Đánh giá các thể loại văn học trung đại

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
................................

NGUYỄN QUẾ KỲ
CHỨC NĂNG CỦA MỘT SỐ THỂ LOẠI CHÍNH VĂN HỌC TRUNG ĐẠI
VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

VINH-2009

2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1.Văn học trung đại Việt Nam là một loại hình văn học tồn tại và phát triển
trong thời trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX. Thời kì này chịu sự chi
phối sâu sắc của ý thức hệ tư tưởng, của văn học, mĩ học phong kiến và truyền
thống văn hoá các dân tộc Việt Nam. Văn học trung đại Việt Nam có một hệ thống
thi pháp riêng với nhiều thể loại kể cả thể loại nội sinh và ngoại nhập. Mỗi một thể
loại lại có chức năng riêng trong việc chuyển tải nội dung, tư tưởng, những vấn đề
nhân sinh thiết thực mà cuộc sống yêu cầu qua những hình thức nghệ thuật khác
nhau mang tính quan niệm. Vì vậy, luận văn này làm sáng rõ chức năng của một
số thể loại chính của văn học trung đại Việt Nam trong việc thể hiện “thiên chức”
của mình như: chức năng nhận thức, chức năng giáo dục, chức năng thẩm mĩ…,
theo tiên chỉ “văn dĩ tải đạo, thi ngôn chí” mà các nhà văn trung đại thường lấy
làm chuẩn mực.
1.2.Để thực hiện các chức năng rất đỗi thiêng liêng cao quý đó: tác động trực tiếp
đến tư tưởng, tình cảm, góp phần thanh lọc tâm hồn, di dưỡng tính tình, hoàn thiện
nhân cách, giúp con người “tự nhận thức” mà sống tốt hơn, đẹp hơn…thì mỗi một
thể loại lại có một số hình thức nhất định cho phù hợp với phẩm chất nghệ thuật,
tính chất giáo huấn tuyên truyền, có tính quan phương như: thể thơ, các biện pháp
tu từ, kết cấu, các hình thức mang tính quan niệm… Luận văn này làm sáng rõ các
hình thức mà các nhà văn, nhà thơ sử dụng để thực hiện các chức năng của mình ở
các phương diện: cái nhìn nghệ thuật, giọng điệu, sự tự biểu hiện
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng
Trong luận văn này, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là chức năng của một
số thể loại chính vận văn, tản văn trong văn học trung đại Việt Nam.

3

2.2. Phạm vi nghiên cứu
Do văn học trung đại Việt Nam có rất nhiều thể loại kể cả nội sinh và ngoại
nhập nên để cho tập trung, cho có chiều sâu nên ở luận văn này, chúng tôi chỉ
nghiên cứu chức năng của một số thể loại quan trọng như về thơ có: Thơ Đường
luật, truyện thơ; về tản văn có: truyện truyền kì, tiểu thuyết chương hồi, kí.
3. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài, chúng tôi nhằm thực hiện các mục đích sau:
- Tìm hiểu chức năng của một số thể loại văn học trung đại và các hình thức
thực hiện các chức năng đó.
- Từ chức năng thể loại đi vào thực hiện phân tích một số tác phẩm theo đặc
trưng thể loại để có cái nhìn toàn vẹn, thấu đáo bản chất của vấn đề, hiện thực đời
sống, thế giới tinh thần của nhà văn. Và qua đó, thấy đước cá tính sáng tạo, hình
thức nghệ thuật mà nhà văn thể hiện qua tác phẩm.
4. Lịch sử vấn đề
Việc phân chia các thể loại văn học trung đại Việt Nam, trong đó có chức năng
của từng thể loại đã được nhiều tác giả nói đến trực tiếp hoặc gián tiếp trong nhiều
công trình nghiên cứu khoa học. Công trình đầu tiên là Việt âm thi tập do Phan Phu
Tiên thực hiện gồm 624 tác phẩm. Đây là công trình sử biên, trong đó có các bài tựa
có tính chất là phê bình, nghiên cứu. Tiếp theo là công trình Tinh tuyển chi gia luật
thi do Dương Đức Nhan thực hiện, tập hợp 427 bài thơ của 13 tác giả đời Trần, Hồ
và Lê sơ. Công trình thứ ba là Trích diễm thi tập do Hoàng Đức Lương thực hiện,
tập hợp 427 bài thơ. Ý thức phân loại thơ đã thể hiện rõ. Bùi Huy Bích có công
trình Hoàng Việt văn tuyển gồm 8 quyển, tổng cộng 112 tác phẩm, chia theo các thể
loại kí,chế sách, tản văn, công văn phú, văn tế, minh, chiếu, biểu…

