Lễ khai quynh là gì

Nghi Thức & Ý Nghĩa Tang Lễ Trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
THIÊN VÂN Hiền Tài QUÁCH VĂN HÒA

TANG LỄ

CHỨC VIỆC VÀ ĐẠO HỮU

I.-NGHI TIẾT CẦU GIẢI BỊNH.                  
II.-CẦU HỒN KHI HẤP HỐI.                                                                       
III.-CẦU HỒN KHI ĐÃ CHẾT RỒI.                      
IV.-THƯỢNG SỚ TÂN CỐ.                  
V.-NGHI TIẾT TẨN LIỆM.                    
VI.-ĐẮP PHỦ QUAN.                   
VII.-NGHI THỨC BÀN VONG.                     
VIII.-THÀNH PHỤC PHÁT TANG.                 
IX.-TANG PHỤC.                     
X.-NGHI TIẾT TẾ ĐIỆN.                       
XI.-HÀNH PHÁP ĐỘ HỒN.                       
XII.- LỄ ĐỘNG QUAN.                      
XIII.- LỄ HẠ HUYỆT.                     
XIV.- NGU TẾ, VIẾNG MỘ, KHAI MỘ.                      
XV.- TUẦN CỬU, TIỂU VÀ ĐẠI TƯỜNG.  

I.-NGHI TIẾT CẦU GIẢI BỊNH.

         Khi một vị Tín đồ Cao Đài bị bịnh, thuốc men trị liệu không hết, gia đình yêu cầu Ban Trị Sự và toàn Đạo đến thiết đàn cầu giải bịnh thì chúng ta thực hành trong ba đêm theo nghi thức sau:

      A- Đêm thứ nhứt: Thiết lễ cúng Chí Tôn vào thời Dậu có thượng sớ và dâng tam bửu: Bông, rượu, trà, do vị Chánh Trị Sự chứng đàn dâng sớ. Khi bắt đầu hành lễ nên lên nhang đèn bàn thờ Ông Bà cho gia quyến bịnh nhơn cầu nguyện rồi sẽ nhập đàn.

         Buộc trong gia quyến phải cúng Thầy cầu nguyện. Cúng xong bãi đàn thì tiếp tụng Di Lặc Chơn Kinh và tụng ba biến kinh Cứu Khổ.

         Trường hợp tụng kinh Di Lặc, có thể tụng một hay ba hiệp cũng được.

      B- Đêm thứ hai: Cũng thiết lễ cúng Thầy vào thời Dậu, nhưng không có thượng sớ và chỉ dâng một bửu trà mà thôi, nhưng trên Thiên Bàn vẫn bày đủ Tam bửu: Bông, rượu, trà.

      Việc thỉnh rượu và nước Âm Dương cho bịnh nhân uống vẫn hành y như đêm thứ nhứt.

      C- Đêm thứ ba: Hành lễ như đêm thứ hai là xong nhiệm vụ Ban Trị Sự, nhưng nếu gia quyến có yêu cầu tụng kinh Sám Hối đêm chót thì Ban Trị sự buộc người trong gia quyến cũng như bịnh nhơn phải giữ chay trọn ngày và đêm để tụng Sám Hối. Ban Trị Sự khỏi quì đọc kinh Sám Hối, mà để trọn cho gia quyến quì cúng.

         Bàn Trị Sự chưa thọ pháp giải bịnh thì làm theo nghi thức sau:

         Khi cúng Thầy xong, chưa bãi đàn, trong gia quyến đỡ người bịnh đến trước Thiên Bàn cho bịnh nhơn lạy cầu nguyện Chí Tôn, rồi vị chứng đàn vào quì cầu nguyện Chí Tôn thỉnh ly rượu giữa rửa mặt cho bịnh nhơn, kế thỉnh hai ly nước trắng và trà cầu nguyện Chí Tôn, rồi ký tế lại, nghĩa là kê hai miệng ly lại đổ thống nhứt xuống ly riêng rồi cho người bịnh cầu nguyện rồi niệm câu chú Thầy mà uống.

          Khi một người có Đạo bị bịnh, lâm vào tình trạng nguy kịch, nếu điều trị ở bệnh viện, bác sĩ sẽ cho gia đình biết không thể cứu chữa bằng thuốc được nữa, thì thân nhân người bịnh nên rước bịnh nhân về mời Bàn Trị Sự đến thiết lễ cúng Chí Tôn để cầu giải bịnh. Bởi vì người xưa từng nói: “Diệu dược nan y oan trái bịnh ”, nghĩa là thuốc hay không thể trị được bịnh oan trái.

         Bịnh oan trái còn gọi là bịnh căn quả, loại bịnh này chỉ có Hồng ân của Chí Tôn mới tha thứ, giảm trừ được những oan nghiệt và Thần, Thánh, Tiên, Phật mới cứu được khổ nạn, độ được căn quả mà thôi. Chính bài kinh “Cầu Bà Con Thân Bằng Cố Hữu Đã Qui Liễu” cho biết:

Chí Tôn xá tội giải oan,

Thánh, Thần, Tiên, Phật cứu nàn độ căn.

Và bài Kinh Giải Oan cũng có câu:

                  May đặng gặp Hồng ân chan rưới,

                  Giải trái oan sạch tội tiền khiên.

 

Lễ khai quynh là gì

THIÊN BÀN THỜ TẠI TƯ GIA

Chúng ta đã biết, vào thời Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn giáng huyền cơ khai mở nền Đại Đạo, với mục đích đại ân xá cho toàn thể vạn linh có tội lỗi và giải trừ mọi oan khiên nghiệp chướng, nhằm cho chúng sanh được nhẹ nhàng, dễ bề tu hành hầu có thể phản bổn hườn nguyên, qui hồi cựu vị. Do vậy, người am tường lý Đạo, khi mang bịnh nặng, thuốc men không thuyên giảm được thì chúng ta phải nghĩ đến do căn nghiệp mà sinh ra đau bịnh, thì nên thiết lễ cúng Đức Chí Tôn, nhờ hồng ân thiêng liêng hộ trì cho tiêu căn giảm nghiệp, vạn bịnh hồi xuân, gia tăng phước thọ.

          Người bị bịnh do căn nghiệp, một khi thọ mạng chưa dứt mà được các Đấng Thiêng Liêng giải trừ oan khiên nghiệt chướng thì dù không thuốc men, bịnh tình cũng sẽ tự khỏi. Những bịnh căn quả trong thời Hạ ngươn mạt pháp này rất nhiều, bởi vì con người gia tăng dân số và những tội lỗi của chúng sanh đã tạo ra từ nhiều kiếp trước, gây ra vô số oan gia nghiệp báo lẫn nhau khiến hiện kiếp phải thọ lãnh hằng hà những bịnh về căn quả, bịnh về oan nghiệp.

            Khi thiết lễ cầu giải bịnh, có tụng Di Lặc Chơn Kinh mà trong kinh đó chư Phật có lời hứa: Nếu như có người thọ trì Phật pháp mà kinh sợ những chướng ngại của Ma vương, một lòng tưởng niệm, Di Lặc Vương Bồ Tát có thể cứu giúp được tam tai, có thể cứu giúp được tật bịnh, có thể cứu độ và dẫn dắt chúng sanh thoát hết các nghiệp chướng, ắt được giải thoát (Nhược hữu nhơn thọ trì khủng kinh ma chướng, nhứt tâm thiện niệm: Nam Mô Di Lạc Vương Bồ Tát, năng cứu khổ ách, năng cứu tam tai, năng cứu tật bịnh, năng độ dẫn chúng sanh thoát chư nghiệt chướng tất đắc giải thoát , : , , , , , ).

         Và Kinh Cứu Khổ Đức Quan Thế Âm Bồ Tát cũng có nói: Bài kinh Cứu Khổ này là của vị Đại Thánh, có thể cứu được tù ngục, có thể cứu được bịnh nặng, có thể cứu tam tai và trăm nạn khổ (Thử kinh Đại Thánh, năng cứu ngục tù, năng cứu trọng bịnh, năng cứu tam tai bá nạn khổ, , , ).

       Chính có lời hứa của Chư Phật, nên sau khi thiết lễ cầu giải bịnh xong, vị chứng đàn trở vào quì cầu nguyện Đức Chí Tôn và hội hai ly nước Thánh lại (Gọi âm dương ký tế) rồi cho bịnh nhân cầu nguyện uống. Đây là một ân điển thiêng liêng mà Thầy ban cho cả chúng sanh trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, tức là nhờ sự thành tâm cầu nguyện mà Chí Tôn Phật Mẫu ban cho hai nguồn ân điễn Âm Dương hòa hiệp trong ly Thánh thủy để người bịnh uống vào được điều hòa về vật chất và tinh thần, dứt trừ vạn bịnh, thể xác khương cường, tinh thần tráng kiện.

         Trên đây là trường hợp người chứng đàn cầu giải bịnh là vị Chức Việc không thọ bí pháp giải bịnh, chỉ dùng nguyện lực để cảm ứng với các Đấng Thiêng Liêng ban cho nước Âm Dương trở nên Thánh thủy làm Thần dược để trị các loại bịnh về oan trái.

         Nếu người chứng đàn là vị Chức Sắc được truyền thần giải bịnh thì sau khi cúng Chí Tôn xong vị Chức Sắc đó sẽ hành pháp giải oan hay giải bịnh.

         Sau đây là một tài liệu của Đức Hộ Pháp dạy về cách truyền thần giải bịnh: Người hành pháp, tay bắt ấn Tý, tay cầm 9 cây nhang vẽ lên chỗ bị bịnh chữ (.) xong để hai bàn tay lên chỗ ấy truyền điểm, nhắm mắt lại lưỡi cong đọc câu: “Thể chất hườn ngươn khí, cốt nhục dẫn châu thân, cấp cấp như luật lệnh”. Đoạn hít hơi thật sâu, rồi thở ra từ từ. Dùng tư tưởng đưa luồng điển sang người bịnh cho chạy toàn thân, mỗi một hơi là một câu niệm chú, làm như vậy ba lần, xong lấy tay ra. Dứt, đến bái lễ Đức Chí Tôn.

         Còn hành pháp cho uống nước là luyện Ma Ha thủy, khi hành pháp xong cho người bịnh uống lần một niệm Nam Mô Phật, lần hai niệm Nam Mô Pháp, lần ba niệm Nam Mô Tăng, lần bốn niệm Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, rồi cho uống hết.

         Chúng ta thử hồi tưởng lại những ngày đầu mới khai Đạo, trong các đàn cơ, Chí Tôn ban ân điển thiêng liêng trong nước Âm Dương để làm nên Thần dược trị được bá bịnh cho chúng sanh. Điển hình là vụ một người Pháp, tên De Lagarde, Chủ sự sở Bưu điện ở Vientiane thủ Đô nước Lào. Ông bị vấp ngã vào bụi gai, bị thương nặng hai con mắt trong một lần đi săn bắn. Bác sĩ ở Vientiane chữa không khỏi, ông bị mù luôn. Người vợ Nam Kỳ của ông đưa đi trị tại các nhà thương lớn ở Hà Nội và Sài Gòn, được các bác sĩ danh tiếng nhứt săn sóc, nhưng bịnh cũng không lành, khiến ông phải nghỉ việc.

         Trong lúc tuyệt vọng về y khoa Tây phương, người vợ Nam kỳ của ông De Lagarde nghe được sự mầu nhiệm của Chí Tôn ban cho nước Thánh để trị nhiều loại bịnh, bà mới đưa ông về Tây Ninh để xin cầu cơ trị bịnh. Nhờ vào sự tin tưởng tuyệt đối mà ông được Đức Chí Tôn trị hết mù lòa để tiếp tục làm việc lại tại sở Bưu điện Hà Nội. Rồi từ đó ông xin nhập môn vào Đạo Cao Đài và trong một đàn cơ được Chí Tôn phong cho phẩm Lễ Sanh phái Thượng. Chính ông đã lên diễn đàn tại rạp hát Majestic ở Hà Nội trong một buổi thuyết trình về Đạo Cao Đài có hơn ngàn thính giả của giới chính quyền Pháp, Việt. Ông đã xác nhận như sau: “Trong số cử tọa hiện diện hôm nay còn có nhiều người bạn thân của tôi nhứt là ngành Bưu điện Đông Dương đã biết rõ về tai nạn xảy ra cho tôi trước đây ba năm và đã làm cho tôi phải nghỉ việc vì đôi mắt bị mù lòa hoàn toàn. Hôm nay tôi được trở lại làm việc tại sở Bưu điện Hà Nội vì đôi mắt tôi đã hết mù, nhờ đặc ân của Chí Tôn Cao Đài Thượng Đế đã cứu chữa cho tôi bằng một ít tro nhang hòa với nước Thánh”.

         Từ trước đến nay có nhiều câu chuyện kể lại việc Đức Hộ Pháp truyền thần giải bịnh hay hành pháp giải oan cho rất nhiều người. Sau đây là một câu chuyện do Nhạc Sư Trần Thiện Niệm kể lại khi Đức Hộ Pháp hành pháp trị cho một nhạc viên bị bịnh “Âm”. Chuyện được kể như sau: Hồi còn ở Nam Vang, lúc ông Niệm còn là Đốc Nhạc, Cai quản ban nhạc nơi Miên Quốc. Trong ban nhạc của ông có một nhân viên không biết bịnh gì mà đột nhiên xanh xao, nhợt nhạt,rồi ốm lần coi tiều tụy lắm. Anh em lo đủ thuốc thang Đông Tây mà không thuyên giảm, ngày lại càng kiệt sức hơn. Bác sĩ coi mạch cũng phải lắc đầu, không chẩn đoán ra được bịnh.

         Thấy nhơn viên trầm trọng chừng như muốn hấp hối, ông Tư Niệm trình bày lên Đức Hộ Pháp.

         Đức Hộ Pháp nghe vậy, liền xuống ban nhạc để thăm vị nhân viên ấy.

         Vừa vào tới nơi, Đức Hộ Pháp nói liền: Rồi! Nữa rồi!

         Mọi người nghe vậy, không biết Ngài nói vậy là ý gì?

         Đức Ngài hỏi: Nó đâu?

         Ông Tư Niệm chỉ cái giường nằm cách ngăn giữa nhà trên và nhà dưới, nói: Thưa Thầy, em nó nằm đây.

         Đức Ngài nhìn người ấy. Anh em đỡ vị nhạc viên ấy dậy.

         Đức Hộ Pháp nói: Thôi để nó nằm êm đi. Mấy con đem nó lên Báo Ân Đường cho Qua trị bịnh.

         Vị nhạc viên ấy được Đức Ngài hành pháp giải bịnh tại Báo Ân Đường.

         Từ lúc đó trở đi, vị nhân viên từ từ phục nguyên khí sắc, thần sắc.

         Sau đó ba ngày, vị nhạc ấy mạnh khỏe như thường. Anh em Ban nhạc và vị ấy cùng dẫn nhau đến Báo Ân Đường lạy tạ ơn.

         Đức Hộ Pháp hỏi: Có còn thấy gì nữa không?

         Vị nhạc ấy trả lời: Dạ, không còn thấy gì nữa.

         Ngài cười rồi bảo ông Tư, ngày mai mời hết anh em ban nhạc đầy đủ tại văn phòng để Đức ngài dạy việc.

         Ngày sau, Đức Hộ Pháp đến văn phòng ban nhạc, anh em ban nhạc đã đầy đủ chờ Ngài.

         Đức Hộ Pháp hỏi: Qua hỏi thiệt mấy em, chớ tại sao mấy em treo bức ảnh cô gái [1] nầy tại văn phòng (vừa nói Ngài vừa dùng tay chỉ bức tranh có hình cô minh tinh màn bạc nổi tiếng của Miên Quốc). Các em có thường hay nói giỡn, nói đùa với bức ảnh đó hay không?

         Mọi người nhìn nhau, rồi nhớ lại.

         Vị nhạc viên bị bịnh nói: Thưa Thầy, hôm anh em tụ họp tại văn phòng cũng đông người, ai cũng khen tranh ấy đẹp, trầm trồ ca ngợi, thích thú. Con có nói đùa rằng: “Phải chi mà nàng ấy nhận làm vợ mình thì mình chịu liền”.

         Đức Hộ Pháp nói: Cũng bởi câu nói ấy mà mỗi đêm con ngủ với nàng ấy phải hôn? Cả ban nhạc đều nhìn vị nhạc ấy cười.

