Hãy cho 1 ví dụ có cả chất và lượng

 

Cho ví dụ về chất và lượng khác VD trong SGK và VD nói lên Sự biến đổi về lượng dẫn đến sự biến đổi về chất trong quá trình học tập.

Mọi sự vật hiện tượng đều là thể thống nhất của hai mặt đối lập lượng và chất.

a. Khái niệm chất và lượng

Hãy cho 1 ví dụ có cả chất và lượng

- Khái niệm chất của sự vật hiện tượng:

Chất của sự vật là khái niệm chỉ tính quy định vốn có của sự vật hiện tượng, là sự kết hợp hữu cơ giữa các thuộc tính để nói lên nó là cái gì, phân biệt nó với cái khác.

+ Chất là khái niệm chỉ tính quy định vốn có của sự vật.

Ví dụ: Khi ta nói đến muối ăn là nói đến chất của muối (NaCl) và thuộc tính của muối là: Thể kết tinh, tan trong nước, có vị mặn…

Thể kết tinh, tan trong nước, vị mặn là những tính chất (thuộc tính) quy định vốn có của sự vật (muối) không lệ thuộc ý muốn của con người do vậy mang tính khách quan.

+ Sự kết hợp hữu cơ giữa các thuộc tính.

Không phải là sự cộng lại của các thuộc tính và cũng không phải là sự xếp đặt bên cạnh nhau của các thuộc tính mà là sự liên hệ chặt chẽ, gắn bó, tác động, quy định lẫn nhau cùng tồn tại trong sự vật hiện tượng.

Ví dụ: Khi ta nói đến Đường ăn là nói đến chất của Đường (C6H12O6) và thuộc tính của đường là: Thể kết tinh, màu trắng, tan trong nước, có vị ngọt…

Chú ý: Sự vật hiện tượng có thể có một chất hoặc nhiều chất tuỳ theo các quan hệ vì sự vật hiện tượng có nhiều thuộc tính, nhưng mỗi một thuộc tính cũng có thể coi là một chất.

Ví dụ: Học viên trường TCKT Xe-Máy là nói đến chất của người học viên trường TCKT Xe-Máy, chất đó được thể hiện qua các bộ phận: Học viên TCKT ôtô; học viên lái xe các hạng C, D, E; học viên trung cấp trạm nguồn điện….và mỗi bộ phận học viên TCKT ô tô; bộ phận học viên lái xe các hạng C, D, E; bộ phận học viên trạm nguồn điện cũng có thể coi là một chất.

-Khái niệm lượng của sự vật hiện tượng:

Lượng của sự vật là khái niệm chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật hiện tượng, biểu thị con số những thuộc tính, tổng số những bộ phận cấu thành nó như về độ lớn, về quy mô, về trình độ, về tốc độ, về màu sắc.

Như vậy lượng của sự vật chỉ biểu thị con số những thuộc tính, tổng số những bộ phận cấu thành nó.

Ví dụ: Lượng của học viên trường TCKT Xe-Máy

+ Lượng của sự vật cũng mang tính khách quan, nó là cái vốn có của sự vật.

Ví dụ: Khi ta nói đến lượng nguyên tố hóa học trong một phân tử nước là H20 nghĩa là gồm hai nguyên tử hidrô và một nguyên tử ôxi.

+ Có những lượng ta có thể đo đếm được chính xác bằng đơn vị đo lường, nhưng có những lượng phải bằng khái quát, trừu tượng hoá ta mới xác định được.

Ví dụ: Có những lượng ta có thể đo đếm được chính xác như trọng lượng của cơ thể hay chiều cao của một con người...

Có những lượng phải bằng khái quát, trừu tượng chúng ta mới nhận thức được như lượng tri thức hiểu biết của một lớp học cao hay thấp....

+ Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ là tương đối, trong mối quan hệ này là lượng nhưng trong mối quan hệ khác lại là chất.

Ví dụ: Trong mối quan hệ của một lớp học có học viên là đảng viên và học viên là đoàn viên là nói đến lượng của một lớp học. Nhưng trong mối quan hệ lãnh đạo thì học viên là đảng viên và học viên là đoàn viên khác nhau về chất.