4

Lê Quý Đôn ở thiên văn nghệ chí trong Lê triều thông sử chia tác phẩm ra
thành 4 loại: hiến chương (16 loại ), Thi văn (66 tác phẩm ), Truyện kí (19 tác
phẩm), Phương kĩ (14 tác phẩm ).
Phan Kế Bính trong Việt Hán văn khảo viết: “Văn chương có nhiều thể cách,
mỗi thể cách có lối đặt câu riêng, nhưng đại khái thì nên chia hai lối là lối có vần và
lối không có vần. Lối có vần như là thơ, phú, minh, tán, ca, ngâm khúc điệu…Lối
không có vần như là kinh nghĩa, văn sách, luận, kí, tứ lục tiểu đối…” [9, tr. 6]. Quan
niệm này mang tính khoa học và hệ thống.
Năm 1932, Bùi Kỉ trong Quốc văn cụ thể có giới thiệu các thể loại theo tên gọi
của người xưa: Lục bát, song thất lục bát, hát xẩm, hát nói, mưỡu, thơ cổ phong,
Đường luật, minh, trâm, tán, từ khúc, phú, văn tế, chiếu, biểu, cáo, hịch, trướng,
kinh nghĩa,văn sách, tựa, truyện, kí, bia, luận, chèo, tuồng.
Năm 1943, trong Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm đề cập đến việc
phân loại thể loại.Tác giả đã phân biệt “các thể văn mượn của tàu và các thể văn
mượn của ta”. Những thể mượn của tàu được chia làm hai loại : Vận văn (Văn có
vần: Thơ, phú, văn tế ); biền văn (Văn không có vần mà có đối : câu đối tứ lục, kinh
nghĩa). Các lối văn xuôi của Tàu: tự, bạt, truyện, kí, bi, luận. Những thể riêng của
ta: lục bát, song thất và các biến thể của hai lối ấy.
Nguyễn Huệ Chi trong Khảo luận văn bản thơ văn Lí-Trần, căn cứ vào những
đặc điểm và phương thức biểu hiện của tác phẩm, chia thành 5 loại với 15 thể: Thơ
ca gồm: thơ sấm vĩ, thơ suy lí, thơ trữ tình, thơ tự sự; Biền văn gồm: phú, hịch, cáo,
chiếu, chế, biểu, tấu; Tản văn gồm: văn bình luận, văn thư tín, văn ngữ lục; Tạp
văn: luận thuyết tôn giáo; Truyện kể: truyện, sử, bi, kí.
Công trình Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Trần Đình Sử đi
theo hướng thể loại với các nhóm: Nhóm 1: Các thể thơ trữ tình, Nhóm 2: Phú và
các thể văn; Nhóm 3: Thể loại truyện chữ Hán. Ở phần thơ trữ tình, tác giả viết :

5

“Phần lớn thơ làm trong các dịp tiễn tặng, hoạ thơ người khác, đề thơ kỉ niệm, tức
cảnh, tức sự, thư sự…Khi muốn bộ lộ nỗi lòng thì họ gọi là Ngôn hoài, Thuật
hoài…” [tr 170 ] . Hay trong thể phú, tác giả cũng đề cập đến chức năng của thể
này: Tính nội dung của thể phú thể hiện ở cách sử dụng. Tính chất chung của phú là
ca ngợi. Có hai loại phú – phúng gián và tỏ chí. [tr. 267].
Cuốn: Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc
Phi chủ biên đề cập đến các thể loại cả văn học trung đại và văn học hiện đại (riêng
một số thể loại không có như: truyện truyền kì). Chẳng hạn, khi đề cập đến thơ trữ
tình, tác giả viết: “Là tiếng hát của tâm hồn, thơ trữ tình có khả năng thể hiện những
biểu hiện phức tạp của thế giới nội tâm, từ những cung bậc tình cảm cho tới những
chính kiến, những tư tưởng triết học” [tr 269].
Công trình: Vấn đề phân loại thể loại văn học Việt Nam trung đại, tác giả Biện
Minh Điền khẳng định: “Vậy là, nhìn vào hệ thống thể loại, có thể khu biệt từng
giai đoạn, từng thời kì văn học và có thể nhận diện từng loại hình văn học. Chính vì
thế, hướng theo thể loại là xu thế chủ đạo trong sáng tác, nghiên cứu, phê bình và
giảng dạy văn học hiện nay không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước trên thế
giới” [6]. Cũng theo tác giả: phương án phân loại là cơ sở để đi sâu tìm hiểu, nghiên
cứu các thể loại trong văn học Việt Nam trung đại. Có ba phương diện cần khảo sát:
nội dung, chức năng và thi pháp của thể loại.
Cuốn: Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại những vấn đề văn xuôi tự sự,
Nguyễn Đăng Na khẳng định: “Văn xuôi tự sự là một bộ phận hữu cơ không tách
rời quá trình phát triển của văn học Việt Nam. Song, với tư cách là một loại hình
nghệ thuật, văn xuôi tự sự có những đặc trưng và quy luật diễn tiến riêng. Qua ba
chặng đường lịch sử với chiều dài mười thế kỉ (X – XIX) và ba xu hướng phát triển,
cùng với các loại hình thể loại văn học khác, văn xuôi tự sự đã hoàn thành sứ mệnh
lịch sử mà thời đại giao phó: phản ánh đời sống tâm linh của người Việt Nam thời

6

trung đại. Để hoàn thành nhiệm vụ của mình, các tác gia văn xuôi tự sự không
ngừng tìm tòi, kế thừa và đổi mới cả nội dung lẫn hình thức tác phẩm đặng từ đó
dần dần tự hoàn chỉnh cả ba hình thức tự sự: truyện ngắn, kí và tiểu thuyết ch ương
hồi” [39].
Chuyên đề: Văn chính luận Việt Nam thời trung đại, tác giả Phạm Tuấn Vũ nói
khá rõ các chức năng của các thể: cáo, chiếu, hịch…Công trình này đã gợi ý cho
chúng tôi tiếp tục nghiên cứu các chức năng của một số thể loại quan trọng của văn
học trung đại Việt Nam.
5. Đóng góp của luận văn
Qua luận văn, chúng tôi hi vọng sẽ tìm hiểu sâu hơn chức năng của một số thể
loại quan trọng được học trong chương trình phổ thông và phương thức thể hiện
chúng, cá tính sáng tạo của tác giả. Từ đó hình thành cho độc giả kĩ năng, cách đọc
tác phẩm theo đặc trưng thể loại, cụ thể cách đọc thơ Đường luật, truyện thơ, truyện
truyền kì, tiểu thuyết chương hồi, kí.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích, so sánh
- Phương pháp tổng hợp khái quát
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần “Mở đầu”, phần “Kết luận” và mục “Tài liệu tham khảo”, nội
dung chính của luận văn gồm ba chương:
Chương 1. Một số vấn đề thể loại văn học của văn học trung đại Việt Nam và
các chức năng của nó
Chương 2. Chức năng của một số thể loại vận văn
Chương 3. Chức năng của một số thể loại tản văn