         Đức Hộ Pháp rầy: Qua nói cho mà biết, đừng có nói chơi. Người ta là người vô hình, nói là phải nhận không sai chạy. Người con gái trong tranh là điển hình đó.

         Thôi cho giải tấm tranh ấy đốt đi, Qua chứng cho. Đừng có thấy đẹp mà tiếc, không nên đâu.

         Anh em đem bức tranh xuống đốt liền.

II.-CẦU HỒN KHI HẤP HỐI.

         Trong Hương có vị Đạo hữu bị bịnh, đã cầu giải bịnh rồi nhưng không khỏi, đang trong tình trạng nguy kịch, gia đình nên yêu cầu Chức Việc và toàn đạo đến Cầu hồn khi hấp hối. Ta phải thực hành như nghi thức sau.

         Trước nhứt là phải thiết lễ cúng Đức Chí Tôn và Các Đấng Thiêng Liêng, cầu xin cho Chơn linh người hấp hối được định tâm hướng niệm về hai Đấng Đại Từ Phụ, Đại Từ Mẫu, để cầu cho Chơn linh được nhẹ nhàng xuất ra khỏi thể xác và được độ rỗi lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

         Theo “Tài liệu thực hành nghi tiết cúng lễ của Đạo” năm 1991, thì dầu nhằm giờ cúng “Tứ Thời” hay không cũng thiết lễ dâng một bửu mà thôi.

                        - Từ 21 giờ đến 3 giờ.

                        - Từ 9 giờ đến 15 giờ.

                                                Dâng rượu

                        - Từ 3 giờ đến 9 giờ.

                        - Từ 15 giờ đến 21 giờ.

                                                Dâng trà

         Sau khi cúng Thầy xong, bãi đàn. Ba vị Chức Việc hành sự mặc đại phục (Chánh, phó, thông) trở vào bái lễ và cầu nguyện Đức Chí Tôn, Chánh quỳ giữa, Phó, Thông quỳ hai bên.

         Theo tài liệu Hạnh Đường, lời cầu nguyện được hướng dẫn như sau: “Chúng con là Bàn Trị Sự đương quyền hành chánh sở tại, được lời thỉnh cầu của vị …………….. đến đây cầu hồn cho vị Đạo Hữu …..………….. đã hấp hối, mong nhờ Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu, các Đấng Thiêng Liêng ban ân cho người được nhẹ nhàng linh hồn”. Cầu nguyện xong lạy Thầy ba lạy, rồi đứng dậy.

         Vị Chánh Trị Sự lấy hai cây đèn sáp để trên đĩa, đốt cháy, nhìn lên Thiên nhãn xá ba xá và đưa cho hai vị Chức Việc đứng hai bên cầm, vị Chánh Trị Sự tịnh thần, ngó ngay Thiên Nhãn, bắt ấn tý để ngay ngực rồi cùng hai vị cầm đèn đến trước đầu người đang hấp hối, ngó ngay mỏ ác và kêu tên nói rằng: “Tôi vâng lịnh Đức Chí Tôn đến tụng kinh cho vong hồn Đạo Hữu nhẹ nhàng siêu thăng. Vậy Đạo Hữu phải tịnh tâm mà nghe và phải cầu nguyện với Đức Chí Tôn ban ân lành cho”.

         Xong, đồng nhi khởi tụng bài Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối (Rấp nhập cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống…). Tụng 3 lần, khi dứt đọc chú Thầy 3 lần.

         Ba vị Chức việc trở lại Thiên Bàn xá Thầy rồi tắt đèn (1), và vị Chánh Trị Sự mới được xả Ấn tý.

         Theo tài liệu Thực hành nghi tiết năm 91:

         Chức Sắc, hoặc Chức Việc nam phái cầu hồn khi hấp hối cho người nam phái.

         Chức Sắc hoặc Chức Việc nữ phái thì cầu hồn khi hấp hối cho người nữ phái.

         Nếu không có Chức Sắc và Chức Việc nữ thì Chức Sắc hoặc Chức Việc nam phái mới cầu hồn cho nữ phái được.

         Theo triết lý Đạo Cao Đài, con người có tam thể xác thân: Đó là Thể xác, Chơn thần và Chơn linh. Khi một người chết, Thể xác là vật chất hữu hình do đất sinh ra sẽ theo đất mà hư hoại, nhưng Chơn linh là một Tiểu Linh quang của Thượng Đế ban cho, là thể bất tiêu bất diệt và tồn tại mãi, nghiệp lực sẽ dẫn dắt luân hồi trở lại, hoặc ở cõi Âm quang, hoặc lên một cõi giới khác nhẹ nhàng hơn, hay trở về Thiên cảnh như kinh Tẩn Liệm đã viết:

                  Hồn Trời hóa trở về Thiên cảnh,

                  Xác đất sanh đến lịnh phục hồi.

         Bởi quan niệm như vậy nên khi một người còn đang hấp hối nếu biết khởi nghĩ điều lành liền có chư Thần đến rước vào chỗ an vui, nếu khởi niệm việc ác thì thấy ma vương đến dẫn vào đường ác, biết nhứt tâm bất loạn hướng niệm Chí Tôn và ăn năn, sám hối thì có thể trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống được. Nên theo Đạo Cao Đài, giai đoạn hấp hối là thời khắc cực kỳ quan trọng, là việc trọng đại nhứt của một đời người.

         Do vậy, trong thời gian người bịnh đang hấp hối cần phải thỉnh toàn Đạo và thân bằng quyến thuộc đến thiết lễ cúng Đức Chí Tôn để cầu nguyện, hộ niệm và tụng kinh cho người hấp hối nghe trong lúc họ còn tỉnh táo để giúp họ biết khởi niệm điều thiện và nhờ Chí Tôn độ rỗi cho Linh hồn được thanh tịnh, nhẹ nhàng.

         Trường hợp này, theo thiển ý, chúng ta chỉ nên cầu cho người hấp hối thoát khỏi các oan nghiệt để mau được siêu thăng. Vì cầu cho hết bịnh trong lúc thọ mạng đã hết thì những oan nghiệt vẫn hoành hành cơ thể người hấp hối, làm cho họ đau đớn, không tịnh tâm hướng niệm Chí Tôn, như vậy sẽ làm mất cơ hội siêu sanh. Trái lại, chỉ lo cầu vãng sanh, nếu thọ mạng còn thì bịnh sẽ nhanh chóng tự khỏi.

         Thói thường người bình dân ta thường quan niệm “Còn nước còn tát”, nghĩa là bịnh nhân trong phút nguy nan, thuốc men không còn tác dụng cho bịnh nữa, nhưng thân nhân người bịnh vẫn cố xin để lại bệnh viện cho đến phút cuối cùng, mặc dù lúc này chỉ còn sử dụng thuốc trợ tim để kéo dài sự sống cho bịnh nhân mà thôi. Làm như vậy họ cho là thực hiện lòng hiếu thảo, mặc dầu chẳng có lợi ích chi, trái lại còn gây thêm sự đau đớn, bực dọc cho người bịnh mà thôi. Một khi xác thân người bịnh bị đau đớn thì dễ khiến cho thần thức sanh tâm sân hận, và tâm bị sân hận thì khó siêu sanh về cảnh giới Cực Lạc được.

         Chúng ta cần nên biết, lúc hấp hối con người mất hẳn phần cảm giác thuộc về trí tuệ, nghĩa là lúc đó, sự thông minh sáng láng bị đoạn tuyệt: Mà hết thảy căn bản trong các cơ quan thuộc về thân thể đều ở trong trạng thái điên đảo, vẩn vơ và mệt ngất, lúc ấy người ta thường gọi là mất thần. Chính vì vậy, quyết định của gia đình là sáng suốt nhứt.

         Cách tốt nhứt là gia đình nên đem bịnh nhân về nhà để cho Đạo đến thực hiện nghi cầu hồn khi hấp hối, như vậy mới mong giúp người bịnh trong phút giây thần thức từ từ tách lìa khỏi thân xác mà biết định tâm hướng niệm Chí Tôn và sám hối tội tình trước khi trút hơi thở cuối cùng để được chư Thần dẫn dắt về quê xưa cảnh cũ.

         Biết được tầm quan trọng của việc cầu hồn khi hấp hối, nên phần đông tín đồ Cao Đài ở Châu thành Thánh Địa hay các địa phương gần nơi Tòa Thánh, đều có thực hiện nghi này cho người thân trước phút lâm chung. Còn phần đông ở các địa phương, nhứt là những địa phương ít Đạo Cao Đài, mặc dù nhiều gia đình là Đạo gốc, họ vẫn ngại ngùng không muốn mời Bàn Trị Sự đến cầu hồn cho người thân đang hấp hối. Có lẽ họ sợ tụng hấp hối rồi người bịnh sẽ chết chăng? (tâm lý họ muốn cầu người thân sống thêm) hoặc nếu mời Đạo đến để cầu hồn khi hấp hối, theo họ, ngại sự chú ý của mọi người xóm giềng chung quanh. Nên họ thường đợi người hấp hối chết rồi mới nhờ Đạo đến thực hành hai nghi cầu hồn cùng một lúc: Cầu hồn khi hấp hối và cầu hồn khi đã chết rồi.

         Muốn cuộc cầu hồn khi hấp hối được hiệu quả, điều cần nhứt thân nhân của người bịnh phải làm sao tạo được một môi trường yên tĩnh, đừng nên khóc lóc, kéo níu thân thể người bịnh, và khéo léo đừng để bạn bè, họ hàng đến thăm hỏi vì lúc ấy cơ thể người đang hấp hối vô cùng đau đớn, trí não mịt mờ, tinh thần bấn loạn. Có như vậy, người bịnh mới giữ được sự tỉnh táo để nhiếp tâm hướng về Chí Tôn mà ăn năn, sám hối và cầu nguyện ban cho Linh hồn được nhẹ nhàng, dễ siêu thoát.

         Trong thời khắc đang hấp hối nếu người bịnh vì quá mỏi mệt, hôn trầm thì thân nhân nên nhắc nhở vào bên tai người bịnh bằng cách niệm câu chú Thầy giúp họ tỉnh lại để cùng nhứt tâm niệm chú Chí Tôn. Nếu như người bịnh vì tình cảm luyến ái gia đình hay nuối tiếc tài sản thế gian thì thân nhân nên khéo léo khuyên người đang hấp hối phải buông bỏ tất cả mới có thể liễu sanh thoát tử được. Còn như lưu luyến cảnh thế gian thì sẽ mãi mãi đi vào đường khổ não, không bao giờ thoát ra được. Đây là phút giây quan trọng và khẩn cấp nhứt của cuộc đời. Có được siêu thoát hay không? Chính là do người đang hấp hối biết chí thành tin tưởng Đức Chí Tôn mà hướng niệm để được tiếp dẫn về cõi Thiêng Liêng hay không?

         Bài kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối là do Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ ban cho, nhằm tụng để cầu xin cho Chơn linh người đang hấp hối được nhẹ nhàng xuất ra khỏi thể xác và cứu giúp Chơn linh siêu thăng Tịnh độ.

         Phàm là con người đều nặng mang nghiệp chướng nên phải chịu sự luân hồi sinh tử. Nguyên nhân của luân hồi là do bởi vô minh mà tạo các nghiệp nhân để rồi phải thọ quả. Vì vậy, người tu phải có trí huệ để làm ngọn đèn hay cây đuốc soi sáng cho con người thoát khỏi bóng tối vô minh. Chẳng những con người phải có trí huệ lúc bình sanh mà còn phải có tinh thần sáng suốt trước buổi lâm chung để cầu xin với Chí Tôn và chư Phật, Tiên, bởi vì trong giai đoạn đó gọi là cận tử nghiệp , thân xác đau đớn, tinh thần bấn loạn, thần thức mê man, hoặc tiếc mạng sống, thương yêu vợ con, hoặc ham luyến tiền bạc, danh vọng...

         Phép Cầu hồn khi hấp hối của Đạo Cao Đài nhằm nhắc nhở, đánh thức tâm thần người sắp lâm chung phải định thần định tánh mà thành tâm cầu nguyện Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng hộ trì cho Chơn linh được nhẹ nhàng siêu thăng thoát hóa. Ngoài ra, theo quyển Thiên Đạo, hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh cho biết như sau: “Người ta chết là khi sợi từ khí cột dính Vật thể và Khí thể bị bứt đi, thế là Khí phách và Thần hồn lìa xác thịt”. Theo hai Ngài, “sợi từ khí nhiều khi khó bứt ra, nên khiến cho kẻ hấp hối phải chịu nhiều đau đớn. Cho nên Đạo Cao Đài dùng Kinh Cầu Hồn tụng trong lúc người bệnh sắp tắt hơi là để giúp cho sợi từ khí nhờ sức rung động của những tiếng mầu nhiệm trong câu Kinh mà được bứt ra dễ dàng.

         Người tu hành đầy đủ đạo đức thì Khí thể của họ nhẹ nhàng trong sạch, sợi từ khí ấy được tinh vi, nên khi thoát xác phàm, sợi từ khí bứt ra rất dễ, nên liễu trần một cách êm ái”.

         Trong bài kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối có viết:

                  Dầu nghiệt chướng số căn quả báo,

                  Đừng hãi kinh, cầu đảo Chí Tôn.

         Nếu một người trong tình trạng hấp hối thì sự cầu đảo Đức Chí Tôn phải có một đức tin vững chắc, thành tâm và tinh tấn. Bởi vì khi một người sắp chết, thần thức bị mê loạn, tinh thần hoảng hốt, hoặc luyến tiếc mạng sống, hoặc ham mê danh lợi.… Ngoài ra còn bị ma vương, oan gia trái chủ vây quanh đòi nợ, hoặc thân xác đau đớn làm cho tâm thần không sáng suốt mà giữ chánh niệm đặng

         Vì thế, người đang hấp hối không nên quyến luyến dương trần, mà phải định tỉnh tâm thần và thành tâm cầu nguyện Đức Chí Tôn để được thực hiện chơn truyền tận độ của nền Đại Đạo trong thời Tam Kỳ Phổ Độ.

         Để việc độ hồn được cảm ứng với các Đấng Thiêng Liêng hầu truyền giúp cho Chơn linh giảm bớt nặng nề ô trược mà nhẹ nhàng siêu thoát, thì những người cầu rỗi buộc phải thành tâm và tinh tấn.

         Chúng ta đừng ngại người thân mình có lỗi lầm, miễn là phải có lòng ăn năn, sám hối mà thôi. Bởi vì Đức Chí Tôn là Đấng Đại từ bi có lòng thương xót tất cả chúng sanh, nhất là những chúng sanh có nhiều tội lỗi. Thánh giáo Thầy có dạy Hội Thánh rằng: “Buổi lập Thánh Đạo, Thầy đến độ rỗi kẻ có tội lỗi. Nếu đời không tội lỗi, đâu nhọc đến công Thầy.

         Ấy vậy, các con rán độ kẻ tội lỗi là công lớn làm cho Thầy vui hơn hết”.

         Đức Lý Đại Tiên Trưởng cũng có nói: “Lão chỉ sợ một điều là Lão không phương gần kẻ tà tâm toan dạy dỗ; còn như gần kẻ đạo đức chơn thành thì rất dễ, song chẳng cần ích…Ấy vậy, Lão đến mà gieo hột Thánh cốc nơi lòng kẻ tà tâm, mong cho đơm bông kết quả, đặng liệu thế hồi tâm chớ chẳng phải đến rước người hiền ngõ”.

         Như vậy, Đạo Cao Đài có mục đích là tận độ chúng sanh, không phải chỉ vì hạng thiện lương có phương tiện, có thể dùng tự lực để thoát ly sanh tử, mà là vì hạng ác nhơn tội chướng không có phương tiện để giải thoát, nhưng biết sám hối ăn năn để cầu xin giải thoát.

         Nhưng một người làm lỗi đến phút cuối cùng (lúc hấp hối) mới ăn năn, sám hối và cầu đảo thì Đức Chí Tôn có tha thứ tội tình mà cứu độ cho hay không? Theo ý nghĩa những câu kinh, thì thật là may duyên cho chúng sanh gặp được Tam Kỳ Phổ Độ, Chí Tôn khai nền Đại Đạo, mở ra một thời kỳ Đại khai Ân Xá cho vạn linh và đóng Địa ngục mở từng Thiên, là để các Chơn linh có tội lỗi, nếu biết tu sửa, ăn năn sám hối thì được Chí Tôn tha thứ tội tình mà trở về ngôi cũ, còn các tội hồn không chịu cải quá thì phải ở lại cõi Âm Quang chờ ngày học đạo để được siêu thăng thoát hóa. Chính Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì Cung có dạy như sau: “Nói cho cùng, nếu trọn kiếp, dầu gây lắm tội tình, mà phút chót biết ăn năn tự hối, cầu khẩn Chí Tôn độ rỗi thì cũng lánh xa cửa Âm quang, lại còn hưởng đặng nhiều ân huệ của Chí Tôn, là các chơn hồn đặng tự hối hay là đặng giáo hóa mà hiểu trọn chơn truyền lập phương tự độ, hay là con cái của Chơn hồn cầu rỗi”.

