ đội cụ Hồ. Nếu như ở đoạn thơ trên trong bài thơ “Tây Tiến”, ta gặp vẻ đẹp hòa hoa, lãng mạn, tinh thần lạc quan và vẻ phong tình của người lính thì đến đây, ta lại thấy hiện lên rõ nét tính cách anh hùng của một thời đại anh hùng. “Đêm đêm” – thời gian gợi ra sự bền bỉ, dẻo dai và quyết tâm thắng trận. Họ, những người lính kháng chiến năm xưa ấy thực sự đã dành trọn máu xương của mình để hi sinh cho lí tưởng cách mạng, để ánh sao trên mũ còn rực sáng mãi.

Như vậy, cả hai đoạn thơ đều là bức tranh về vẻ đẹp của người lính trong một giai đoạn lịch sử gian nan, đau thương mà hào hùng, thiêng liêng đến lạ. Họ là bức tượng đài sừng sững, là chứng nhân cho lịch sử của một thời đại anh hùng, là niềm tự hào cũng là niềm trân trọng của con người cho mọi thế hệ. Nhưng đúng như ai đó từng nói, mỗi nhà văn phải có cái giọng của riêng mình, cách khám phá và thể hiện vẻ đẹp người lính cũng rất khác nhau. Nếu như ta ấn tượng với vẻ đẹp vừa anh dũng, vừa hào hoa, đa tình và lãng mạn của người lính Tây Tiến hiện lên trong nỗi nhớ và niềm thương của thi nhân Quang Dũng thì đến với “Việt Bắc”, ngòi bút chí tình Tố Hữu lại làm hiện lên người lính với những phẩm chất anh hùng và tình nghĩa cách mạng thủy chung, son sắt. Những vẻ đẹp đó hòa quyện trong con người họ - những “Thạch Sanh của thế kỉ XX”.

Thơ ca là tiêu biểu cho cái đẹp và cái đẹp sẽ còn mãi với thời gian. Cho nên những áng thơ đậm đà tình nghĩa đó sẽ còn sống mãi trong tâm khảm của bao thế hệ cho dù quy luật thời gian có nghiệt ngã tới mức nào... Những người nghệ sĩ vì cái đẹp đó cũng sẽ sống mãi trong lòng độc giả hôm nay và mai sau.