7

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỂ LOẠI CỦA VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM VÀ
CÁC CHỨC NĂNG CỦA NÓ
1.1. Một số đặc điểm về chức năng của văn học trung đại Việt Nam
1.1.1. Văn học trung đại Việt Nam
Văn học trung đại Việt Nam chỉ một loại hình văn học tồn tại và phát triển
trong thời trung đại ở Việt Nam (từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX). Đây là văn học của
thời kì gắn với chế độ phong kiến. Tuy nhiên chú ý thời trung đại của từng thời kì,
từng khu vực, từng quốc gia có sự khác nhau. Theo B.L. Rip tin: văn học trung đại
nhiều điều chưa xác định. Tuy nhiên những cơ sở vững chắc của khái niệm này
không thể phủ nhận vì tính chất loại hình.
Văn học trung đại Việt Nam chịu sự chi phối sâu sắc của ý thức hệ tư tưởng,
của mĩ học phong kiến, tiếp thu tinh hoa của văn học dân gian. Điều này là tất yếu
bởi vì văn học luôn vận động, theo sát, phục vụ cuộc sống. Các nhà văn trung đại
trong quá trình sáng tác thường chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng “trung quân ái
quốc”. Quan niệm phong kiến chính thống cho rằng: nước với vua là một. Nguyễn
Trãi, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Đình Chiểu…đã trực tiếp hoặc gián tiếp bày tỏ quan
niệm này. Là một người có tri thức uyên thâm, từng đỗ đầu ba kì thi, luôn cháy
bỏng một khát vọng “trí quân trạch dân”, từng làm quan nhưng do hoàn cảnh đất
nước ta bị thực dân Pháp xâm lược nên Nguyễn Khuyến đã cáo quan về ở ẩn. Ông
từng dặn con cháu: “Trầm tư ty lạp quân ân trọng” (Suy nghĩ cho kĩ thì ơn của vua
dù bé nhỏ như sợi tơ hạt tóc vẫn là nặng; ông tự nói về mình: “Quân ân vị báo đầu
tiên bạch” (ơn vua chưa trả được mà đầu đã bạc). Đến cuối đời, nhà nho Yên Đổ
vẫn canh cánh trong lòng tâm sự u uất, day dứt, thẹn thùng, ân hận :
Ơn vua chưa chút báo đền
Cúi trông thẹn đất, ngửa lên thẹn trời.

8

Nguyễn Đình Chiểu thì từng ước có một vị vua anh minh, tập hợp sức mạnh
nhân dân đánh tan, quét sạch quân xâm lược:
Chừng nào thánh đế ân soi thấu
Một trận mưa nhuần rửa núi sông
(Xúc cảnh)
Khi đất nước có ngoại xâm thì văn học là một vũ khí sắc bén, vô cùng lợi hại,
cổ vũ động viên tinh thần quân dân vùng lên giết giặc lập công. Trong thi phẩm Bảo
kính cảnh giới (số 5), Nguyễn Trãi viết:
Văn chương chép lấy đôi câu thánh
Sự nghiệp tua gìn phải đạo trung.
Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược,
Có nhân, có trí, có anh hùng.
Văn chương phải gắn với sự nghiệp, gắn nhiệm vụ làm văn với bổn phận làm
người. Văn chương phải gắn với hành động “Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược”,
phải gắn với phẩm chất “Có nhân, có trí, có anh hùng”. Muốn bảo vệ cuộc sống và
khẳng định giá trị con người thì trước hết phải bảo vệ Tổ quốc, khẳng định dân tộc,
bởi “nước mất thì nhà tan”. Văn chương phải chuyển tải được thông điệp thiêng
liêng, cao quý đó.
Lí Thường Kiệt từng dõng dạc khẳng định chủ quyền:
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời
Nghe thật hào sảng nhưng không kém phần xúc động, tự hào! Và tác giả đã nêu
cao quyết tâm, ý chí của cả toàn thể dân tộc, của con cháu Lạc Hồng:
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
(Bài thơ thần- Lí Thường Kiệt)

9

Quân địch khi nghe xong phải run sợ, mất tinh thần chiến đấu.
Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi, Hịch tướng sĩ văn của Trần Quốc
Tuấn…là một trong những áng văn có tính luận chiến rất rõ, có giá trị muôn đời bởi
tư tưởng nhân văn sâu sắc.
Khi đất nước sạch bóng quân thù thì yêu nước là dốc toàn trí, toàn lực để xây
dựng đất nước hùng cường, no ấm, mấu mực theo xã hội Nghiêu, Thuấn ở Trung
Quốc. Yêu nước còn là phê phán những hủ lậu, những điều trái tai gai mắt, đi
ngược lại với đạo đức, lợi ích, truyền thống dân tộc. Đó là phê phán cảnh ăn chơi sa
đoạ trong phủ chúa Trịnh (trong tác phẩm Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác và
nhiều tác phẩm khác), là bọn quan lại “rỗng tuếch về trí tuệ”, “hữu danh vô thực”,
trong thời buổi hỗn loạn không làm được việc gì cho dân cho nước. Nguyễn
Khuyến gọi chúng là những ông “Phỗng đá”:
Đêm ngày gìn giữ cho ai đó,
Non nước đầy vơi có biết không?
(Ông Phỗng đá- Nguyễn Khuyến)
Văn học trung đại Việt Nam còn kế thừa truyền thống nhân đạo. Đó sự đồng
cảm, sẻ chia trong hoạn nạn cuộc đời, thông cảm cho những số phận bất hạnh, đặc
biệt là nhũng người phụ nữ phải sống trong xã hội nam quyền độc đoán, đầy rẫy
những hủ tục, bất công, những định kiến hẹp hòi, phi lí. Vũ Nương trong Người con
gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, Thuý Kiều, Đạm Tiên trong Truyện Kiều, những
người vợ có chồng đi chinh chiến biền biệt trong “ Chinh phụ ngâm khúc” của
Đặng Trần Côn, những người phụ nữ sống trong u sầu, tủi nhục trong cung Tần, phủ
Chúa “giết nhau bằng cái u sầu độc chưa?”, là số phận của những người vợ lẽ,
những người phụ nữ không chồng mà chửa trong thơ Hồ Xuân Hương…Mỗi người
có nỗi niềm tâm sự riêng, nỗi khổ riêng nhưng trong tận cùng oan trái, khổ đau, họ
vẫn ngời lên vẻ đẹp nhân cách của lòng vị tha, hiếu thảo, đức hi sinh…Và qua đó,