         Nói như vậy, chỉ cần gần phút lâm chung cầu nguyện Đức Chí Tôn là xong. Cần gì lúc sanh tiền lo bồi công lập đức, hay tưởng Trời niệm Phật!

         Chúng ta cần phải nghĩ một điều: Có được một lời cầu nguyện của người bịnh lúc lâm chung toàn là nhờ lúc bình thường họ chí tâm tưởng niệm Chí Tôn để tạo duyên phần cho phút cuối. Nếu không, bệnh tật hôn mê, đau đớn bức bách làm cho tâm thần mê loạn, lại thêm vợ gào con khóc, anh em thương tiếc, chẳng dứt được nghĩa tình, hoặc bị nghiệp lực lôi kéo, khiến cho thần trí hôn mê. Lúc bấy giờ muốn ăn năn tự hối, hướng niệm Chí Tôn cũng không xong.

         Vì vậy, lúc bình thời chúng ta tu trì, tạo phước chính là dự bị cho lúc lâm chung mang theo làm hành trang thiện quả trong phút trở về quê xưa vị cũ.

III.-CẦU HỒN KHI ĐÃ CHẾT RỒI.

         Nếu trong khi tụng bài kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối mà người bệnh tắt hơi (Tức đã chết) thì tiếp tục tụng luôn bài kinh Khi Đã Chết Rồi (Ba mươi sáu cõi Thiên tào…). Tụng 3 lần, sau khi dứt niệm câu chú Thầy 3 lần.

         Nghi Cầu hồn khi đã chết rồi, Ban Trị Sự cũng thiết lễ y như cầu hồn khi hấp hối vậy, nghĩa là thiết lễ cúng Thầy xong, vị Chánh Trị Sự và hai Chức Việc đứng hai bên vào cầu nguyện Chí Tôn rồi cầm hai cây đèn đến trước đầu người chết, dở mền và khăn đắp mặt, kêu tên họ người chết tịnh tâm nghe Kinh và cầu nguyện Chí Tôn ban ơn lành cho Chơn linh được nhẹ nhàng.

         Chức Sắc, hoặc Chức Việc nam phái cầu hồn cho người nam phái qui vị.

         Chức Sắc hoặc Chức Việc nữ phái thì cầu hồn cho người nữ phái qui vị.

         Nếu không có Chức Sắc và Chức Việc nữ thì Chức Sắc hoặc Chức Việc nam phái mới cầu hồn cho nữ phái được.

         Sau khi thiết lễ cầu hồn khi đã chết rồi, tang quyến hoặc Chức Việc địa phương phải đến Đền Thánh (Nếu người quy vị là Chức sắc) hoặc Thánh Thất báo tử. Nơi đây sẽ đổ chuông báo tử: Nam 7 tiếng, nữ 9 tiếng. Nếu là Chức Sắc quy vị thì tùy theo phẩm cấp mà đổ chuông trống theo quy định trong Tang lễ (Chức Việc và Tín đồ không có đổ trống).

         Theo Việt Nam Phong Tục của Phan Kế Bính, ngày xưa nhà nào có người mới vừa chết, người thân hay con cái trải chiếu dưới đất rồi khiêng người chết xuống nằm một lát (lấy ý nghĩa người ta bởi đất sinh ra thì khi chết lại về với đất), sau đó lại khiêng trở lên giường nằm. Khi người mất đã dứt hơi hẳn thì lấy chiếc đũa để ngang hàm, bỏ một vốc gạo và ba đồng tiền vào miệng. Nhà phú quý thì dùng ba miếng vàng sống, chín hạt châu trai, gọi là ngậm hàm.

         Chúng ta nên biết rằng người vừa mất Thần thức còn nằm trong cơ thể, nên trong thời gian đầu vừa mới tắt thở, tuyệt đối không được sờ mó thân người mất, không được níu kéo thi hài người mất mà khóc lóc, không được thay quần áo, mà phải chờ một thời gian (thường là 7 hay 8 tiếng đồng hồ). Sau đó mới làm. Như vậy, việc khiêng thi hài người chết xuống nằm dưới đất đã không ích lợi gì cho pháp Đạo, lại còn động chạm đến thân xác, khiến Chơn thần người chết không được yên tĩnh, hại cho việc siêu độ Chơn linh.

         Thời cổ đại, người ta sau khi chết được đem một viên ngọc đặt vào miệng, ý nghĩa là để xua đuổi tà ma, nghi tiết này gọi là “Hàm lễ”. Theo sự ghi chép trong Lễ Ký tạp thiên, ngày xưa các nước chư hầu thường dâng tặng “Hàm ngọc” (Ngọc ngậm trong miệng người chết). Sau này, tục lệ trong dân gian nhà giàu có cũng cho người chết ngậm vàng lá và hạt châu trai, còn người thường dân thì lấy gạo thế cho ngọc gọi là “Ngậm ngọc”.

         Đối với triết lý Tôn giáo, nhứt là theo chánh pháp của Đạo Cao Đài, việc “Hàm lễ” thấy không có ích lợi gì cho thân xác người chết, trái lại còn động chạm đến thi hài gây trở ngại cho việc độ rỗi Chơn linh siêu thoát. Nghi lễ đó chỉ là tập tục mê tín của thế gian mong cầu việc phú quý nên mới cho người mất ngậm vàng lá hay châu trai hoặc ngậm gạo tiền mà tục gọi là ngậm ngọc.

         Ngoài ra theo tục lệ thi hài người mất sau khi tắm rửa thay quần áo xong đặt trên giường đắp mền lại, đậy mặt bằng miếng vải đỏ, trên bụng dằn một nải chuối xanh vì sợ con linh miêu nhảy ngang thì thây người chết sẽ thành quỉ. Nghi thức này theo tục mê tín, xét ra không lợi gì cho người chết và không ích gì cho vong linh thì ta cũng nên đơn giản hóa tục lệ.

         Như trên đã nói, sau khi trút hơi thở cuối cùng, thần thức vẫn còn ở trong cơ thể người mới mất, trừ trường hợp những bậc tu hành đắc quả thì khi chết Chơn linh sẽ được vãng sanh ngay. Do đó thân nhân người quá cố tuyệt đối không được níu kéo thi hài, không được khóc than, sầu thảm, bởi vì vong linh người vừa mất thấy được tất cả mọi sự việc và hiểu được tâm tư mọi người, nếu thấy mọi người bi ai, khổ não khiến cho vong linh sẽ quyến luyến người thân mà không nỡ dứt rời ra đi được, nên khó siêu sanh về Thiên cảnh.

         Theo phong tục tập quán xưa, người ta hay quan niệm cha hoặc mẹ mất con cái phải buồn đau, khóc lóc, càng sầu thảm bao nhiêu, càng thể hiện lòng hiếu thảo bấy nhiêu. Thậm chí có những gia đình phải mướn người để khóc hộ, tạo nên một khung cảnh bi thương. Ta nên biết sự thương yêu cốt ở trong lòng, người biết lý Đạo phải biết dằn nén nỗi đau thương sầu thảm để cho Chơn linh cha hoặc mẹ yên tâm, không vì quyến luyến tình thân ái nơi thế gian mà quên tìm về ngôi xưa vị cũ:

Thà cam vui chốn Động Đào,

Đừng vì nhớ trẻ trở vào phàm gian

                        (Kinh Tụng Cha Mẹ Đã Qui Liễu)

         Nếu thật sự con cái biết thương yêu cha mẹ, biết hiếu thảo cùng hai đấng song thân thì khi cha hoặc mẹ vừa mới mất, anh em trong gia đình phải biết thương yêu hòa thuận để lo tròn tang sự, nhứt là không nên tranh giành của cải, tài sản, gây sự bất hòa trong khi mà quan tài còn hiện tiền. Nếu điều này xảy ra thì Chơn thần người vừa mất sẽ đau buồn mà sinh ra điều sân hận, hễ bị sân hận thì Chơn linh khó định tâm hướng niệm Đức Chí Tôn.

         Ngoài ra, muốn làm người con chí hiếu, khi cha hoặc mẹ mất phải cố gắng chay lạt trong suốt thời kỳ tang lễ và tuần cửu để tránh sát sanh và chí thành cầu cho vong linh cha hoặc mẹ được siêu thoát. Sau tang lễ, trong vòng tuần cửu, nếu có điều kiện con cháu nên nỗ lực làm những việc từ thiện: Như hành hương cho Thánh Thất, hỷ hiến tiền bạc, ấn tống kinh sách, giúp đỡ người tàn tật, nghèo khó để tạo lập công đức mà hồi hướng cho Chơn linh cha hoặc mẹ đã quá cố.

         Về nghi thức tang sự đã có nhạc và lễ của Đạo Cao Đài cùng với Chức Việc Bàn Trị Sự sở tại lo chu toàn rồi, gia đình tang quyến không nên tổ chức rình rang để mong cầu lấy tiếng với người đời, mà thuê thêm những loại nhạc khác như nhạc Tiều, nhạc Tây đến biểu diễn, bởi vì các loại nhạc cụ này không lợi ích trong việc cúng tế và cầu siêu cho vong linh, trái lại còn gây thêm điều phí phạm. Chúng ta nên tiết kiệm để lo việc từ thiện và lo các nghi lễ Tuần Cửu và Tiểu Đại tường sau này.

IV.-THƯỢNG SỚ TÂN CỐ.

         Thiết lễ cầu hồn khi đã chết rồi xong, tang quyến phải đến Thánh Thất (Hoặc Đền Thánh), hoặc tại Thiên Bàn nơi tư gia người chết, xin dâng sớ Tân cố cho người vừa quy liễu vào thời cúng kế đó (Phải đem theo sớ cầu Đạo của người chết).

         Vị Chánh Trị Sự của Ban nghi lễ sở tại chứng đàn thượng sớ và cầu nguyện khi người chết từ phẩm Chánh Trị Sự xuống Đạo hữu.

         Vị Lễ sanh Cai quản Thánh Thất chứng đàn thượng sớ và cầu nguyện khi người chết là phẩm Lễ sanh hay tương đương trở lên.

         Thượng sớ Tân cố nhằm mang ý nghĩa: Dâng sớ lên Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng báo cáo một vị Đệ tử Đấng Cao Đài (Dĩ nhiên có sớ cầu Đạo vì đã minh thệ nhập môn) vừa mới quy vị, cầu xin Đại Từ Phụ, Đại Từ Mẫu và các Đấng Thiêng Liêng Địa Tang Vương Bồ Tát, Thất Nương Diêu Trì Cung cứu độ Chơn linh của vị ấy được siêu thăng thoát hóa.

         Sau đây chúng tôi chép lại nguyên văn bằng chữ Việt và Nho, rồi giải nghĩa bài mẫu sớ Tân cố. Sau đó hướng dẫn phần điền vào mẫu sớ văn.

ĐẠI  ĐẠO  TAM  KỲ  PHỔ  ĐỘ

(Bát thập......niên)

TAM GIÁO QUI NGUYÊN, NGŨ CHI PHỤC NHỨT

Thời duy

            Thiên vận ...(1)....niên, …...(2)…..ngoạt, ......(3)....nhựt, ...(4)...thời, hiện tại Việt Nam quốc, …(5)...tỉnh, ....(6)...huyện, ....(7)...xã, cư trụ ....(8)....chi trung.

            Kim hữu đệ tử .....(9)...., cộng đồng chư Chức sắc hiệp dữ Chức việc, Đạo hữu nam nữ đẳng quì tại .....(10)...., thành tâm trình tấu:

HUỲNH KIM KHUYẾT NỘI

HUYỀN KHUNG CAO THƯỢNG ĐẾ NGỌC HOÀNG ĐẠI THIÊN TÔN.

DIÊU TRÌ KIM MẪU VÔ CỰC THIÊN TÔN.

TAM TÔNG CHƠN GIÁO

TÂY PHƯƠNG GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI THẾ TÔN.

THÁI THƯỢNG ĐẠO TỔ TAM THANH ỨNG HÓA THIÊN TÔN.

KHỔNG THÁNH TIÊN SƯ HƯNG NHO THẠNH THẾ THIÊN TÔN.

TAM KỲ PHỔ ĐỘ TAM TRẤN OAI NGHIÊM

THƯỜNG CƯ NAM HẢI QUAN ÂM NHƯ LAI.

LÝ ĐẠI TIÊN TRƯỞNG KIÊM GIÁO TÔNG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

HIỆP THIÊN ĐẠI ĐẾ QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN.

GIA TÔ GIÁO CHỦ CỨU THẾ THIÊN TÔN.

THÁI CÔNG TƯỚNG PHỤ QUẢN PHÁP THIÊN TÔN.

TAM CHÂU BÁT BỘ HỘ PHÁP THIÊN TÔN.

THẬP PHƯƠNG CHƯ PHẬT, VẠN CHƯỞNG CHƯ TIÊN, LIÊN ĐÀI CHI HẠ.

CUNG VI

…..(11).....chi tuần, .....(12)…..tánh, ….(13).....niên canh, ..….(14)......tuế, nguyên sanh tại……(15).….., nhập môn …(16)...niên, ...(17)...ngoạt, ...(18).....nhựt, tại....(19)...., tùng thị pháp điều Tam Kỳ Phổ Độ, lập công bồi đức ......(20)............

            Kim triêu Thiên số chi kỳ, vãng ư....(21).....niên, ....(22).....ngoạt .....(23)........nhựt, .....(24).......thời nhi chung tại.....(25)........

            (Hiếu quyến hay Thân quyến).......(26)........khẩn thỉnh chư Chức sắc Thiên phong, hiệp dữ Chức việc, Đạo hữu nam nữ đẳng quì tại.....(27)......thành tâm cầu nguyện Đức Đại Từ Phụ, các Đấng Thiêng Liêng, Địa Tạng Vương Bồ Tát cứu độ vong hồn .........(28).........siêu thăng Tịnh độ.

            Chư đệ tử đồng thành tâm khấu bái cẩn sớ thượng tấu

                                                                        DĨ VĂN

Cách điền vào Sớ Tân cố:

         (1), (2), (3) và (4): Điền năm, tháng, ngày, giờ theo âm lịch. Ví dụ như: Kỷ Sửu niên, Chánh ngoạt Thập ngũ nhựt, Ngọ thời.

         (5), (6) và (7): Điền địa danh tỉnh, huyện, xã, sở tại của Thánh Thất. Ví dụ như Tiền Giang tỉnh, Chợ Gạo huyện, Hòa Tịnh xã.

         (8): Nếu thượng sớ nơi Thánh Thất thì điền Cư trụ: Thánh Thất chi trung. Nếu thượng sớ nơi tư gia thì điền Cư trụ: Gia đường chi trung.

         (9):Nếu là Chức sắc cai quản Thánh Thất thì điền như sau: Thọ Thiên ân Lễ Sanh Thái Y Thanh, cai quản Thánh Thất Họ Đạo…

         Nếu là Chức Việc thì điền như sau: Thọ Hồng ân Chánh Trị Sự Nguyễn văn X, Ban nghi lễ xã…

         (10): Nếu thượng sớ tại Thánh Thất thì điền Quì tại Điện tiền, nếu thượng sớ tại tư gia thì điền Quì tại Thiên Bàn.

         (11): Điền chữ Tân cố.

         (12): Điền họ tên người chết.

         (13): Điền năm sanh theo Âm Lịch. Ví dụ như Ất Dậu niên canh.

         (14): Điền số tuổi theo Nho văn. Ví dụ như 65 tuổi thì ghi Lục thập ngũ tuế.

         (15): Điền nơi sanh quán.

         (16), (17) và (18): Điền năm, tháng, ngày nhập môn bằng Âm lịch.

         (19): Điền nơi nhập môn.

         (20): Nếu là Chức sắc thì điền Lập công bồi đức thọ Thiên ân Lễ Sanh Thái Y thanh, nếu là Chức Việc thì điền Lập công bồi đức thọ phẩm Chánh Trị Sự.