Ví dụ: Trong mối quan hệ giữa người học viên năm thứ nhất với người học viên năm thứ hai là nói đến chất của người học viên năm thứ nhất với năm thứ hai. Trong mối quan hệ với cả khoá học thì năm thứ nhất với năm thứ hai lại là lượng.

b. Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất

 

Nội dung khái quát của quy luật: Mọi sự vật hiện tượng đều là thể thống nhất giữa hai mặt lượng và chất, cách thức vận động phát triển của sự vật hiện tượng bao giờ cũng đi từ sự biến đổi dần dần về lượng đến một độ nhất định mới dẫn đến sự biến đổi về chất. Chất mới ra đời lại tạo điều kiện mới, khả năng mới cho sự biến đổi về lượng.

- Mọi sự vật hiện tượng đều là sự thống nhất giữa chất và lượng (chất nào lượng ấy, lượng nào chất ấy không có chất lượng nói chung tồn tại tách rời nhau)

Ví dụ: Khi nói lớp A có 20 học viên là nói đến sự thống nhất giữa chất và lượng của lớp đó.

- Chất và lượng bao giờ cũng thống nhất trong độ nhất định.

Độ chính là khái niệm để chỉ phạm vi giới hạn, trong đó sự biến đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất, sự vật vẫn là nó chưa là cái khác.

Ví dụ: Người học viên TCKT ôtô khi vào trường học tập, trong hai năm học người học viên đó phải tích lũy những kiến thức những học phần theo quy định. Sự tích lũy những kiến thức đó chính là sự thay đổi về lượng nhưng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất. Khoảng hai năm học tập và tích lũy đó gọi là độ.

Tại thời điểm xẩy ra bước nhảy gọi là điểm nút.

Điểm nút là điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng làm thay đổi về chất.

Bước nhảy là sự thay đổi về chất do những thay đổi về lượng trước đó sinh ra. Nói cách khác bước nhảy chỉ giai đoạn chuyển hoá về chất do những thay đổi về lượng trước đó sinh ra.

Ví dụ: Người học viên TCKT ô tô sau khi đã tích lũy đầy đủ các học phần theo quy định, có đủ điều kiện và thi tốt nghiệp ra trường trở thành người nhân viên chuyên môn kỹ thuật. Từ người học viên trở thành người nhân viên chuyên môn kỹ thuật gọi là bước nhảy.

Tại thời điểm bế giảng nhận quyết định ra trường gọi là điểm nút.

- Chất mới ra đời tạo điều kiện mới, khả năng mới cho lượng biến đổi.

Chất mới được bổ sung những đặc trưng mới, những yếu tố mới. Mặt khác kế thừa được những yếu tố tích cực của sự vật cũ do đó nó thúc đẩy lượng mới phát triển nhanh hơn, mạnh hơn so với lượng của chất cũ.

Ví dụ: Người học viên khi ra trường trở thành người nhân viên chuyên môn kỹ thuật sẽ được bổ sung những yếu tố mới về mặt phẩm chất đạo đức, về năng lực chuyên môn... sẽ giúp người nhân viên biến đổi nhanh hơn về chất.

Chú ý: + Sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất thường gắn với những điều kiện nhất định.

+ Không phải bất kỳ sự biến đổi nào về lượng đều dẫn đến sự thay đổi về chất chỉ khi thuộc tính căn bản thay đổi thì chất mới thay đổi.

Tóm lại: Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại là thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa hai mặt lượng và chất trong một sự vật hiện tượng. Chất là mặt tương đối ổn định, lượng là mặt thường xuyên biến đổi. Lượng biến đổi vượt độ phá vỡ chất cũ, chất mới ra đời với lượng mới. Lượng mới lại tiếp tục biến đổi đến một giới hạn nào đó lại phá vỡ chất mà nay đã cũ đi đang kìm hãm. Cứ như vậy quá trình tác động biện chứng giữa hai mặt lượng và chất tạo lên cách thức, trạng thái vận động phát triển của sự vật.

Hãy cho 1 ví dụ có cả chất và lượng

- Khái niệm chất dùng để chỉ những thuộc tính cơ bản, vốn có sự vật và hiện tượng, tiêu biểu  cho sự vật và hiện tượng đó, phân biệt nó với các sự vật và hiện tượng khác.

- Ví dụ:

  • Thuộc tính của đường là ngọt
  • Thuộc tính của muối là mặn

- Lượng dùng để chỉ thuộc tính vốn có sự vật, hiện tượng, biểu thị về trình độ phát triển (Cao, thấp), quy mô (lớn, nhỏ), tốc độ vận động (nhanh, chậm), số lượng ( ít, nhiều)….của sự vật, hiện tượng.

- Ví dụ:

  • Tòa nhà có 70 tầng, cao 80m
  • Diện tích tòa nhà: 8000m2.