10

các tác giả trung đại bày tỏ những khát vọng giải phóng con người khỏi áp bức đau
khổ. Đó là khát vọng về tình yêu tự do như qua câu chuyện tình yêu giữa Thuý Kiều
và Kim Trọng trong truyện Kiều; Phạm Kim và Quỳnh Thư trong Sơ kính tân trang
của Phạm Thái... Như chúng ta biết, sống trong xã hội phong kiến, hôn nhân xuất
phát từ tình yêu tự do là điều không tưởng. Hôn nhân phải môn đăng hộ đối, cha mẹ
đặt đâu con ngồi đấy, người phụ nữ luôn bị động, phải lệ thuộc, không có quyền
quyết định hạnh phúc đời người. Nguyễn Du đã gióng lên tiếng nói nhân bản, đầy ý
nghĩa, phải trả lại đúng nghĩa, đích thực của những cuộc hôn nhân: sự đam mê
mãnh liệt, có sự bí ẩn, đầy sáng tạo, hôn nhân phải xuất phát từ tình yêu tự do…Bên
cạnh đó, Nguyễn Du qua nhân vật Từ Hải còn bày tỏ về khát vọng công lí. Đây là
vấn đề muôn thuở mà xã hội nào cũng hướng tới.
Văn học trung đại Việt Nam cũng dành một phần lớn để tố cáo những thế lực
hắc ám đã chà đạp con người, gieo rắc nhiều đau khổ, đẩy họ vào bước đường cùng.
Thế lực này khá đông đảo từ tầng lớp vua quan như Hồ Tôn Hiến đến bọn lưu manh
như tên sở Khanh, bọn đầu trâu, mặt ngựa ào ào như sôi, những tên buôn thịt bán
người sống bằng nghề nhơ nhớp như Bạc Bà, Bạc Hạnh trong truyện Kiều. Chà đạp
Thuý Kiều là cả một xã hội. Cũng chính chế độ nam quyền độc đoán đã giết chết
người vợ hiện thục, nết na có “tư dung tốt đẹp” Vũ Thị Nương trong Người con gái
Nam Xương của Nguyễn Dữ. Bất nhân, vô liêm sỉ như Trọng Quỳ thua bạc, gán vợ,
khiến vợ tự tử gây ra bao xót xa, bức xúc cho người đọc mọi thế hệ …Chủ nghĩa
nhân đạo trong văn học trung đại Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng từ bi
bác ái của đạo Phật, tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo.
Văn học trung đại Việt Nam đã kế thừa sự thông minh dí dỏm, sự lạc quan,
luôn tin tưởng vào tương lai dù trong sự khốn khó nhất, bi đát nhất của văn học dân
gian. Xã hội còn nhiều điều bất cập, chà đạp nhân phẩm con người, gây cho họ bao
đau khổ. Trong thơ văn của các tác giả trung đại, đặc biệt là trong thơ Hồ Xuân

11

Hương, chúng ta vẫn thấy những nụ cười tươi rói nhưng không kém phần cay độc,
sự quấy đạp, muốn bứt tung, muốn vươn mình ra khỏi ao đời mờ nhạt, để khẳng
định mình, khẳng định bản ngã.
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
(Bánh trôi nước- Hồ Xuân Hương ).
Viết về chiếc bánh trôi nước nhưng thực ra là tác giả đang viết về giới mình.
Người phụ nữ vừa đẹp người lại đẹp nết, đáng lẽ phải được trân trọng, thương yêu
hết mực nhưng sống trong xã hội phong kiến, họ bị xúc phạm thậm tệ, họ chịu “kiếp
ốc nhồi”. Dù trải qua phong ba bão táp cuộc đời, họ vẫn luôn “giữ tấm lòng son”,
chung thuỷ, đằm thắm trong tình cảm. Lí Thông trong truyện thơ Thạch Sanh, gian
ác thâm hiểm nên bị trừng trị đích đáng, ngược lại Chàng Thạch Sanh dũng cảm,
hào hiệp, nhân hậu, cuối cùng có cuộc sống hạnh phúc được làm vua, lấy công
chúa. Từ Thức trong Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên, trích Truyền kì mạn lục “cao
nghĩa sẵn lòng cứu giúp sự nguy khốn cho người”, cởi tấm áo cừu gấm trắng, đưa
vào tăng phòng để chuộc lỗi cho Giáng Hương vì làm cành hoa bị gãy. Chàng vốn
thích cuộc sống tự do, hoà hợp với thiên nhiên, coi thường danh lợi: “ta không thể
vì số lượng năm đấu gạo đỏ mà buộc mình trong áng lợi danh. Âu là một mái chèo
về, nước biếc non xanh vốn chẳng phải phụ ta vậy”. Có âm đức tất có dương báo,
chàng lấy vợ tiên và sống trong tột đỉnh của giàu sang. Nhưng chàng vốn là người
rất nặng lòng với quê hương nên đã từ bỏ cuộc sống vinh hoa phú quý, thần tiên về
với cuộc sống đời thường… Chắc chắn khi sáng tác, các tác giả trung đại đã chịu
ảnh hưởng từ văn học dân gian, cụ thể là từ truyện cổ tích: ở hiền gặp lành, ác giả ác
báo…