         (21), (22), (23) và (24): Điền năm tháng ngày giờ qui vị theo Âm lịch.

         (25): Điền địa danh nơi mất.

         (26): Điền tên người quì sớ. Dùng chữ Hiếu quyến khi người chết là cha hoặc mẹ, dùng Thân quyến khi người chết là vợ hoặc chồng, hoặc anh chị người quì sớ.

         (27): Điền vào chữ Điện tiền hay Thiên Bàn tùy theo thượng sớ tại Thánh Thất hay tại tư gia.

         (28): Điền họ tên người chết.

VIẾT RA CHỮ HÁN:

         

(八十....... )

            ......., ......., ......., ..... , , ......, ......, ......, ............

            今有 ........................... , ........ :

                             

                             

                           西

                            

                          

                       

                       

                       

                       

                       

                       

                       

............., ..........., .........., ..….., …...., …...., …..., ....., ..….., ........ , ..............

            , ........., ......., .........., ......... ..................

            ( 眷或親眷)............... , , ......... , , ................. .

           

                                                                                    .

GIẢI NGHĨA:

ĐẠI  ĐẠO  TAM  KỲ  PHỔ  ĐỘ

(Năm Đạo thứ......)

TAM GIÁO QUI NGUYÊN, NGŨ CHI PHỤC NHẤT

Nay thời:

            Vận Trời năm......, tháng......., ngày......., …….giờ, hiện tại nước Việt Nam, tỉnh.…....., huyện.…...., xã…….., đang ở nơi ……………

            Nay có vị đệ tử thọ ........................., cùng chung các Chức sắc, hiệp với Chức việc, Đạo hữu nam nữ các cấp, quì trước..........., thành tâm tâu trình :

TRONG HUỲNH KIM KHUYẾT

Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn.

Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.

GIÁO CHỦ TAM GIÁO

Tây Phương Giáo Chủ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn.

Thái Thượng Đạo Tổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn.

Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.

BA TRẤN OAI NGHIÊM TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Thường Cư Nam Hải Quan Âm Như Lai.

Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông  Đ. Đ. T. K. P. Đ.

Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân.

Gia Tô Giáo Chủ Cứu Thế Thiên Tôn.

Thái Công Tướng Phụ Quản Pháp Thiên Tôn.

Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên Tôn.

Thập phương chư Phật, vạn chưởng chư Tiên, Liên đài chi hạ.

KÍNH CẨN VÌ

            .....(Tuần Đệ Nhứt Cửu)...Họ tên .........., sanh năm......., ……..tuổi, nguyên sanh tại............., nhập môn ngày.........., tại ......, tùng theo những điều Luật pháp của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, lập công bồi đức........

            Hôm nay gặp kỳ Thiên số định, qui liễu vào....giờ, ngày...…., tháng......, năm…...

            (Hiếu quyến hoặc Thân quyến)....họ tên........thành khẩn mời chư Chức sắc Thiên phong, hiệp với Chức việc, Đạo hữu các cấp quì tại.........thành tâm cầu nguyện cùng Đức Đại Từ Phụ, các Đấng Thiêng Liêng, Địa Tạng Vương Bồ Tát cứu giúp cho vong hồn........được siêu thăng Tịnh độ.

            Chư đệ tử cùng thành tâm cúi lạy, và kính cẩn dâng sớ          tâu lên.

                                                            Kính trình.

          Theo Bí pháp Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, một vị Tín đồ có nhập môn vào Đạo thì được Chí tôn nhìn nhận là một đệ tử Đấng Cao Đài, nên khi vừa qui liễu thì nơi vườn Ngạn Uyển Diêu Trì Cung có một bông hoa đã héo tàn. Do vậy, sự trở về cõi thiêng liêng của một Chơn linh theo Đạo pháp phải dâng sớ tâu trình với Đức chí Tôn, Đức Phật Mẫu và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật. Thượng sớ Tân cố nhằm mang ý nghĩa là thiết lễ để dâng sớ lên Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng báo cáo một vị môn đồ (Chức sắc, Chức việc hay Đạo hữu) vừa qui liễu và cầu xin các Đấng ban ơn cho Chơn linh người đệ tử Đấng Cao Đài được siêu thăng Tịnh độ.

         Muốn được thượng sớ Tân cố, người qui liễu phải có nhập môn, vì có nhập môn rồi các Đấng mới nhìn nhận và cứu độ cho.

         Việc lập thệ nhập môn vào Đạo rất quan trọng, Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có cho biết quỉ vương hiệp Tam thập lục động toan hại con cái của Thầy, vì vậy Thầy bảo: “Thầy sai Quan Thánh và Quan Âm đến gìn giữ các con, nhưng phần đông chưa lập Minh thệ, nên chư Thần, Thánh, Tiên, Phật không muốn nhìn nhận”.

         Như vậy, việc lập Minh thệ về mặt hữu hình người có nhập môn mới quyết tâm tu hành và luôn luôn giữ gìn luật pháp của nền Đại Đạo, về mặt thiêng liêng các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật mới nhìn nhận người đó là môn đệ Đức Chí Tôn, nên mới hộ trì cho lúc sanh tiền và độ rỗi cho Chơn linh khi quá vãng.

         Do có lời minh thệ, nên suốt kiếp sanh của người nhập môn lúc nào cũng phải giữ tròn Tân luật, Pháp chánh truyền, Ngũ giới cấm, Tứ đại điều qui…của Đạo và trọn lòng với Chí Tôn, Phật Mẫu.

         Vì vậy, vào phút đang hấp hối, người môn đệ của Đức Cao Đài phải định tỉnh tâm thần mà suy xét những hành vi lúc đương sanh xem có phạm vào lời minh thệ không. Nếu có thì phải sám hối, ăn năn sửa lỗi, nếu vẹn bề một môn đệ của Đức Chí Tôn thì phải thành khẩn cầu xin để được siêu thăng thoát hóa như lời Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối dạy:

Ăn năn sám hối tội tình,

Xét câu Minh thệ gởi mình cõi thăng.

V.-NGHI TIẾT TẨN LIỆM.

         Nếu dâng Sớ Tân cố tại Thánh Thất, thì ở nhà vẫn thiết lễ cúng thời bình thường, nếu dâng Sớ tại tư gia thì sau khi cúng xong mới thiết lễ Tẩn liệm.

         Vị chứng đàn cùng hai vị hầu lễ đến trước Thiên Bàn cầu nguyện Thầy. Đốt hai cây đèn sáp rồi giao cho hai vị hầu lễ cầm, vị chứng đàn bắt Ấn Tý, đứng trước đầu người chết tụng Kinh Tẩn Liệm (Dây oan nghiệt dứt rời…). Tụng ba lần, khi dứt niệm câu chú Thầy ba lần. Vị chứng đàn và hai vị hầu lễ trở lại Thiên Bàn xá Chí Tôn ba xá, rồi xả Ấn Tý, tắt hai cây đèn.

         Tụng bài Kinh Tẩn Liệm rồi tang chủ đến lạy vong linh, tay bắt Ấn Tý, lạy ba lạy (Nếu người chết giữ thập trai), hoặc bốn lạy (Nếu người chết ăn chay dưới 10 ngày), rồi sau đó Ban Đạo tỳ mới Tẩn liệm.

         Tùy hoàn cảnh gia đình của tang quyến mà tẩn liệm theo hai cách sau:

         TIỂU LIỆM: Vải bọc thi thể bên trong gồm:

            - Một đoạn dây tung, bề ngang nửa khổ vải, bề dài 4m80.

            - Một cái khâm, dùng hai khổ vải may kế lại, bề dài 4m40.

            - Ba đoạn dây hoành, bề dài mỗi đoạn 2m40. Dây hoành phải xé hai từ đầu vô 0m40 để buộc.

         ĐẠI LIỆM: Dùng vải bọc thêm một lớp bên ngoài gồm có:

            - Một đoạn dây tung, bề ngang nửa khổ vải, dài 4m80.

            - Một cái khâm, hai khổ vải may kết lại, bề dài 4m40.

            - Năm sợi dây hoành, bề ngang 1/3 khổ vải, bề dài 4m40.

         Dây tung dây hoành để y (không xé đầu), để buộc cho chắc. Khi buộc cần nhớ lòn cái mối để xuôi xuống, bắt đầu từ trên buộc xuôi xuống dưới chơn.

         Chuẩn bị các món đồ để liệm như sau: Một cái gối đầu, hai tấm áp nhĩ (ép hai bên lỗ tai), hai cây trường quấn bằng giấy súc, bề dài từ vai xuống tới đầu gối, nhiều kèn vấn bằng giấy súc.

         Trước nhứt đặt 5 sợi dây hoành đại liệm vô quan tài, phân từ trên xuống dưới cho đều khoản, mỗi sợi phải đặt mực trung tim đừng cho xê dịch, rồi trải sợi dây tung đại liệm, cứ mực trung tim. Xong trải cái khâm đại liệm, vẫn giữ mực trung tim. Như vậy đã trải xong phần đại liệm.

         Bây giờ trải đồ tiểu liệm: Đặt 3 sợi dây hoành tiểu liệm, cũng phân cho đều khoản, từ trên xuống dưới, kế trải sợi dây tung của tiểu liệm, rồi tiếp trải dây khâm của tiểu liệm.

         Đồ đại liệm và tiểu liệm trải xong, đặt vào quan tài 2 cây trường, một cái gối đầu, 2 tấm áp nhĩ. Chỗ nào trống thì vấn kèn bổ khuyết.

         Khi khởi sự liệm, nâng đỡ xác thân lên, để trên các món đồ liệm, sửa tay chân cho ngay thẳng, để kèn vào ép cho chặt. Đắp mí khâm bên tả qua trước, đắp mí khâm bên hữu qua sau, phủ mí dưới chân lên trước, phủ mí trên đầu xuống sau. Dây cũng vậy, mí dưới phủ trước, mí trên phủ sau.

         Nhớ khi buộc sợi dây hoành bên tả choàng trên, sợi dây bên hữu choàng dưới, hai sợi dây choàng nhau hai bận rồi gút lại, để cái mối xuôi xuống, bắt đầu từ trên đầu buộc xuống dưới chân. Hễ tiểu liệm buộc rồi, thì đến đại liệm cũng buộc y như vậy.

         Khi liệm xác, cần phải dùng vải bao tay hay chân người mất, phải mang vớ là để sau này cốt xương tay hay cốt xương chơn khỏi bị rơi mất.

         Nếu người chết là vị Đạo Hữu, thì trong cho mặc áo bà ba, ngoài tẩn bộ Đạo phục trắng (Áo dài trắng và quần dài trắng); nếu người chết là vị Chức Việc hay Chức Sắc thì khi tẩn cho mặc bộ Đại phục theo phẩm cấp ở bên ngoài; nếu người chết là vị Chức Việc mãn nhiệm (Cựu Chức Việc) giữ thập trai thì tẩn cho mặc bộ Đại phục như Chức Việc đương quyền nhưng không có dây ren, không sắc lịnh Tam thanh.

         Chức Việc không giữ đủ thập trai, khi qui vị, lễ tang thực hiện theo nghi Bạt tiến, không tẩn Đạo phục chức Việc, không đắp Phủ quan dành cho hàng Chức Việc mà đắp Phủ quan đen, nơi Thánh Thất không dộng chuông báo tử.

         Chức Sắc, Chức Việc ở nơi giáo phận nào thì Chức Việc và Ban Cai quản Thánh Thất, Điện Thờ Phật Mẫu nơi đó nếu biết được đương sự không giữ đúng trai giới theo luật Đạo, phải đến nhắc nhở để đương sự sửa chữa. Nếu không kết quả, Ban Cai quản Thánh Thất trình lên Hội Thánh quyết định.

         Điều cần nhứt, trước khi tẩn liệm thân nhân phải rờ kỹ ngực người chết xem còn nóng hay không. Nếu còn chút hơi ấm thì phải tạm ngưng việc tẩn liệm.

         Theo nghi lễ năm 91, việc tẩn liệm y như trên nhưng các dây tung và hoành không buộc gút, chỉ ém vải cho thẳng và chặt mà thôi. Khi tẩn liệm xong, linh cữu quàn tại Đường, đầu quay trở vô.

          Sự Tẩn liệm mang ý nghĩa là trân trọng quý báu thi hài của người mất. Người xưa, nhà giàu thì dùng vóc nhiễu, tơ lụa, nhà nghèo thường dùng vải trắng để khâm liệm người chết. Ngày nay, tín đồ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ theo nghi tiết giản tiện, tùy theo gia cảnh, chỉ dùng vải trắng để tiểu liệm hoặc đại liệm cho thi hài người chết mà thôi. Người Đạo nếu nhà dư ăn dư để chẳng nói làm chi. Đến như những nhà bần hàn cơ cực, kẻ hành sự nên sáng suốt, biết biến chế, bỏ cái này, thay cái kia; giấy vải dùng thứ nhẹ tiền, dùng một lớp vải tiểu liệm đủ rồi, không cần phải thêm lớp vải đại liệm làm chi. Điều cần nhứt là  việc làm phải kỹ càng, thi hài được bao bọc an toàn, kín đáo. Cây trường và kèn dùng rơm làm nòng, ngoài bao giấy để bớt tốn kém (1).

         Tục người xưa thường muốn giữ gìn thể hài người chết cho được lâu bền, nên mới có lệ chôn người một thời gian rồi cải táng (tục miền Bắc), bởi vì có nhà lúc chết không tiền lo liệu, chôn tạm một cỗ quan xấu, đợi xong ba năm thì cải táng, kẻo sợ ván hư nát thì hại đến di hài.

         Theo tam thể xác thân, chúng ta biết Chơn thần là tạng chứa dục vọng, nên khi người mất nếu không duyên phần, không người nhắc nhở thì thường hay luyến tiếc xác thân, không nỡ xa lìa nó. Chính vì vậy, Phật giáo thường khuyên nên hỏa táng (2), còn nếu thổ táng thì phải dùng tạm cỗ áo quan bằng gỗ thường vừa nhẹ nhàng vừa đỡ phí tổn, lại vừa mau hư mục để thi hài dễ tiêu hoại hầu Chơn thần sớm xa lìa khỏi hài cốt. Chính vì vậy, nhiều người có Tôn giáo thường ngại dùng quan tài bằng xi măng hay nhựa, nhứt là liệm xác trong bọc ni lông, bởi họ cho rằng hài cốt lâu rã mục.

         Theo Thọ Mai Gia Lễ, khi liệm có người thường lót trong quan tài một tấm ván dầy ba phân vừa với lòng khuôn hàng, trong tấm đó có đục 7 lỗ, tượng hình ngôi sao Thất tinh Bắc Đẩu để thi hài người mất nằm. Chúng ta biết sao Bắc Đẩu là nơi ngự của Thượng Đế, nên việc lót tấm Thất tinh, người xưa quan niệm rằng thi hài người chết được trở về ngôi vị cũ, kề cận với Đức Thượng Đế.

         Điều này là nghi thức của người đời, do ảnh hưởng của dị đoan mê tín, bởi triết lý Cao Đài cho rằng Chơn linh người chết mới có thể qui hồi cựu vị được, nên pháp Đạo đã tụng niệm để siêu rỗi, chứ hình hài là khối vật chất sẽ hư hoại mà trở về với đất. Như vậy, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ không chấp nhận thi hài người mất là một xác thúi nằm trên ngôi Thất tinh Bắc Đẩu, vì nơi đó rất thiêng liêng, là chỗ ngự của Thiên Nhãn Thầy.

         Việc tẩn liệm theo Cao Đài nên bỏ tục lệ coi giờ kiên tuổi, không nên để quan tài ở nhà lâu ngày, thời gian thực hiện tang lễ theo luật Đạo là ba hôm. Nếu quàn tại nhà quá lâu chẳng những thêm tổn phí cho tang sự, mà quan tài có thể bị xì hơi gây truyền nhiễm về tử khí và làm mất vệ sinh cho mọi người chung quanh.

         Nho Giáo ngày xưa rất trọng những nghi thức tang lễ, nhưng không vì thế mà trở nên cứng ngắt chẳng thay đổi được. Như chúng ta biết, hình thức tang lễ phải có một số quy cách và nghi thức chung, nhưng các quy cách và nghi thức không có nghĩa là không thay đổi được, mà phải tùy tiền bạc, sức lực của mỗi người. Và không thể căn cứ trên phương diện đủ và thiếu của quy cách tang chế mà xét định về chữ hiếu của con người. Câu chuyện Đức Khổng Tử luận bàn về tang lễ và chữ hiếu sau đây cho ta thấy điều đó.