 

 

1. Khái niệm về lượng và chất

- Khái niệm “chất” dùng để chỉ tính quy định của sự vật về phương diện tổng hợp các thuộc tính cơ bản, khách quan, vốn có của một sự vật nào đó; cái mà nhờ đó, sự vật là nó, khác với sự vật khác.

- Khái niệm “lượng” dùng để chỉ tính quy định khách quan, vốn có của sự vật (tạo thành cơ sở khách quan cho sự tồn tại của chất của sự vật) về các phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát triển của sự vật.

2. Mối quan hệ giữa lượng và chất

 

Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại là phương thức chung của các quá trình vận động, phát triển. Nó là những sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng có cơ sở tất yếu từ những sự thay đôi về lượng của sự vật, hiện tượng và ngược lại, những sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng lại tạo ra những biến đổi mới về lượng của sự vật, hiện tượng trên các phương diện khác nhau.

Đó là mối liên hệ tất yếu, khách quan, phổ biến, lặp đi lặp lại trong mọi quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng thuộc mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.

Thứ nhất: Lượng đổi dẫn đến chất đổi

Chất và lượng là 2 mặt đối lập, chất tương đối ổn định còn lượng thường xuyên biến đổi xong hai mặt đó không thể tách rời nhau mà tác động qua lại với nhau một cách biện chứng sự thống nhất giữa chất và lượng trong một độ nhất định khi sự vật đang tồn tại.

– Độ: Là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm căn bản về chất của sự vật.

– Điểm nút: Là giới hạn mà tại đó bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng đưa ngay tới sự thay đổi về chất của sự vật.

– Bước nhảy: Dùng để chí sự chuyển hóa về chất của sự vật do những thay đổi về lượng trước đó gây ra.

Các hình thức của bước nhảy

- Bước nhảy đột biến: Là bước nhảy làm thay đổi căn bản về chất nhanh chóng ở tất cả các bộ phận cấu thành sự vật.

-Bước nhảy dần dần: là quá trình thay đổi về chất diễn ra trong thời gian dài.

-Bước nhảy toàn bộ: làm thay đổi căn bản về chất của sự vật ở tất cả các mặt các bộ phận các yếu tố cấu thành nên sự vật.

-Bước nhảy cục bộ: là bước nhảy làm thay đổi một số yếu tố 1 số bộ phận của sự vật.

Thứ hai: Sự thay đổi về chất tác động sự thay đổi về lượng

Chất mới của sự vật chỉ có thể xuất hiện khi sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút. Khi chất mới ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới tác động tới lượng của sự vật, hiện tượng trên nhiều phương diện: làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.

Từ đó có thể thấy với bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt chất và lượng. Sự thay đổi dần về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy.

Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại với lượng dẫn đến sự thay đổi của lượng mới. Quá trình đó liên tục diễn ra, tạo thành cách thức phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

3.Ví dụ về lượng và chất

Hãy cho 1 ví dụ có cả chất và lượng

Dưới đây là một sốví dụ về sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và sự thay đổi về chất dẫn đến sự thay đổi về lượng:

Ví dụ về sự biến đổi về lượng dẫn đến sự biến đổi về chất trong học tập

1. Nếu bạn tăng thời gian chuẩn bị bài ở nhà thì khi đến lớp bạn sẽ mau hiểu và nhớ bài hơn.

2. Nếu bạn tăng thời gian tự học ở nhà, giảm thời gian chơi Game online thì sẽ thu nhận được nhiều kiến thức hơn, làm bài sẽ đạt được nhiều điểm cao hơn.

3. Trong một kỳ thi, nếu sau khi làm bài xong bạn nán lại thêm một chút để dò lại bài, tìm sửa những lỗi nhỏ thì bài làm đó của bạn sẽ mắc ít lỗi hơn và sẽ được điểm cao hơn.

4. Trong năm học bạn không ngừng tích lũy kiến thức, đó gọi là lượng. Trong khi đó bạn vẫn là học sinh lớp 10, tức là chất chưa đổi chỉ có lượng đổi. Lượng tích lũy đến khi thi cuối năm (điểm nút) bạn lên lớp 11 thì chất đã thay đổi.

5. Gọi là học sinh cấp 3 khi đó bạn đang học lớp 10, 11 hoặc 12 (lượng). Khi bạn vào đại học, chẳng ai gọi bạn là học sinh cấp 3 nữa (chất đã thay đổi).

6. Bạn gọi là học sinh khi bạn học từ lớp 1 đến 12 nhưng vào đại học bạn được gọi là sinh viên.