12

Đặc điểm thứ hai của văn học trung đại Việt Nam, đó là thời kì dài văn học
được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm. Lúc đầu do chưa có chữ viết, lại chịu ách đô
hộ, thống trị, đồng hoá rất thâm độc của bọn phong kiến phương Bắc nên cha ông
chúng ta phải mượn văn tự Hán để gửi gắm tiếng lòng cũng như chuyển tải những
thông điệp, những chân lí cuộc sống qua thơ văn. Nhưng với tinh thần dân tộc, với
truyền thống kế thừa nhưng có chọn lọc và không ngừng sáng tạo cho phù hợp với
tâm hồn, tính cách dân tộc, hiện thực Việt Nam, cha ông ta đã sáng tạo chữ Nôm
trên cơ sở chữ Hán để ghi âm tiếng Việt. Hồ Xuân Hương, Nguyễn Trãi, Nguyễn
Du, Nguyễn Khuyến…là một trong những người thành công khi sử dụng chữ Nôm
để sáng tác. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương được Xuân Diệu mệnh danh là bà chúa thơ
Nôm. Nguyễn Trãi có tập thơ được xem là bông hoa nghệ thuật đầy cách tân cả ở
phương diện nội dung và nghệ thuật Quốc âm thi tập. Truyện Kiều của đại thi hào
đân tộc Nguyễn Du cũng được viết bằng chữ Nôm…Điều dễ nhận thấy là các tác
giả văn học trung đại Việt Nam đã có sự cách tân khi sử dụng thể thơ, đặc biệt là
việc sử dụng ngôn ngữ đời thường, thuần Việt với các thành ngữ, tục ngữ…rất gần
gũi và phù hợp với tâm lí, tư tưởng, trình độ tiếp nhân của độc giả lúc bấy giờ.
Trong bài Mời trầu của Xuân Hương có những câu thơ nghe thật nhẹ nhàng, tự
nhiên nhưng đầy lắng đọng, có sức thẩm thấu, ngân rung:
Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi
Nữ sĩ đã lấy những hình ảnh rất quen thuộc mà bất cứ người bình dân nào cũng
biết: quả cau, miếng trầu. Đến câu thứ hai với ba từ liên tiếp: “Này”, “Xuân
Hương”, “quệt”… đã thể hiện tài năng, cá tính cũng như bản lĩnh của một con
người luôn có tư tưởng chống lại số phận, những cái giả dối, trơ trẽn trái với lẽ tự

13

nhiên và của lòng người đồng thời luôn khao khát một tình yêu tròn đầy, viên mãn.
Từ “này” là đại từ chỉ thị mang tính xác định. “Này” nói rõ miếng trầu của Hồ Xuân
Hương. Nó có hai nghĩa: chỉ thái độ suồng sã, thân mật; đồng thời chỉ bản lĩnh
bướng bỉnh, có ý thức về bản thân mình. “Xuân Hương” là một cách xưng hô bạo
dạn. Trong văn học trung đại, cách xưng hô của chị em là dùng đại từ phiếm chỉ:
em, thiếp, tôi…không mấy ai xưng tên. Nghe rất tội nghiệp! Nhưng với Xuân
Hương có lẽ là bà là người phụ nữ duy nhất dám xưng tên mình vào trong thơ. Điều
đó chỉ rõ bản lĩnh của nữ sĩ như là một lời thách đố đối với xã hội nam quyền, thể
hiện thái độ của một con người có ý thức, có bản lĩnh. Can đảm vô cùng! “Quệt” là
một động từ cũng giống như bôi nhưng hành động này dứt khoát. Mới quệt chỉ sự
tươi nguyên, tinh khôi của miếng trầu. Lời mời trầu của Xuân Hương vừa tự nhiên,
vừa khiêm tốn, tha thiết nhưng vẫn thể hiện sự chủ động, sự ý thức của bản thân
mình.
Đặc điểm quan trọng nhất của văn học trung đại Việt Nam là văn học thời kì
này có một hệ thống thi pháp riêng: có thi pháp tác giả, thi pháp tác phẩm…Hệ
thống thi pháp này thể hiện trên nhiều phương diện như quan niệm văn học. Khái
niệm về văn học thời xưa được hiểu một cách không thống nhất. Có cách hiểu rất
rộng, văn học bao gồm tất cả những thứ viết trên lụa và trên giấy. Nhưng có quan
niệm rất hẹp, văn học chỉ bao gồm ba thể loại: Thơ, tiểu thuyết và những tác phẩm
du hí. Có quan niệm khác với hai quan niệm này: ngoài thơ, tiểu thuyết, du hí, văn
học còn có cáo, chiếu, biểu hịch. Bởi vậy, quan điểm văn chương thời trung đại
không có sự phân biệt giữa văn, sử, triết. Người ta gọi “văn sử triết bất phân”. Đời
trước khi cầm bút để chép sử hay luận về triết học, người ta có ý thức làm rõ của
một công trình khoa học. Ai cầm bút cũng luôn vươn tới ý đẹp, lời hay mang nét
thẩm mĩ. Vì vậy, đó là những tác phẩm mang tính thẩm mĩ. Văn học coi trọng cái
luân lí. Những loại được coi trọng nhất là đạo đức, triết học, luân lí. Những cuốn