         Tử Lộ nói: Những người nghèo không có tiền thật đáng thương! Khi cha mẹ còn sống chẳng có cách nào phụng dưỡng tốt, đến khi cha mẹ mất cũng không làm được đám tang hợp với lễ nghi đã quy định.

         Khổng Tử cho rằng: Khi cha mẹ còn sống chỉ ăn chút cháo đỡ đói, chỉ uống nước lã đỡ khát, song nếu con cái làm cho tinh thần cha mẹ thỏa ý, cuộc sống vui vẻ thì cũng gọi là tận hiếu rồi. Khi cha mẹ mất đi, chỉ cần có đủ áo quần mặc cho thân từ đầu đến chân rồi chôn cất bất kể lúc nào, hoặc giả thậm chí chưa chuẩn bị kỹ thì cũng chẳng sao vì với tiền của hiện có đã gắng hết sức mình làm lễ tang thì như vậy đã hợp tình rồi. Tử Lộ viết: “Thương bần dã! Sanh vô dĩ vi dưỡng, tử vô vi lễ dã”. Khổng tử viết: “Hấp thụ ẩm thủy, tận kỳ hoan. Tư chi vị hiếu, liễm tục tác hình, hoàn táng nhi vô hanh, xưng kỳ tài, tư chi vị lễ” (Đàn Cung Hạ).

         Lại có người nuôi dưỡng cha mẹ đầy đủ, song không có lòng tôn kính thì sao có thể coi là tận hiếu được? Đến khi cha mẹ chết thì làm lễ khoa trương tốn kém, thậm chí vượt quá tiêu chuẩn xem như vậy có phù hợp lễ nghi hay không? Vì thế, phải xem là có hợp lễ nghi hay không là do hoàn toàn từ tấm lòng coi có thành ý hay không, chứ không phải giàu hay nghèo.

         Nói như vậy làm lễ táng không có tiêu chuẩn cố định hay sao? Khổng Tử mới trả lời: Làm lễ táng phải xem trong nhà của cải thế nào mà định đoạt. Gia đình giàu có thì làm linh đình một chút, gia đình nghèo khó thì làm đơn giản một chút.

         Lễ táng tất nhiên là có tiêu chuẩn quy cách, song những nhà giàu có đòi hỏi thích hợp mà không phải vượt quá tiêu chuẩn là được. Nếu là nhà nghèo khó chỉ cần một cỗ áo quan đơn giản, khâm liệm người chết từ đầu đến chân, và chôn cất lúc nào cũng được. Bởi lẽ bất luận là nhà giàu có hay nghèo túng cũng đều làm hết sức mình thì còn ai trách móc là không đúng tiêu chuẩn.

VI.-ĐẮP PHỦ QUAN.

         Sau khi tẩn liệm xong, quan tài được đậy nắp kỹ càng, rồi đặt vào một vị trí trong gian nhà, tùy theo tôn ty của người chết.

         Theo Đạo Cao Đài, trên quan tài của người chết còn phải đắp một tấm Phủ quan, rồi đặt lên một giá đèn đốt chín (9) ngọn. Dưới quan tài có thắp một cây đèn để ngay chín giữa, kêu là đèn khử trược lưu thanh. Đèn này khi thắp nên dùng dầu phọng thì tốt hơn hết.

         Phủ quan là một tấm vải để phủ lên quan tài có hình vuông, mỗi cạnh 1m20, bốn bề viền ren, chính giữa may một hình Thiên nhãn có mười hai tia hào quang. Thiên nhãn được thêu theo đường chéo của tấm vải vuông. Đắp Phủ quan phải đặt cái góc có chơn mày Thiên nhãn về phía đầu quan tài (tức là đầu người chết), góc kia hướng về chơn và hai góc còn lại phủ xuống hai bên hông quan tài.

         Trước khi đắp Phủ quan, người chứng lễ phải lấy tấm Phủ quan đặt vào một cái mâm để trước Thiên Bàn, rồi vào cầu nguyện Đức Chí Tôn ban ơn lành cho người mất. Sau đó đấp lên nắp quan tài, chân mày của Thiên Nhãn hướng về đầu của người mất.

         Phủ quan được Hội Thánh may sẵn, có năm loại màu: Vàng, xanh, đỏ, trắng, đen. Khi đắp Phủ quan màu gì thì treo diềm trên thuyền Bát Nhã màu ấy.

         a/. Phủ quan màu vàng:

            - Chức Sắc Cửu Trùng Đài Nam, phái Thái.

            - Chức Sắc Phước Thiện Nam, Nữ mang dây sắc phái màu vàng, như phẩm: Hiền Nhơn, Thánh Nhơn, Tiên Tử.

         b/. Phủ quan màu xanh:

            - Chức Sắc Cửu Trùng Đài Nam, phái Thượng

            - Chức Sắc Phước Thiện Nam, Nữ mang dây sắc phái màu xanh như phẩm: Chí Thiện, Đạo Nhơn, Chơn Nhơn.

         c/. Phủ quan màu đỏ:

            - Chức Sắc Cửu Trùng Đài Nam, phái Ngọc.

            - Chức Việc Bàn Trị Sự Nam phái và phẩm tương đương.

            - Chức Sắc, Chức Việc Phước Thiện Nam, Nữ mang dây sắc phái màu đỏ như phẩm: Thính Thiện, Hành Thiện, Giáo Thiện.

            - Chức Sắc Ban kiến trúc, Bộ Nhạc và Bảo Thể, Đầu phòng văn.

         d/. Phủ quan màu trắng:

            - Chức Sắc và Chức Việc Nữ phái Cửu Trùng Đài.

            - Chức Sắc Hiệp Thiên Đài và Chức Sắc Ban Thế Đạo.

         e/. Phủ quan màu đen:

            - Đạo hữu Nam, Nữ.

            - Đạo sở, Minh Đức, Tân Dân.

            - Thơ ký…

          Khi mở nền Đại Đạo, Đức Chí Tôn Đại Ân Xá và mở cơ tận độ cho toàn thể chúng sanh. Do vậy, mọi Tín đồ Cao Đài may duyên sanh nhằm thời kỳ nầy đều được Đức Chí Tôn tận độ khi còn sống hay siêu rỗi lúc đã chết rồi. Thể pháp hưởng đặc ân thiêng liêng của Đức Thượng Đế ban cho người chết được thể hiện trong Đạo Cao Đài là đắp tấm Phủ quan từ lúc tẩn liệm xong, quan tài đậy nắp, và trong suốt những ngày hành tang lễ, cho đến khi quan tài chuyển đi hạ huyệt.

         Như chúng ta biết, Thiên Nhãn tượng cho Đức Chí Tôn. Thờ Thiên Nhãn là thờ Đức Chí tôn, mà hễ thờ Đức Chí Tôn thì phải để Thiên Nhãn nơi trang trọng và tôn nghiêm. Thế mà tại sao Khách Đình là nơi quàn xác, ô trược, nhiều âm khí mà lại thờ Đức Chí Tôn? Và tại sao chỉ thờ Thiên Nhãn của Thầy mà không có thờ ba vị Giáo Chủ và Tam Trấn Oai Nghiêm như các nơi khác? Còn tấm Phủ quan sao lại thêu hình Thiên Nhãn đậy trên quan tài người chết, là nơi uế trược và nơi đầy sự khổ đau?

         Đức Hộ Pháp giảng Đạo tại Đền Thánh vào rằm Trung ngươn năm Nhâm Thân (1932), có cho biết như sau: “Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ vì quá thương yêu con cái của Ngài, nên Ngài lén Thiên Đình đi xuống Khách Đình để cứu độ con cái của Ngài trở về, bấy lâu nay con cái của Ngài say đắm thế trần, lao vào các dục vọng của thể xác, không còn nhớ đến ông Cha Thiêng Liêng đang ngày đêm trông đợi. Cũng có khi con cái có nhớ tới Đại Từ Phụ, nhưng vì thân mang nhiều tội lỗi nên không dám đến gần ông Cha Thiêng Liêng, cứ chạy trốn hoài, thế thì giờ đây, xác thân đã đến Khách Đình, thì hết còn nơi tránh né, và Đại Từ Phụ lén xuống đây để cứu độ các con cái của Ngài, thể hiện lòng thương vô bờ bến”.

            Lo cho nó nên Phật, nó cứ muốn làm ma

            Lo cho nó thành Trời, nó cứ ham làm quỉ.

            Nỗi buồn tình ấy tả sao cho nổi

            Gần hung ác tập rèn quen tánh,

            Chỉnh lấy thân yếu mạnh so đời,

            Không lương tâm, nào biết ngó Trời.

            Theo thân thể trọn đời làm quỉ.

            Thấy như thế, già tuôn giọt lệ,

            Lại hiểu con chẳng nghĩ đến mình

            Gạt lệ rơi về tạm Khách Đình,

            Chẳng cho trẻ biết hình biết dạng…”.

         Việc đắp tấm Phủ quan lên quan tài người chết cũng giống như ý nghĩa thờ Thiên Nhãn nơi Khách Đình: Đức Chí Tôn vì quá thương yêu con cái nên một mình rời Thiên Đình xuống trần gian, không nệ chỗ uế trược đến độ rỗi con cái của Ngài lúc quá cố hồn lìa khỏi xác, để trở về cùng Ngài mà Tam vị Giáo Chủ và Tam Trấn Oai Nghiêm không hay biết.

Chính Thánh giáo Đức Chí tôn có nói rằng: “Thà là thầy đến ở chung cùng các con, chia đau sớt thảm, hơn là ngồi xem các con phải chịu đọa lạc trầm luân”. Cho nên đắp tấm Phủ quan trên quan tài nhằm mang ý nghĩa Chí Tôn đến che chỡ và độ rỗi cho chúng sanh từ khi sống đến khi qui vị rồi, Chí Tôn cũng không nỡ xa lìa khi chúng sanh đau đớn khổ sở.

         Như vậy, việc đắp Phủ quan về mặt hữu hình, màu sắc phân biệt cho biết sắc phái của Chức sắc, hay phái nam, phái nữ; về mặt vô vi, trong tấm Phủ quan có thêu hình Thiên Nhãn tượng trưng cho Đức Chí Tôn là để thể hiện tấm lòng thương yêu vô bờ bến của Đấng Đại Từ Phụ đối với con cái của Ngài chịu nhiều đớn đau, khổ sở. Tình cảm thiêng liêng đó Ngài không nệ gian lao, uế trược, Ngài đến để ôm ấp thể hài của đứa con vừa mới mất cho ấm áp tình thương yêu, và cũng để dìu dắt linh hồn đứa con ấy trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

         Việc đắp tấm Phủ quan còn thể hiện được nền chánh pháp Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, đó là sự Đại Ân Xá Kỳ Ba và sự tận độ cho toàn cả vạn linh của Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và các Đấng Thiêng Liêng trong thời Hạ ngươn mạt Pháp này.

         Sau khi đã hạ huyệt, muốn thu hồi tấm Phủ quan, người chứng lễ đợi khi tụng ba biến Vãng Sanh Thần Chú, niệm ba câu chú Thầy xong, bước đến ngang quan tài xá Thiên Nhãn trên tấm Phủ quan ba xá rồi mới thu lại xếp cất.

VII.-NGHI THỨC BÀN VONG.

         Bàn vong hay Bàn linh là một cái bàn thờ tang, đặt trước linh cữu người chết trên đó có thiết đặt một Linh vị và trước Bàn vong có treo một tấm vải trắng có viết chữ Nho, gọi là tấm Phủ nghi.

      A. BÀN VONG:

         Trước nhứt đặt một cái bàn nhỏ, gọi là bàn độc trước Linh cữu để dọn cơm canh cúng tế cho người chết. Kế đó, đặt trước bàn độc một cái ghế nghi, gọi là Bàn vong hay Bàn linh. Trên Bàn vong ở giữa phía bên trong đặt một tấm Linh vị, bên trái Bàn vong là bình hoa, và bên phải là đĩa quả. Hàng kế, ở giữa để một cây đèn vọng. Hàng tiếp theo, ở giữa có một ly nước trà và một ly rượu. Hàng ngoài cùng ở giữa đặt một lư hương và hai bên là cặp chân đèn.

         Bên trái của Bàn vong (trong nhìn ra), có buộc một cây tre trên treo một lá phướn Thượng Sanh, nếu người chết ở phẩm Lễ Sanh, Chức Việc hay Đạo Hữu. Nếu người chết ở phẩm Lễ Sanh hay tương đương thì có thêm một cây lọng. Còn người chết là phẩm Giáo Hữu hoặc tương trở lên thì bên phải Bàn vong buộc cây phướn Thượng Phẩm.

         Trước Bàn thờ vong có treo một tấm vải trắng từ trên ghế nghi phủ xuống đất, trong đó có viết chữ Nho hoặc chữ Việt cũng được, gọi là tấm Phủ nghi.

         Thiết lập Bàn vong xong thì tang quyến phải đốt đèn nhang không bao giờ dứt để thể hiện lòng hiếu kính của con cái đối với người quá cố và để vong linh được ấm áp. Và hằng ngày buổi sáng và buổi chiều đều có bày cơm canh để hiếu quyến cúng vong linh, gọi là cúng triêu, tịch. Lễ cúng này hành theo nghi châm chước, có hai lễ sĩ xướng, đồng nhi tụng một hay ba bài kinh thế đạo.

         Sau khi khiển điện, quan tài được đưa đi chôn cất xong, Bàn vong này phải được đặt đúng vào vị trí trong nhà tùy theo tang quyến phụng thờ người chết cho đến ngày mãn tang, đó gọi là an sàng hay an vị Linh tọa.

          Theo Đạo Cao Đài, cái bàn độc và chiếc nghi đặt trước Linh cữu được gọi là Bàn vong hay Bàn linh, dùng bày cơm nước, hoa quả hay nhang đèn cúng vong hồn người quá cố.

         Nhưng có một số người Đạo ở địa phương, không am tường lý Đạo, hoặc các Thầy tụng bên Phật giáo cho rằng chiếc bàn đó là bàn thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát, thậm chí cũng có những thầy cúng đặt lên đó bức hình Địa Tạng mặc dù trước bàn vẫn có tấm Phủ nghi thờ người chết và khi tế lễ cho vong linh vẫn cắm nhang trên lư hương đó.

         Việc lấy Bàn vong để lập Bàn Địa Tạng, chúng ta thấy là điều thất lễ với Đấng Thiêng Liêng vì đặt trước linh cữu, và lại khiến vong linh người quá cố cũng không dám ngự nơi đó. Và làm như vậy, người đến quì tế lễ trước linh cữu không biết mình cúng lạy Địa Tạng Vương Bồ Tát hay cúng lạy vong linh người chết.

         Đối với nghi lễ Cao Đài (không có Bàn thờ Địa Tạng), khi quan tại tiền thì tang quyến và toàn Đạo cầu siêu trước Bàn linh, tức là tang quyến quì tay bắt Ấn Tý, Chức Sắc, Chức Việc và toàn Đạo nam nữ, tay cũng bắt Ấn Tý đứng hai bên Bàn linh theo phái mà cầu vô vi Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát, tụng bài Kinh Cầu Siêu và bài Kinh Cầu Hồn Khi Đã Chết Rồi để siêu rỗi cho người chết. Chỉ khi nào Linh cữu đã hạ huyệt xong về nhà, tới ngày Tuần cửu mới cầu siêu cho vong linh nơi Thiên Bàn bằng những bài Kinh tụng Cửu.

      B. LINH VỊ:

         Tang lễ người đời chuộng về hình thể, nên ngày xưa người ta thường thiết hồn bạch, tức là một tấm vải lụa dùng đắp cho người sắp mất, sau đó làm thành hình người để trên Bàn vong cúng tế. Còn chánh pháp của Đạo Cao Đài chuộng về vô vi, nên mượn cái hữu hình là Linh vị để thể hiện cho vong hồn người chết là thể vô vi.

         Linh vị hay Bài vị, ngày xưa còn gọi là Thần chủ hay Mộc chủ, người ta thường làm bằng miếng gỗ, trong ấy có khăc chữ Nho tên họ, ngày sanh, ngày mất của người chết, để sau khi mãn tang rồi mới đặt trên Bàn thờ hầu linh hồn người mất nương tựa vào nơi đó để con cháu cúng giỗ.

         Riêng Đạo Cao Đài chỉ thờ Linh vị trong tang lễ và các tuần cửu mà thôi, nên Linh vị được làm bằng mảnh giấy nhỏ (có mẫu), trong đó đề tên họ, phẩm vị, tuổi, ngày tháng sanh, nơi sanh, ngày tháng chết, nơi chết, và ngày nhập môn của người quá cố. Tấm Linh vị này được cắm vào một cái lon, rồi đặt vào trong một cái khay vuông, gọi là khay Linh vị.

         Mẫu Linh vị được chia làm ba cột: Cột giữa dành để ghi tên họ, tuổi người chết, cột bên phải ghi ngày tháng năm và nơi chết, cột bên trái ghi ngày tháng năm và nơi sinh của người chết. Phía dưới ghi ngày tháng năm và nơi nhập môn.

         Ví dụ: Linh vị của Đạo Hữu chết, viết bằng Nho văn theo mẫu sau:

         Cột bên phải:

         Tử ư: Kỷ Sửu niên thập nhất ngoạt nhị thập bát nhựt mẹo thời nhi chung.tại Hòa Tịnh Xã.

         Cột giữa:

         Cố Đạo Hữu: Nguyễn văn Thi hưởng hạ thọ lục thập ngũ tuế.

         Sanh ư: Ất Dậu niên canh, Tây Ninh tỉnh, Hòa Thành huyện, Long Thành Xã.

         Cột bên trái:

         Hàng phía dưới ghi:

         Nhập môn: 15-3-Giáp Thìn.

         Ghi chú:

         Cột giữa trong Linh vị hay bảng ghi tên họ người chết dán trước Thiên Bàn để cầu nguyện thường viết:

         - Cố tánh trước tên họ, nếu người chết là vị Tín đồ ăn dưới mười ngày chay, hay người ngoại Đạo.

         - Cố Đạo Hữu trước tên họ, nếu người chết là vị Tín đồ ăn chay đủ 10 ngày.

         - Cố Chánh Trị Sự. hay Cố Phó Trị Sự hay Cố Thông Sự trước tên họ, nếu người chết là vị Chức Việc Ban Trị Sự giữ đủ thập trai.

         - Cố Lễ Sanh trước Thánh danh, nếu người chết là vị Chức Sắc hàng phẩm Lễ Sanh.

         Và sau đây là bảng phân tuổi theo cách viết hưởng thọ:

         ▪ Dưới 61 tuổi …………….Hưởng linh 享齡hay Hưởng dương 享陽.

         ▪ Từ 61 đến 70 tuổi ……........Hưởng hạ thọ 享 下 壽 hay Hưởng thọ 享壽.

         ▪ Từ 71 đến 80 tuổi ………….Hưởng trung thọ享 中 壽.

         ▪ Từ 81 đến 90 tuổi .............Hưởng Thượng thọ 享 上 壽.

         ▪ Từ 91 đến 100 tuổi ……….Hưởng mạo 享耄.

         Hội Thánh không có quy định về cách thiết lập khay Linh vị này, nên tùy theo ý mỗi người, có cách sắp xếp khác nhau.

         Như ta biết, khay Linh vị là tượng cho vong linh, chớ không phải dùng để thờ cúng người chết, nên trong khay không cần để những cúng phẩm như trái cây và trà rượu, mà chỉ cần tấm Linh vị, cây đèn và lư hương là đủ rồi, nhưng có người thêm vào một bình hoa và một đĩa quả để thể hiện sự trang nghiêm của khay vong linh.

         Nếu vậy, chúng ta nên thống nhứt khay Linh vị chỉ cần đủ năm món là Linh vị, một cây đèn dầu, một bình hoa nhỏ, một dĩa quả, một lư hương là đủ rồi, không cần trà rượu, vì đó là cúng phẩm cho vong linh đã có thiết trí trên Bàn vong rồi.

         Khi có tụng Kinh Di Lặc trước Thiên Bàn, tang quyến phải thỉnh Linh vị trên Bàn vong đặt vào khay và cắm ba cây nhang để Chơn linh người mất nương vào đó cùng với toàn Đạo cầu xin Chí Tôn, các Đấng Thiêng Liêng, Địa Tạng Vương Bồ Tát cứu hộ cho linh hồn được siêu thăng Tịnh độ. Do lý sống sao thác vậy, nên Khay Linh vị được đặt trước Điện tiền hay Thiên bàn theo nghi nam tả nữ hữu, và trước khay, người ta phải để một cái gối thể hiện như Chơn linh người chết đang quì cúng lạy vậy.

         Sau khi an táng Linh vị vẫn được thờ tại Bàn vong để làm tuần cửu, cho đến ngày mãn tang, Linh vị mới được đốt trước Điện tiền hay Thiên bàn.

          Căn cứ quyển Quan Hôn Tang Tế của Hội Thánh, (1) tang lễ ngày xưa có nghi thiết hồn bạch, tức là lấy một miếng vải lụa trắng (đã được đắp trên người lúc gần mất) kết lại thành hình người có đầu và hai tay, hai chơn, đặt trước linh sàng để cúng lạy.

         Nho giáo cho rằng con cháu hiếu thảo phải thờ người chết như lúc sống (Sự tử như sự sanh ), nên việc tạo hồn bạch theo cổ lễ là dựa theo ý nghĩa đó. Thậm chí những nhà giàu có còn thiết linh sàng (Giường nằm cho người mất) ở phía đông nhà, có đủ mùng màn chăn gối, để hằng ngày làm lễ triêu tịch điện, tức buổi sáng bưng chậu nước, khăn mặt vào chỗ giường nằm khóc ba tiếng, rồi rước hồn bạch ra linh tọa (Bàn đặt trước linh cữu), mới dâng cúng, buổi tối dâng cúng xong, lại rước hồn bạch trở lại linh sàng, buông màn đắp chăn rồi mới nghỉ. Đây là việc làm hiếu theo tục xưa của người đời, nặng về hình thức, còn đối với Cao Đài Giáo, việc làm hiếu cho người chết là việc vô vi, tức là độ rỗi phần Chơn linh cho người đã chết.

         Để mượn làm hình ảnh người quá cố thì Đạo cho lập khuôn hình chân dung treo trước Linh cữu và thiết một tấm Linh vị để trên Bàn vong, tượng Chơn hồn người mất. Khi cúng thời hay tụng Di Lạc Chơn Kinh tại Thiên bàn, thỉnh Chơn linh qua đó cùng với toàn Đạo cầu Chí Tôn độ rỗi cho để được siêu thăng thoát hóa.

         Người xưa quan niệm rằng, người chết thì vong hồn thoát khỏi thi thể, cho nên phải làm Hồn bạch để linh hồn người chết dựa vào đó. Khi làm lễ đề chủ tức là lễ viết vào Thần chủ, hay bài vị xong, vong hồn người chết ở Hồn bạch sẽ qua nương tựa ở Thần chủ, Hồn bạch được đốt đi và từ đó người ta thờ cúng Thần chủ trên Bàn thờ.

         Trong tang lễ Cao Đài không dùng Hồn bạch, chỉ viết Linh vị để thờ. Khi hạ huyệt, Linh vị được đem về thờ tại Bàn vong để sau này hành lễ các tuần cửu, Tiểu, Đại tường cho đến lúc mãn tang, Linh vị mới được vị chứng lễ đốt trước Thiên Bàn để cầu nguyện cho Chơn linh người quá cố được vãng sanh Cực Lạc. Sau đó, người nhà sẽ dẹp Bàn thờ tang để thỉnh vong linh người mất đem thờ nơi Bàn thờ trong nhà để cúng giỗ hằng năm. Trên Bàn thờ người chết, ngày xưa người ta thờ bằng Thần chủ hay Mộc chủ, nhưng hiện nay, để tiện lợi người ta thường họa chân dung người mất để trên Bàn thờ cúng lạy.

      C. PHỦ NGHI:

         Phủ nghi là một tấm vải trắng che trước Bàn vong, trong đó người ta viết những câu nói về ý nghĩa sự chết, hay sự buồn đau, hay sự thương nhớ (Xem hình mẫu ở trang sau).

         Từ trước đến nay Phủ nghi thường được viết bằng chữ Nho, chỉ một vài nơi vì không người biết Hán tự nên phải viết bằng chữ Quốc ngữ.

         Hàng ngang trên tấm Phủ nghi người ta thường viết bốn chữ: “” (Tang trí kỳ ai), nghĩa là cử hành lễ tang phải hết sức bi ai. Bốn chữ này được mượn trong câu nói của Đức Khổng Tử: “Hiếu tử chi sự thân, cư tắc trí kỳ kính, dưỡng tắc trí kỳ lạc, bệnh tắc trí kỳ ưu, tang tắc trí kỳ ai, tế tắc trí kỳ nghiêm”, (, , , , , ), nghĩa là người con hiếu thờ cha mẹ, lúc ở thì hết lòng cung kính, khi nuôi thì hết sức vui vẻ, khi bịnh thì hết lòng lo lắng, khi mất thì hết sức bi ai, lúc tế thì hết mực nghiêm kỉnh.

         Nhiều cách trình bày, có người vẽ một vòng tròn lớn ở phần dưới tấm Phủ nghi, trong đó tùy theo người chết, người ta thường viết hoặc một bài Kinh Thi, hoặc một bài văn tế, hoặc một cặp câu đối…ngụ ý về việc tang, tỏ sự đau buồn…

Ví dụ:

      1.- Mượn một bài văn tế:

         Sau đây là bài văn tế của Mạc Đỉnh Chi: (1)

                                       ,

                                       ,

                                       ,

                                       .

                                       !

                                       , ,

                                       , !

                              Thanh thiên nhất đóa vân,

                              Hồng lô nhất điểm tuyết,

                              Thượng uyển nhất chi hoa,

                              Dao trì nhất phiến nguyệt.

                              Ô hô!

                              Vân tán, tuyết tiêu,

                              Hoa tàn, nguyệt khuyết!

         Nghĩa là:

                              Một đám mây trên trời xanh,

                              Một giọt tuyết trong lò hồng.

                              Một cành hoa ở vườn Thượng uyển,

                              Một vầng trăng ở dưới ao Tiên.

                              Than ôi!

                              Mây tản, tuyết tan,

                              Hoa tàn trăng khuyết!

      2- Mượn một bài cổ thi:

                                       .

                                       .

                                       .

                                       .

                              Xuân du phương thảo địa,

                              Hạ thưởng lục hà trì.

                              Thu ẩm Hoàng hoa tửu,

                              Đông ngâm Bạch tuyết thi.

         Nghĩa là:

                              Xuân chơi miền cỏ thơm

                              Hạ thưởng ao sen lục.

                              Thu uống rượu Hoàng hoa.

                              Đông ngâm thơ Bạch tuyết.

      3- Mượn sách Thánh Hiền thờ cha mẹ:

                                 ,

                                 ,

                                 ,

                        Phụ hề sanh ngã, mẫu hề cúc ngã.

                        Ai ai phụ mẫu, sanh ngã cù lao.

                        Dục báo thâm ân, hạo thiên võng cực.

         Nghĩa là:

                     Cha sinh ta! Mẹ nuôi ta!

Thương thay cha mẹ, sinh ta khó nhọc

Muốn báo ân sâu, Trời cao không dứt.

      4- Một cặp đối thờ cha mẹ.

                                 !

                                 椿,

                                 西.

                        Ô hô!

                        Xuân tạ bắc đường hàn sương tỏa,

                        Vụ trầm tây hải mạc nghi phong.

         Nghĩa là:

                     Than ôi!

                     Cây xuân từ tạ nhà bắc, sương lạnh tỏa,

                     Sao vụ nữ chìm biển tây, màn nghi phong.

      5- Một cặp đối vợ thờ chồng:

                                    !

                                    ,

                                    .

                           Ô hô!

                           Lĩnh vân hữu ý phùng quân diện,

                           Hải nguyệt vô tình phụ thiếp tâm.

         Nghĩa là:

                           Than ôi!

                           Mây đảnh có ý gặp mặt chàng,

                           Trăng bể vô tình phụ lòng thiếp.

      6- Một cặp đối chồng thờ vợ:

                                    !

                                    ,

                                    .

                           Ô hô!

                           Phu tại Dương trần vạn nhật bi,

                           Thê qui Âm cảnh thiên niên biệt.

         Nghĩa là:

                           Than ôi!

                           Chồng ở dương trần vạn ngày sầu,

                           Vợ về âm cảnh ngàn năm biệt.

      7- Một cặp đối thờ cha mẹ, hoặc vợ chồng:

                                 !

                                

                                

                  Ô hô!

                  Phụ (Mẫu) tử tình thâm như kim vĩnh biệt

                  Phu thê nghĩa trọng tòng thử trường ly.

         Nghĩa là:

                  Than ôi!

                  Cha con tình sâu nay đành vĩnh biệt,

                  Vợ chồng nghĩa nặng giờ phải trường ly.

      8- Đối nói về lẽ vô thường:

                                    !

                                   

                                   

                        Ô hô!

                        Tam thốn khí tại thiên ban dụng.

                        Nhất đán vô thường vạn sự hưu.

         Nghĩa là:

                        Than ôi!

                        Ba tấc hơi còn ngàn việc dùng,

                        Một sớm vô thường muôn sự ngưng.

         Hoặc:

                                          !

                                          ,

                                          .

                                       Ô hô!

                                       Nhất tức bất hồi,

                                       Thiên thu vĩnh biệt.

         Nghĩa là:

                                    Than ôi!

                                    Một tấc hơi không trở lại,

                                    Ngàn thu vĩnh biết.

      9- Một cặp đối về triết lý Cao Đài:

                        !

                        :

                        :

         Ô hô!

         Vạn sự viết vô: Nhục thể thổ sanh hoàn tại thổ,

         Thiên niên tự hữu: Linh hồn thiên tứ phản hồi thiên.

Nghĩa là:

         Than ôi!

         Muôn việc đều không: Xác thể đất sanh hoàn lại đất,

         Ngàn năm tự có: Linh hồn trời ban trở về trời.

      10- Một cặp đối nói về người cao tuổi:

                                    !

                                    ,

                                    .

                           Ô hô!

                           Sơn trung tự hữu thiên niên thọ,

                           Thế thượng nan phùng bá tuế nhân.

         Nghĩa là:

                           Than ôi!

                           Trong núi tự có cây ngàn năm,

                           Trên đời khó gặp người trăm tuổi.

         Hiện nay, vì ít người biết chữ Nho nên có một số ít địa phương viết bằng chữ Quốc ngữ. Còn như muốn thờ tấm Phủ nghi bằng chữ Nho thì các trại Hòm đều có bán theo một mẫu duy nhứt, lớn tuổi hay nhỏ tuổi, hoặc chết trong hoàn cảnh nào đều viết như nhau.

         Sau đây là một trong những tấm Phủ nghi được bán tại các trại hòm. Tấm Phủ nghi đó phía trên vẫn viết bốn chữ Nho là “Tang trí kỳ ai”, chính giữa tấm Phủ nghi viết một chữ “Điện” () thật lớn, nghĩa là cúng tế. Chữ Điện đó được trang trí nằm giữa bốn con dơi và hai câu đối (Xem hình phía dưới).

         Sau đây là một tấm Phủ nghi được phổ biến ở các trại hòm Tiền Giang. Hai câu đối đó như sau:

,

.

                           Lưu thủy tịch dương thiên cổ hận,

                           Thê phong khổ vũ bá niên sầu.

         Nghĩa là:

                           Nước chảy trời tà ngàn thu hận,

                           Gió buồn mưa khổ trăm năm sầu.

 

Lễ khai quynh là gì

  TẤM PHỦ NGHI

         Bàn thờ tang hay Bàn vong, ngoài tấm Phủ nghi ra, người ta còn treo thêm một tấm tượng tang, tức là một tấm vải trắng hình chữ nhựt lớn kích cỡ tùy vách bàn thờ, trong đó theo tôn ty người qua đời mà viết ở giữa một hàng chữ to từ trên xuống dưới, và hai bên có viết một cặp liễn. Tượng tang ngày xưa, sau khi chôn cất xong, người ta mới treo vào vách bàn thờ tang. Hiện nay vì hiếm người biết chữ Nho, nên ít người thờ tượng tang, chỉ những tang quyến có mời các Thầy tụng biết chữ Nho đến cúng và đặt họ viết, mới có được. Hầu hết ngày nay tang quyến thường họa bức hình người mất thay thế Tượng tang để thờ.