14

tiểu thuyết bị xem thường. Nhà văn cảm thụ thế giới và cảm hứng thế giới không
phải như một khách thể độc lập mà là có sự giao cảm giữa thi sĩ với thiên nhiên và
thế giới. Điều này nó xuất phát từ quan niệm “thiên nhân tương cảm”, trời người
cảm ứng với nhau. Trong văn chương thường có bút pháp tượng trưng, ước lệ.
Chẳng hạn tùng, cúc, trúc, mai tượng trưng cho người quân tử. Các tác giả trung đại
khi sáng tác thông qua một hệ thống ước lệ rất chặt chẽ và phức tạp với ba tính chất
cơ bản sau. Thứ nhất là tính chất uyên bác và cách điệu hoá cao độ. Uyên bác thể
hiện văn chương đầy những điển tích, điển cố. Cách điệu hoá cao độ được nhà văn
tạo ra một thế giới nghệ thuật mang cốt cách cao sang không tầm thường. Thứ hai,
tính chất sùng cổ. Cái gì càng xa xưa là chân lí, đạo lí. Thứ ba, tính phi ngã, không
cá thể hoá, có khuynh hướng hoà cái tôi vào trong cái ta. Cái tôi cá nhân, cái tôi
trong sáng tạo nghệ thuật ít được chú trọng. Văn học trung đại hướng về thế đạo
nhân tâm. Từ Trần Nguyên Đán, Nguyễn Trãi, Cao Bá Quát, Nguyễn Đình Chiểu
đến Phùng Khắc Khoan đều nói đến chức năng công dụng của văn học. Điều này do
chịu ảnh hưởng sâu sắc quan niệm văn học của Trung Quốc. Trực tiếp là quan niệm
của Khổng-Mạnh, quan niệm Nho giáo. Khảo sát văn học Việt Nam Trung đại cả
sáng tác cũng như lí luận, chúng tôi nhận thấy: thế nào là đặc trưng của văn học hay
văn học là gì?, cha ông ta có bàn đến tuy rằng không nhiều. Ý kiến của Hoàng Đức
Lương: “văn chương là sắc đẹp cả ngoài sắc đẹp, là ngon ngoài cả vị ngon”. Phan
Kế Bính: Ta xem trong sách, nghe những lời nghị luận…tươi như hoa, đẹp như
gấm…gọi là văn chương của loài người. Theo ông văn là đẹp, chương là sáng. Văn
chương là bức tranh vẽ cái đẹp của tạo hoá. Phan Kế Bính chỉ ra khái quát ba yếu tố
cơ bản trong quan niệm văn chương là gì của các tác giả văn học Việt Nam trung
đại:
Văn chương là một bức tranh khách thể.
Văn chương là tư tưởng, tình cảm, là quan niệm của chủ thể.

15

Ngôn từ (lời nói) đòi hỏi phải sáng và đẹp.
Các tác giả trung đại thấy được việc sáng tạo văn học là việc luyện ý, câu, nhạc,
luôn đặt văn chương trong nhiều mối quan hệ với Tâm – Trí - Đạo -Tình - Cảnh -Sự
- Nhạc - Thể cách… Ngô Thì Nhậm thì phát biểu: Văn chương để giúp đời. Ông
cha ta thời trung đại nhấn mạnh chức năng xã hội học: cao cả, có quan hệ sâu sắc
thế đạo nhân tâm.
Tóm lại, văn chương để giáo hoá đạo lí, di dưỡng tính tình. Văn chương là
phương tiện để kí ngụ, cảm hoài, bộc lộ nỗi lòng. Văn chương là một vũ khí để giúp
đời, để bảo vệ thế nước tục dân. Ở phương diện này, chúng ta thấy mệnh đề trong
quan niệm của Nho giáo “văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí”.
Về quan niệm thẩm mĩ: cái đẹp bao giờ cũng gắn với cái đạo đức, gắn với cái
hữu ích, hữu dụng. Tiêu chuẩn về cái đẹp theo quan niệm của cha ông ta là cái đẹp
phải có sự cân đối, hài hoà. Cấu trúc câu từ, chương, cú pháp, vần, đối…trở thành
tiêu chí hàng đầu. Cái đẹp trong văn học trung đại thường được chưng cất rất công
phu. Từ ngữ được tinh luyện, cô đúc, hàm súc, ý tại ngôn ngoại, lời hữu hạn, ý vô
cùng, “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”, thường được gắn với các điển tích, điển cố.
Thiên nhiên làm chuẩn mực để đánh giá cái đẹp. Nguyễn Du khi miêu tả vẻ đẹp chị
em Thuý Kiều “mỗi người một vẻ” đều gắn với các hình ảnh như: hoa, mây, tuyết…
Điều này khác với văn học hiện đại nhất là trong thơ Xuân Diệu. Tác giả đã lấy con
người làm chuẩn mực của cái đẹp.
Tác giả văn học trung đại với nhiều tên gọi “Thi ông”, “Ngâm ông”, “Văn
nhân”, “Thi gia”, “Thi hào”… thường là đội ngũ tri thức, làm quan. Họ được học
sách vở thánh hiền, thông thạo kiến thức kinh điển, ngay từ nhỏ đã được tiếp xúc,
làm quen với nhiều hình thức thể cách của thi ca (thể, vần, đối, thanh…), lớn lên
qua thi cử càng được tôi luyện “nghệ thuật ngôn từ”, thường giỏi chữ Hán, chữ
Nôm và thấm nhuần tư tưởng Nho giáo, Đạo giáo nên trong quá trình sáng tác, họ

16

chịu ảnh hưởng của hệ ý thức luận này. “Nhìn từ góc độ ý thức hệ tư tưởng, văn
hoá, thấy có hai kiểu tác giả chủ yếu trong văn học trung đại Việt Nam: kiểu tác giả
Thiền gia (xuất hiện sớm nhất) và kiểu tác giả Nho gia” (PGS.TS. Biện Minh Điền Nghiên cứu văn học số 4-2005 ). Nhìn chung, cái tôi cá nhân, cá tính sáng tạo, cái
bản thể của nhà văn chưa được thể hiện đậm nét, chưa trở thành một xu thế chung.
Nói như thế không có nghĩa là cái tôi nhà thơ bị xoá nhoà nhưng nó khá mờ nhạt.
Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ…đã đóng dấu ấn
khó phai mờ trong lịch sử văn học dân tộc bởi tài năng, bản lĩnh, nhân cách cũng
như tư tưởng nhân văn sáng ngời. Hồ Xuân Hương đầy tự tin, nói thẳng, muốn quẫy
đạp, bứt tung, muốn vươn mình ra khỏi ao đời mờ nhạt, ra khỏi những định kiến phi
lí, hẹp hòi…để khẳng định mình, làm chủ số phận. Nữ sĩ đã để lại nhiều dư vị, dư
vang trong lòng bạn đọc bởi sự táo bạo, độc đáo hơn người, bởi tư tưởng rất hiện
đại. Nguyễn Du khi viết “máu chảy đầu ngòi bút”, thấu hiểu lẽ đời và tình người
nhưng tư tưởng còn chứa đầy mâu thuẫn, khi sáng tác ông còn bị ám ảnh, còn nặng
tư tưởng thiên mệnh “cái tài đi với cái tai một vần” nhưng mọi thế hệ người đọc
Việt Nam đều khâm phục tài năng, đức độ của ông. Truyện Kiều của ông rất thành
công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật: khắc học ngoại hình, tính cách, tâm lí
nhân vật ; xây dựng hai hệ thống nhân vật chính diện - phản diện với ý nghĩa phản
ánh mâu thuẫn xã hội đương thời; bút pháp tả cảnh ngụ tình. Tác phẩm còn là thành
tựu về ngôn ngữ thơ ca: phong phú, chính xác, đẹp đẽ và cũng chính Nguyễn Du đã
đưa thể thơ lục bát lên đỉnh cao và trở nên mẫu mực về thể loại.
Văn học trung đại Việt Nam chia làm bốn giai đoạn nhỏ. Dựa vào nội dung
cảm hứng, giáo sư Nguyễn Lộc chia như sau: Từ thế kỉ X-XIV. Đây là giai đoạn tập
trung vào nội dung dân tộc, nội dung yêu nước như Quốc tộ của nhà sư Đỗ Pháp
Thuận, Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn, thơ văn Lí Trần, văn học kháng Minh…xoay
quanh hào khí Đông A, những vấn đề nhân sinh. Từ thế kỉ XVI đến nửa đầu thế kỉ

17

XVIII, văn học tập trung vào nội dung xã hội, ý thức nhận thức về xã hội, cảm
hứng thế tục với Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ, Phùng Khắc Khoan… Cảm
hứng yêu nước phức tạp hơn. Nội dung cơ bản là phê phán hủ lậu, những tệ nạn xã
hội, giai cấp phong kiến đang suy tàn. Từ nửa sau thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX,
cảm hứng xã hội bao trùm. Văn học đặt ra vấn đề con người cá nhân với Chinh phụ
ngâm của Đặng Trần Côn, Truyền kì tân phả của Đoàn Thị Điểm, thơ Hồ Xuân
Hương, các tác phẩm của Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ…Con người lúc này đòi
hỏi phải được giải phóng, với những nhu cầu khát vọng sống của nó được đảm bảo,
nên trào lưu nhân đạo chủ nghĩa nổi lên rất đậm. Văn học giai đoạn nửa sau thế kỉ
XIX, vấn đề dân tộc, vấn đề giải phóng được đặt ra do nhu cầu của xã hội “Cuộc
thử lửa với phương Tây” . Giai đoạn này ngọn lửa yêu nước được khơi dậy. Nguyễn
Đình Chiểu là lá cơ đầu, có nhiều đóng góp nhất cho dòng văn chương yêu nước
chống Pháp nửa sau thể kỉ XIX.
1.1.2. Các thể loại văn học trung đại Việt Nam
Thể loại là nơi thể hiện rõ nhất đặc trưng loại hình văn học vì là nơi nhận ra
diện mạo, đường nét của một loại hình văn học. Loại (loại thể văn học) nhằm chỉ
quy luật loại hình của tác phẩm. “Đó là sự tổ chức, sự sắp xếp các tác phẩm có cùng
phương thức tiếp cận đối tượng nghệ thuật, có chung phương thức cấu trúc hình
tượng và chung phương thức cấu trúc lời văn vào thành từng loại hoặc từng
thể”(TS. Lê Văn Dương). Loại có tự sự, trữ tình, kịch. Quan niệm này có từ thời
Aristote.
Thể là khái niệm nhỏ hơn loại nằm trong loại hay còn gọi là thể loại. Thể loại
văn học là một hình thức tổ chức ngôn từ theo một dạng thức nhất định nào đó thể
hiện cảm xúc, những tư tưởng, tình cảm của con người trước một hiện tượng đời
sống.

18

Thể loại mang tính lịch sử bởi sự xuất hiện của các thể loại trong lịch sử văn
học của mỗi dân tộc được xác định bằng nhu cầu xã hội, bằng khả năng, bằng nhu
cầu hoạt động văn hoá. Tính lịch sử thể loại được biểu hiện trên các mặt. Mỗi thể
loại chỉ xuất hiện vào một giai đoạn phát triển nhất định của văn học. Sau đó, nó
biến đổi hoặc là được một thể loại mới bổ sung. Các Mác: Thần thoại là một thể loại
đi không trở lại. Chức năng của từng thể loại tương quan giữa các thể loại mỗi thời
kì khác nhau. Chức năng của thơ Đường luật trong văn học trung đại Việt Nam khác
với chức năng của thơ Đường luật trong văn học hiện đại Việt Nam. Do tư duy nghệ
thuật, trình độ tiếp nhận của từng thời kì là khác nhau. Tính lịch sử của thể loại còn
biểu hiện ở chỗ sự khác nhau của cùng một thể loại trong những thời kì lịch sử khác
nhau. Thể loại mang tính loại hình. Mỗi một thể loại thể hiện một giới hạn tiếp xúc
với đời sống, một cách tiếp cận, một trường quan sát, một quan niệm đối với đời
sống. Mỗi thể loại qui định một cách giao tiếp với người đọc đồng nghĩa mỗi thể,
loại vừa có mặt ổn định nhưng đồng thời có mặt biến đổi vì các phương thức phản
ánh đời sống của văn học là có hạn. Sự tiếp cận của con người với hiện thực suy
cho cùng là có ba cách: kể lại (tự sự), trực tiếp bộc lộ cảm xúc (trữ tình), diễn lại
(kịch); do đặc điểm của phương thức tư duy nghệ thuật trong mỗi thời kì trong là
không giống nhau.
Thể loại mang tính dân tộc vì thể loại gắn liền với ngôn ngữ, tâm lí, truyền
thống văn hoá của dân tộc. Ngay cả những thể loại được coi là phổ biến ở nhiều dân
tộc thì vẫn có những nét riêng khác nhau.
Thể loại văn học là nơi thể hiện rõ nhất đặc trưng loại hình của văn học. Theo
PGS.TS Biện Minh Điền, văn học trung đại Việt Nam hiện diện qua qua một hệ
thống thể loại với các đặc điểm nổi bật. Thứ nhất, có sự hỗn dung, đan xen hay có
thể gọi là đậm tính nguyên hợp. Chẳng hạn thể truyện truyền kì, thường có pha trộn
thể loại. Thể loại chính: văn xuôi pha trộn với văn vần (đoản thi hoặc phú hoặc văn