         Cách viết tấm Tượng tang tùy theo người đứng ra thờ phượng, nếu như:

         · Con thờ cha, người ta thường viết tượng để thờ như:

         - Hai chữ “椿 Xuân đường

Hoặc:

         - Bốn chữ “ Nghĩa Phương Thị Huấn”.

Hoặc:

         - Bốn chữ “    Hỗ sơn vân ám”, do câu trong Kinh Thi: “Trắc bỉ hỗ hề chiêm vọng phụ hề      , ” (Trèo lên núi Hỗ chừ, ngóng trông cha chừ) để thờ cha.

         Hai câu liễn viết trên tượng để thờ cha:

                              ,

                              .

                        Hạnh thành Đại Đạo tri hà báo,

                        Hiếu kính đan tâm khởi cảm vong.

         Nghĩa là:

                        Nết thành Đạo lớn, bao giờ báo,

                        Hiếu kỉnh lòng son há dám quên.

         ·Con thờ mẹ, người ta thường viết tượng để thờ như:

         - Hai chữ “ Huyên thất”.

Hoặc:

         - Bốn chữ “ Bắc Đường Vân Ám”.

Hoặc:

         - Bốn chữ “Dĩ lĩnh vân mê”, do câu trong Kinh Thi: Trắc bỉ Dĩ hề, chiêm vọng mẫu hề , ” (Trèo lên núi Dĩ chừ, nhìn ngóng mẹ chừ) để thờ mẹ.

         Còn hai câu liễn thờ mẹ thông thường người ta có thể viết:

                                 ,

                                 .

                           Âm cảnh mẫu du hà nhựt hội,

                           Dương quan tử vọng kỷ thời phùng.

         Nghĩa là:

                           Âm cảnh mẹ về bao thuở gặp,

                           Dương trần con ngóng lúc nào gần

         Ngoài ra,hai câu liễn sau đây có thể viết để thờ chung cho cha lẫn mẹ:

                                    ,

                                    椿.

                        Đức hoài Huyên thất sanh thành đạo,

                        Phước niệm Xuân đường cúc dục ân.

         Nghĩa là:

                              Đức tưởng đến mẹ, sanh thành đạo,

                              Phước nhớ tới cha, cúc dục ân.

         · Vợ thờ chồng thông thường người ta có thể viết tượng tang như sau:

         - Hai chữ “ Lương Nhân”.

         Hoặc:

         - Bốn chữ “ Âm dung như tại” (Âm thanh và hình dạng vẫn còn đó).

         Hai câu liễn vợ thờ chồng thì viết:

                                 ,

                                 .

                           Phu một Âm cung thiên tải lệ

                           Thê tồn Dương thế nhất tâm sầu.

         Nghĩa là:

                           Chồng thác Âm cung ngàn thu lệ,

                           Vợ còn Dương thế nhứt tâm sầu.

         · Chồng thờ vợ, thì người ta có thể viết:

         - Hai chữ “Chuyết Kinh”.

Hoặc:

         - Bốn chữ “ Âm dung như tại”.

         Cặp liễn chồng thờ vợ:

                                 ,

                                 .

                        Kết phát bách niên hà nhẫn đoạn,

                        Tịch sàng cộng tẩm hiện phân ly.

         Nghĩa là:

                        Kết tóc trăm năm sao đành dứt?

                        Chiếu giường cùng ngủ hiện phân ly.

         Sau các Tuần cửu, Tiểu, Đại tường xong, Tượng tang và tấm Phủ nghi sẽ được đốt cùng một lượt với tang phục khi làm lễ mãn tang. Từ đó, người thân trong gia đình mới dẹp Bàn thờ tang để thỉnh vong linh người quá cố lên một bàn thờ riêng hoặc thờ chung cha mẹ một bàn thờ để cúng giỗ.

VIII.-THÀNH PHỤC PHÁT TANG.

         Trước hết tang quyến phải chuẩn bị hai mâm cơm chay: Một mâm cúng trên Cửu Huyền Thất Tổ, còn một mâm dọn trước nhà để cúng Thần Hoàng bổn cảnh, Đất đai ngũ phương. Tất cả đồ tang phục được để vào một cái mâm (gọi là mâm tang phục), đốt hai ngọn đèn sáp, đặt trước bàn thờ Cửu Huyền.

      A. CÁO TỪ TỔ:

         Cáo Từ Tổ là lễ cúng Cửu Huyền Thất Tổ nhằm ý nghĩa để báo cáo với Tổ Tiên, Ông Bà là trong dòng họ có một người thuộc hàng con cháu mới vừa qui vị.

         Mỗi gia đình của người tín đồ Cao Đài, ngoài Thiên Bàn thờ tại tư gia ra, tất cả đều phải có bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ vì nó thể hiện tôn chỉ Nho Tông chuyển thế của nền Đại Đạo.(Xem hình bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ nơi trang phía sau).

         Trước hết, Chức Việc và tang quyến đến Thiên Bàn cầu nguyện Chí Tôn, không đọc Kinh vì mới thiết lễ cúng Thầy hồi tẩn liệm.

         Cáo Từ Tổ theo nghi châm chước, có hai lễ sĩ mặc áo xanh đậm đứng xướng lễ, tang chủ quì, tay bắt Ấn Tý, lạy theo hàng Thần vị: Lạy 3 lạy [2]. Có hai vị tiếp lễ nam (nếu người chết là phái nam), hoặc nữ (nếu người chết là phái nữ). Đồng nhi đọc bài kinh Cầu Tổ Phụ Qui Liễu (một lần), tang quyến phủ phục, tiếp đọc bài kinh Cứu khổ (ba lần), tang quyến quì thẳng gối.

         Sau đây là nghi tiết Cáo Từ Tổ do hai lễ sĩ hầu hai bên Bàn thờ xướng:

         1- Tử tôn tựu vị (Con cháu đứng vào vị trí).

            Người chủ tế đứng trước, theo thứ tự lớn trước nhỏ sau.

         2- Giai quì (Tất cả đều quì).

            Tất cả con cháu xá ba xá, rồi quì xuống hết.

         3- Phần hương (Đốt nhang).

            Hai vị tiếp lễ đốt 3 cây nhang đưa cho người chủ tế.

         4- Nguyện hương (Đưa nhang cầu nguyện).

         5- Thượng hương (Dâng nhang lên).

 

Lễ khai quynh là gì

BÀN THỜ CỬU HUYỀN THẤT TỔ

         6- Cúc cung bái (Tất cả lạy 3 lạy).

         7- Chước tửu (Rót rượu).

         8- Cúc cung bái (Lạy 3 lạy).

         9- Ai chúc (Đọc bài chúc, tức Kinh tế lễ).

            Con cháu quì phủ phục khi đồng nhi tụng bài Kinh Cầu Tổ Phụ Đã Qui Liễu, quì thẳng gối khi đồng nhi tụng ba bài Kinh Cứu Khổ.

         10- Cúc cung bái (Lạy 3 lạy)

         11- Điểm trà (Châm nước trà).

         12- Cúc cung bái (Lạy 3 lạy)

         13- Hưng bình thân (Đứng dậy).

         14- Tử tôn dĩ hạ giai xuất (Con cháu bước ra).

         15- Lễ thành (Lễ đã xong) [3].

          Nho giáo rất trọng việc phụng tự hương hỏa nơi Từ đường, phong tục Việt Nam cũng sùng thượng sự thờ cúng Tổ tiên. Việc phụng tự Tổ tông là một việc tốt đẹp đáng quí trọng, nên coi là một nghĩa vụ của con người, vì nó mang ý nghĩa thờ người mất như khi người còn (Sự vong như sự tồn, ). Đó là thể hiện tính “Uống nước nhớ nguồn” và nói lên cái lòng bất vong bản.

         Theo lời chú thích trong sách Lễ Ký: Toàn thể vạn vật nương nhờ căn bản nơi Trời là Đấng tạo Thiên lập Địa, còn toàn thể nhơn loại nương nhờ căn bản nơi Tổ tiên là bậc khai sáng ra dòng giống (Vật bản hồ Thiên, nhân bản hồ Tổ, ). Triết lý Cao Đài cũng cho rằng nguồn cội của con người gồm hai phần, phần hữu hình, gần gũi nhứt là cha mẹ, ông bà đã sinh ra hình hài xác thịt; phần vô vi, không thấy được, phải suy luận mới nhận biết, đó là Đức Thượng Đế đã ban cho một Chơn linh để con người có sự sống, sự hiểu biết và sự khôn ngoan.

         Người bình dân Việt Nam cũng tưởng nhớ đến ông bà qua câu ca dao sau đây:

Con người có tổ có tông,

Như cây có cội, như sông có nguồn.

         Khi nhớ đến công ơn sanh thành dưỡng dục rộng lớn như trời biển của cha mẹ ông bà, người tu hành phải chăm lo phụng dưỡng khi Ông bà, cha mẹ còn sanh tiền, và bố thí, lễ bái để hồi hướng công đức đến người đã quá vãng.

         Do vậy, thờ cúng Tổ tiên là nhằm thể hiện lòng tưởng cây cội nước nguồn, nhớ đến ân sâu nghĩa nặng, tức là tỏ lòng biết ơn và thương kính đối với những Chơn linh người thân đã đào tạo nên cơ thể hữu vi cho con cháu ngày nay.

         Đạo Cao Đài là một Tôn giáo có tôn chỉ Nho tong chuyển thế, vì thế, bất cứ một nghi lễ nào của Cao Đài về phần thế đạo như: Thành phục phát tang, chánh tế, di quan hay Tiểu tường, Đại tường đều phải có nghi “Cáo Từ Tổ trước. Đó là cái lễ thưa trình với Tổ tiên ông bà của Nho giáo [4].

         Thực hiện lễ cáo Từ tổ con cháu hay tang gia hiếu quyến quì tế Tổ tiên, phải có lòng thành kính để tưởng nhớ đến Ông bà Tổ phụ như lời Đức Khổng Phu Tử dạy: Thờ cha mẹ mới chết dường như sống, thờ Ông bà tuy mất cũng như còn, mới gọi rằng chí hiếu vậy (Sự tử như sự sanh, sự vong như sư tồn, hiếu chi chí dã, , ).

         Ngoài ra, sự thành tâm của con cháu khi tế lễ Ông Bà có tụng thêm ba biến Kinh Cứu Khổ là để cầu nguyện Đức Quan Thế Âm Bồ Tát hộ trì cho Chơn linh của Cửu Huyền Thất Tổ được siêu thăng Tịnh độ.

      B. PHÁT TANG:

         Khi Cáo Từ Tổ xong, bưng mâm tang phục đặt trước Bàn vong.

         Thành phục hành theo nghi châm chước, có nhạc và hai lễ sĩ chấp sự, tang gia vào quì thọ phục, tay bắt Ấn Tý.

         Chức Sắc (nếu người chết Lễ Sanh), Chức Việc (nếu người chết là Chức Việc hay Đạo hữu) mặc đại phục, đến Thiên Bàn cầu nguyện Chí Tôn, rồi đến Bàn vong theo lễ sĩ xướng mà lấy tang phục phát những người thọ tang (có thể nhờ những Chức Việc khác phụ phát tang). Sau đó tang quyến đứng dậy xá Bàn vong, rồi bước ra mặc tang phục.

         Sau đây là nghi tiết Thành phục:

         1.- Chủ nhơn tựu vị:

         Người chủ thọ tang tựu đến vị trí hành lễ.

         2.- Giai quì:

         Tất cả đều quì xuống.

         3.- Phần hương:

         Đốt nhang.

         4.- Nguyện hương:

         Đưa nhang lên cầu nguyện.

         5.- Thượng hương:

         Cắm nhang vào Lư hương.

         6.- Cúc cung bái:

         Tất cả lạy 3 lạy.

         7.- Ngũ phục chi nhơn các phục kỳ phục:

         Năm bậc áo tang của người nào, người ấy mặc.

         8.- Hưng bình thân:

         Đứng dậy.

         9.- Quán y phục:

         Đội khăn và áo quần tang.

         10.- Giai quì:

         Tất cả đều quì xuống.

         11.- Cúc cung bái:

         Tất cả lạy 3 lạy.

         12.- Hưng bình thân:

         Đứng thẳng dậy.

         13.- Xuất chủ ngoại nghi:

         Tang chủ ra ngoài, phân ra quì nội, ngoại nghi để cúng tế vong linh.

          Theo Nho giáo, tang phục là một loại áo quần dùng để cho các con cháu còn sống thể hiện lòng hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ, và cho những người trong thân tộc biểu lộ ân tình đối với người quá cố. Hay nói cách khác, tang phục cũng nhằm nhắc nhở bổn phận phải có của những người thọ tang đối với người đã qua đời.

         Như vậy, người đứng ra phát tang phục, theo Cao Đài là người thực hiện theo lễ Nho, tức là thay mặt cho Hội Thánh tại địa phương để thể hiện tôn chỉ Nho tông chuyển thế của nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mà thôi. Khi trao tang phục cho tang gia hiếu quyến có nghĩa là nhắc nhở người thọ tang phải giữ lòng ai bi để thực hành bổn phận của mình như lo lắng việc tang lễ, cúng tế, cầu siêu cho vong hồn người đã mất. Do đó người phát tang phải là một vị Chức Sắc hay Chức Việc đương quyền (Mặc Đại phục) trong địa phận người mãn phần.

         Khi phát tang, vị Chức sắc hoặc Chức việc phải mặc Đại phục lấy khăn tang phát trước cho người đứng đầu (người trưởng) trong số người thọ tang, sau đó cùng với Chức Việc phụ phát hết cho những tang quyến còn lại.

         Vì vậy, theo chánh pháp Cao Đài, khi phát tang cho tang gia hiếu quyến, vị Chức Sắc hay Chức Việc chưa thọ pháp, thì không cầm kéo cắt tang hay lấy bông nhúng vào nước cúng rải lên đầu người thọ tang, bởi vì không thọ pháp dù có hành như vậy cũng chẳng có tác dụng gì.

      C. CÚNG VONG:

         Sau khi phát tang xong, tang quyến mặc tang phục, rồi trở vào Bàn vong, tay bắt Ấn Tý để quì tế vong linh. Đồng nhi đọc một, hai hoặc ba bài Kinh Thế Đạo: Vợ tế chồng, (Chồng tế vợ), hoặc con tế cha mẹ, hoặc em tế anh chị. Nếu đủ thời giờ thì đồng nhi có thể đọc ba bài kinh chánh tế cho tang quyến quì tế theo thứ tự như sau: Vợ tế chồng (hoặc chồng tế vợ) trước, kế tiếp con tế cha (hoặc mẹ), sau cùng mới đến em tế anh chị.

         Tang chủ lạy vong 3 lạy nếu người chết ăn chay 10 ngày trong tháng hoặc trường chay, lạy 4 lạy nếu người chết ăn chay dưới 10 ngày, tức là hành theo nghi bạt tiến.

         Theo nghi lễ năm 91, sáng chiều cúng cơm tại Bàn vong, gọi là cúng triêu (buổi sáng), tịch (buổi chiều). Hành lễ triêu tịch theo nghi châm chước có nhạc, hai lễ sĩ chấp sự. Đồng nhi đọc một bài Kinh Thế Đạo.

         Sau đây là nghi tiết cúng vong:

         1.- Tang chủ tựu vị.

         Tang chủ xá, bước vô.

         2.- Giai quì.

         Tất cả tang gia đều quì.

         3.- Phần hương.

         Tiếp lễ đốt hương giao cho người quì tế.

         4.- Nguyện hương.

         Đưa lên trán cầu nguyện.

         5.- Thượng hương.

         Tế chủ giao cho tiếp lễ dâng lên, cắm vào lư hương.

         6.- Cúc cung bái.

         Tất cả đều lạy.

         7.- Châm tửu (Lần thứ nhứt).

         Tiếp lễ rót rượu lần 1.

         8.- Cúc cung bái.

         Tất cả đều lạy.

         9.- Châm tửu (Lần thứ nhì).

         Tiếp lễ rót rượu lần 2.

         10.- Cúc cung bái.

         Tất cả đều lạy.

         11.- Ai chúc.

         Đồng nhi tụng Kinh Thế Đạo, tùy người quì tế.

         12.- Cúc cung bái.

         Tất cả đều lạy.

         13.- Châm tửu (Lần thứ ba).

         Tiếp lễ rót rượu lần 3.

         14.- Cúc cung bái.