19

tế). Cuối truyện thường có lời bình (văn nghị luận). Không phải tác giả truyện
truyền kì lộn xộn, tâm lí có vấn đề mà tác giả có ý thức thể hiện tài năng của mình
“khoe tài”. Điều quan trọng hơn là tâm lí nhân vật phức tạp hơn nên cần có nhiều
phương diện để thể hiện. Thứ hai, mang tính quy phạm cao, có đặc trưng thi pháp
hết sức chặt chẽ. Thể thơ Đường luật là minh chứng tiêu biểu cho luận điểm này.
Thứ ba, tên thể loại thường được nêu ngay từ đầu đề của tác phẩm. B.L. Ríptin nhận
xét: “Thể loại là một phạm trù chủ đạo được thể hiện trong cách thường xuyên nêu
bật nó lên ở ngay tên gọi tác phẩm” “Vấn đề nghiên cứu những nền văn học trung
cổ của phương đông theo phương pháp loại hình”. Tạp chí nghiên cứu văn học, số
2/ 1974 - B.L.Ríptin. Quan niệm này nhìn chung là đúng nhưng chưa toàn diện,
chẳng hạn chữ “lục”, trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ thuộc thể loại truyện
truyền kì, còn chữ “lục” trong Bắc hành tạp lục của Nguyến Du lại bằng thơ. Thứ
tư, tên thể loại thường được gọi theo chức năng và nội dung của nó. Chẳng hạn,
chức năng của thể hịch: Lời đứng đầu một vương triều tướng lĩnh hoặc thủ lĩnh một
phong trào nhằm vạch rõ tội ác của đối phương và khích lệ mọi người chiến đấu
tiêu diệt kẻ thù.
Do hoàn cảnh xã hội cũng như tư duy nghệ thuật của từng thời kì là khác nhau
nên mỗi thể loại xuất hiện, phát triển, đạt đến đỉnh cao hoặc biến đổi, có thể “không
trở lại”. Chẳng hạn, khi đất nước có ngoại xâm hoặc trong nước đang có nạn binh
đao, loạn lạc, tranh vương, tranh bá thì thể hịch phát triển. Khi giai cấp phong kiến
thối nát, phản động, đi lại lợi ích nhân dân, dân tộc thì thể loại truyện truyền kì phát
triển vì các tác giả trung đại đã mượn các yếu tố kì để tăng sự hấp dẫn cho tác phẩm
cũng như giúp độc giả nhận thức xã hội, giáo huấn mọi người. Khi đất nước thanh
bình thì thường thể phú chiếm độc tôn bởi phú thường dùng trong thi cử, để ca ngợi
vương triều, đặc biệt các tác giả phú qua tác phẩm của mình khuyên vua một cách
kín đáo bằng cách ca ngợi công lao, đức độ, chiến công của người xưa…Khi quyền

20

sống con người bị xâm phạm, ý thức cá nhân bùng lên mạnh mẽ thì truyện thơ phát
triển. Tóm lại, chính nhu cầu phản ánh quyết định sự đổi mới của thể loại.
Diễn trình các thể loại văn học trung đại Việt Nam. Từ thế kỉ X đến thế kỉ XIV,
đây là giai đoạn chúng ta hoàn toàn vay mượn các thể loại Trung Quốc như thơ cổ
phong, thơ Đường luật…Từ thế kỉ XV đến thế kỉ XVII, sang thế kỉ XV, bắt đầu xuất
hiện tác phẩm văn học dân tộc như tác phẩm: Bồ đề thắng cảnh thi trích trong Lê
triều ngự chế quốc âm thi thuộc thể song thất lục bát.
Bài Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng của Lê Đức Mao (1504) thuộc thể hát ả đào.
Năm 1700 xuất hiện tác phẩm: Song tinh bất dạ của Nguyễn Hữu Hào theo thể loại
truyện Nôm.
Bên cạnh xuất hiện những thể loại nội sinh còn có những thể loại ngoại nhập.
Đây cũng là giai đoạn phát triển đột khởi của truyện truyền kì như tập truyện
Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Đến giai đoạn này các thể loại thuộc văn học
hành chức như: thể cáo, hịch, chiếu… nhường vị trí cho các loại hình văn học hình
tượng; chú ý đến cấu tạo. Điều đó cho thấy những phương thức trong tư duy, trong
cách nhận thức đời sống của các tác giả trung đại có sự phát triển. Giai đoạn từ thế
kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX là giai đoạn phát triển đầy đủ các thể loại đã có và mới
xuất hiện trong văn học Việt nam. Đến giữa thế kỉ XIX, sự phát triển này tương ứng
với nội dung, chức năng của các thể loại. Một số thể loại tiêu biểu của giai đoạn này
như Truyện Nôm: Song tinh bất dạ của Nguyễn Hữu Hào, tiểu thuyết chương hồi:
Nam Triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm; thể ngâm khúc như
Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn; Chim trong lồng của Nguyễn Hữu Cầu
báo hiệu cho thể loại hát nói. Giai đoạn nửa sau thế kỉ XIX, giai đoạn cuối của văn
học trung đại Việt nam. Giai đoạn này có sự chi phối mãnh liệt của thực dân Pháp,
sự chống quân xâm lược của nhân dân ta nên văn học có sự thay đổi về nội dung.
Về mặt thể loại, có những thay đổi một số thể loại dài hơi như: ngâm khúc, tiểu