         Tất cả đều lạy.

         15.- Điểm trà.

         Tiếp lễ rót nước trà.

         16.- Cúc cung bái.

         Tất cả đều lạy.

         17.- Hưng bình thân.

         Tất cả tang quyến đều đứng dậy.

         18.- Tang chủ dĩ hạ giai xuất.

         Tang chủ bước ra ngoài.

         19.- Lễ thành.

         Trong nghi tiết con tế cha mẹ, đồng nhi tụng đến câu: “Chung ly biệt con đưa tay rót” trước đây do vị tiếp lễ rót vào chung trên Bàn vong, sau này mới bày ra vị tiếp lễ đem nhạo và ly xuống cho tang chủ quì rót. Từ đó các bài Kinh tế lễ nào cũng vậy.

         Nghi tiết này do câu chuyện sau đây mà thành lệ.

         Nguyên Chơn Nhơn Phạm Duy Hoai lúc làm Thượng Thống Lễ Viện có kể lại câu chuyện đó như sau: Trong đám tang của thân phụ Trung Úy Tường, thuộc quân đội Cao Đài, nhà gần xéo cửa Chánh môn, những nghi lễ vẫn theo bình thường như thông lệ, chỉ có một điều là ông Tường trước đó có xin với Bàn Tri Sự cho phép ông được rót rượu tiễn cha một lần cuối (Vì thông lệ do vị tiếp lễ rót rượu trên Bàn vong). Việc này Bàn Tri Sự không dám giải quyết nên vào xin ý kiến của Lễ Viện Trung Ương, lúc đó Ông Phạm Duy Hoai là Thượng Thống xét thấy đó là việc làm hiếu của người con, cũng không có gì là thất chơn truyền, nên ông Hoai đồng ý. Bàn Tri Sự cho hành lễ và khi đọc đến câu Kinh ấy thì vị tiếp lễ đem nhạo và ly xuống cho ông Tường rót rượu để tỏ lòng hiếu kính.

         Từ đó mọi người thấy vậy cũng lấy làm thích hợp và bắt chước theo. Hương này bắt chước theo Hương kia, ban đầu chỉ là Kinh con tế cha mẹ, rồi sau đó đến các bài khác cũng lần hồi như thế. Trong lúc đó thì ở Báo Ân Từ và Khách Đình hay lễ tang ở Cửu Trùng Thiên cho các Chức Sắc Đại Thiên phong thì cũng là do các vị tiếp lễ rót rượu.

         Hội Thánh chưa có điều nào dạy về việc ấy, hay chưa có văn bản, văn thơ gì ra lịnh về vấn đề này, chỉ biết từ khi ấy các Hương Đạo ở ngoại ô thực hành nghi thức mà thành lệ thôi.

         Ngoài ra, cũng trong bài kinh ấy, đồng nhi tụng đến câu: “Cha ở đâu, mẹ nơi đâu?” thì thường hay sửa câu kinh này tuỳ theo hoàn cảnh: Cha chết mẹ còn, hay mẹ chết cha còn.

         Chúng ta nhận thấy rằng các quyển Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo do Hội Thánh in, từ trước đến nay đều in là “Cha ở đâu, mẹ nơi đâu?” thì chúng ta phải tụng theo nguyên văn câu kinh, vì đây là ý của Bà Đoàn Thị Điểm giáng cơ ban cho. Dù trong hoàn cảnh nào (Cha chết mẹ còn, hay mẹ chết cha còn), ta vẫn tụng theo nguyên văn câu kinh là “Cha ở đâu, mẹ nơi đâu?” để nói lên tâm trạng đau đớn rối bờicủa người con hieesukhi gặp cảnh tang biến, khiến cho tâm thần bấn loạn không biết cha mẹ hiện ở nơi nào. Nếu chúng ta sửa lời kinh cho phù hợp với hoàn cảnh thì e rằng nghịch với ý kinh của Bà.

         Ta biết việc sửa câu kinh đó là do câu chú thích trong một lần in của quyển kinh Thiên Đạo và Thế Đạo. Câu chú thích đó ghi như sau: “Cha mẹ mà người nào còn sống thì đọc: Cha ở đây hoặc mẹ ở đây. Nếu chết hết thì đọc nguyên văn” [5].

         Chúng ta nên biết, như trong bài kinh này đoạn trên, câu “Đầu cúi lạy……linh hiển” ý Bà muốn điền câu kinh cho phù hợp hoàn cảnh thì Bà chừa trống và Hội Thánh chú thích để điền vào cho thích hợp. Còn ở đây nguyên văn câu kinhtuwf trước đến nay vẫn ghi là “Cha ở đâu, mẹ nơi đâu?” kể cả lần in có câu chú thích trên. Như vậy, để tôn trọng ý kinh của Bà Đoàn Thị Điểm chúng ta thấy rằng không nên sửa câu kinh đó.

          Cúng vong là nghi lễ dành cho con cái tế lễ cha mẹ, hoặc vợ tế chồng, hoặc chồng tế vợ, hoặc em tế anh chị.

         Chúng ta cần nên biết rằng theo Nho giáo, những mối quan hệ ruột thịt về thân tộc đều có mối ân nghĩa ràng buộc lẫn nhau, tạo nên một giềng mối nhơn luân. Do vậy, khi có người thân trong mối quan hệ đó mất, chúng ta phải sắm lễ phẩm để phúng tế. Ngoài ra, người sống phải cúng tế người đã chết là bởi quan niệm của người xưa: Sự tử như sự sanh, sự vong như sự tồn, nghĩa là thờ phụng người chết như người còn sống, thờ phụng người đã mất như người còn đó.

         Như vậy, con cái cúng tế cha mẹ bởi chữ hiếu, khi cha mẹ còn sống thì hết sức phụng dưỡng cha mẹ, đến khi cha mẹ qua đời thì thành tâm mà tế lễ.

         Theo Tăng Tử, có ba loại hiếu mà con người phải thực hiện: Hiếu to tát nhứt là người có đại công, đại đức đem lại hạnh phúc cho mọi người, được mọi người tôn kính và cũng làm rạng rỡ tên tuổi cha mẹ cho hậu thế. Một loại hiếu khác là khi lập thân trong xã hội lấy phẩm đức làm đầu, suốt đời không bị ai chỉ trích, phê bình điểm xấu nào và cũng không mang lại tiếng xấu cho cha mẹ. Sau cùng là loại hiếu thấp nhứt, đó chỉ là hết sức mình để phụng dưỡng cha mẹ mà thôi.

         Như vậy, theo lời Tăng Tử, ngoài việc phụng dưỡng và thờ kính song thân ra, còn có nhiều việc quan trọng mà người con hiếu cần phải làm như: Tu thân, lập công, lập đức, tức là có thành tích mưu phúc lợi cho mọi người thì đó là sự mở rộng và vươn lên của lòng hiếu thảo đối với cha mẹ còn sống hay cha mẹ đã chết rồi. Nếu cha mẹ còn sống, con cái lập công, lập đức cho nhơn quần xã hội thì đó làm rạng danh cho ông bà cha mẹ, nếu cha mẹ đã qua đời thì việc lập công bồi đức của con cái có thể hồi hướng những công đức đó để cầu siêu cho Chơn linh cha hay mẹ.

         Muốn báo hiếu công sanh thành dưỡng dục cho cha mẹ, dù cha mẹ còn sống hay cha mẹ đã qua đời, người con hiếu thảo cũng phải thực hiện theo giáo lý Cao Đài, đó là anh em hòa thuận, tu thân và lập công bồi đức. Nhứt là phải hết lòng thành kính để cúng tế Chơn linh cha hoặc mẹ.

         Đức Cao Thượng Phẩm có giáng cơ vào năm 1931 cho Đức Quyền Giáo Tông và Đức Hộ Pháp giải thích về sự sống chết và cho rằng cúng tế phải có lòng thành và phải tạo lập công đức để hồi hướng cho Chơn linh người quá cố, Ngài nói: “Hễ chết tại thế thì sanh tại Thiêng Liêng, chết tại Thiêng Liêng thì sanh tại thế, vì hai đường khác nhau, nghĩa là ở vô vi thì phải khuất hữu hình, mà ở hữu hình phải khuất vô vi.

         Bần Đạo tỉ cho dễ hiểu là như mấy người giờ này tại Tây Ninh thì không thể nào có mặt tại Sài Gòn cho đặng, mà muốn có mặt tại Sài Gòn thì chắc không thể ở tại Tây Ninh. Vậy thì cả nhơn sanh chỉ có biết sanh, không biết tử.

         Tám [6], Em nhớ Thầy đã nói cùng Em rằng: Tri sanh bất tri tử, mãn sanh vị chi tử [7]”.

         Như vậy, người sống chỉ biết được sự sống chứ không biết được sự chết mà phải chờ mãn kiếp sống, lúc đó gọi là chết mới biết được sự chết. Thế mà tại sao người ta thường hay lấy vật thực để cúng tế người chết? Người chết có hưởng dùng không? Điều nầy Đức Thượng Phẩm có giảng như sau: “Em phải biết rằng, ẩm thực cốt để làm phương bảo thủ thi hài, mà khi qui vào ngươn khí thì vật thực còn bổ ích vào đâu mà cúng tế, duy có điều hữu dụng của sự cúng tế là lòng thành, cảm động tình ái lẫy lừng, làm cho ngươn khí của Chơn thần trở nên thơm tho đẹp đẽ, cả những Đấng Thiêng Liêng lấy đó làm báu vật.

         Vậy Em nên nhớ lời Thầy dặn rằng: Các con cái Thầy ví biết thương yêu hòa thuận cùng nhau là lễ hiến cho Thầy rất nên long trọng. Lời ấy ngày nay Bần Đạo mới hiểu rằng thật vậy.

         Cái tình thương nhau hơn hết là biết làm lành vì nhau, của báu thiêng liêng thì coi hành thiện như ngọc ngà châu báu vậy”.

         Qua lời giải thích trên của Đức Cao Thượng Phẩm, chúng ta mới hiểu rằng, hoa quả, vật thực chỉ là phương tiện mà chúng ta mượn để thể hiện lòng thành kính mà thôi. Chính lòng thành kính (vô vi) mới là một cúng phẩm thiêng liêng cho các Chơn linh hưởng dùng. Như vậy, không riêng gì lòng thành kính mà tất cả những tấm lòng cao thượng khác như lòng từ bi, lòng nhân ái, lòng từ thiện…đều có thể làm món quà thiêng liêng dâng lên cho các Chơn linh thụ hưởng.

IX.-TANG PHỤC.

   A/.NGŨ PHỤC.

         Chúng ta nên biết, ân nghĩa và tình cảm đối với người đã khuất được Nho giáo thể hiện những nỗi niềm bi thống bằng cách chế định các hạng tang phục. Song chế độ tang phục chỉ định cho những người vốn có quan hệ thân thuộc như Ông bà, cha mẹ, anh em, vợ chồng…

       Tùy theo thân sơ mà Nho giáo định năm loại tang phục gọi là Ngũ phục (), chia ra thời gian để tang lâu mau khác nhau, có năm bậc, gọi là Ngũ phục:

         · Trảm thôi 斬衰: Áo chế cho hạng đại tang, thường dùng vải trắng thô, bên dưới gấu áo bỏ xủ xuống, không viền, mặc quần xổ lai. Thời gian để tang là 3 năm. Thọ Mai Gia Lễ chế lại còn 27 tháng.

         · Tư thôi 齊衰: Áo tang có lên trôn, khâu bằng phẳng, mặc quần không xổ lai. thời gian để tang 3 năm hay 1 năm (Cơ niên).

         · Đại công 大功: Tang phục bớt thô hơn dành cho để tang 9 tháng.

         · Tiểu công 小功: Tang phục dùng vải được chế tinh vi hơn vải Đại công dành cho tang 5 tháng.

         · Tư ma 緦麻: Áo tang dùng vải tơ tinh vi hơn áo Tiểu công dành cho tang 3 tháng.

         Lệ thường, người đời thường chỉ để tang 3 năm hoặc tang 1 năm mà thôi, chớ ít có nghe để tang 9 tháng, 5 tháng, hoặc 3 tháng.

         Riêng trong Đạo Cao Đài, theo Tân Kinh, căn cứ tuần cửu mà chia ra 3 hạng để tang:

            - Tang mãn tuần cửu, tức 81 ngày;

            - Tang mãn tuần Tiểu tường, tức 281 ngày;

            - Tang mãn tuần Đại tường, tức 581 ngày là mãn Đại tang.

   B/. CÁCH THỨC ĐỂ TANG.

      1. Tang cha mẹ:

         Căn cứ theo quyển Quan Hôn Tang Lễ của Hội Thánh, bổn phận làm con do công sanh thành, ân dưỡng dục ví tợ biển rộng trời cao, nên khi cha mẹ lìa trần con phải thọ tang cho cha mẹ dùng Trảm thôi và Tư thôi (Ba năm).

         Nếu là con trai, thọ tang cho cha thì dùng Trảm thôi và cây gậy trúc (hay tre), đến Đại tường là mãn tang, thọ tang cho mẹ thì dùng Trảm thôi và gậy vông cũng đến Đại Tường là mãn tang.

         Thọ tang Trảm thôi nghĩa là mặc một chiếc áo tang may bằng loại vải thô, cổ trịch như áo lễ, không lên trôn, quần cũng không lên lai. Ở sau lưng áo tang có may một tấm vải nhỏ, gọi là tấm Phụ bản, tang cha thì tấm Phụ bản đặt bên vai trái, tang mẹ thì tấm Phụ bản đặt bên vai phải, với ý nghĩa gánh vác sự khó khăn, đau xót.

         Giữa lưng có thắt một sợi dây rơm (hay dây chuối), đánh 3 tao, có quấn vải thô.

         Trên đầu có bịt một bức cân, tức là một cái khăn vải thưa, vuông bằng khổ vải (Khổ vải 7 tấc hoặc 8 tấc) bao trùm đầu tóc, bỏ góc khăn ra sau gáy. Trên bức cân có đội mũ bạc, được chế bằng dây chuối hay rơm bện tròn, quấn vải thô bên ngoài.

         Cây gậy tre (hay trúc) thể hiện tiết tháo ngay chính của người cha được bộc lộ bên ngoài. Cây gậy vông thể hiện tiết hạnh bên trong và đầy lòng từ ái của bà mẹ. Cây gậy dài ngắn tùy theo người cao thấp, phải đo từ dưới đất lên chí yếm tâm là được, có ý nghĩa là chủ ở tâm bi ai.

         Sở dĩ con phải cầm gậy là bởi Thánh hiền xưa nhân cái tình hiếu tử, vì quá đau thương cha mẹ trong phút sinh ly tử biệt, đến nỗi quên ăn quên ngủ sinh ra bịnh hoạn, đi đứng khó khăn nên mới chế ra cây gậy để nương vào đó đi đứng cho vững vàng.

         Nếu là con gái xuất giá thì thọ tang cha mẹ dùng Tư thôi, nghĩa là gấu áo tang có lên trôn, quần lên lai bằng phẳng, đầu đội mũ nhọn bằng vải che hết cả mặt.

         Con gái chưa xuất giá, còn sống chung tại nhà thì thọ tang Trảm thôi. Trên đầu quấn khăn tang được dùng bằng nửa khổ vải trắng, xếp làm bốn lớp theo chiều dài.

Để tang cho các trường hợp đặc biệt:

         ¨Đồng cư kế phụ :

         Kế phụ (Cha kế hay cha ghẻ) cùng ở chung với người con, khi chết con để tang 1 năm, đến Tiểu tường là mãn.

         Trước hai người cùng ở chung, sau không ở chung tang 3 tháng, đến tuần chung cửu là mãn.

         ¨Bất đồng cư kế phụ :

         Cha kế trước sau đều không ở chung với con, khi chết con không thọ tang.

         ¨Giá mẫu :

         Cha đã mất, người mẹ đi tái giá, khi chết con thọ tang 1 năm, đến Tiểu tường là mãn.

         ¨Xuất mẫu :

         Người mẹ không còn ở với cha (Cha thôi), khi chết con để tang 1 năm, đến Tiểu tường là mãn.

         Nếu như người mẹ vẫn ở vậy, không đi tái giá, khi chết con thọ tang Tư thôi 2 năm, đến Đại tường là mãn.

         ¨Kế mẫu :

         Mẹ mất, cha lấy bà kế mẫu (mẹ ghẻ), khi chết con thọ tang 1 năm, đến Tiểu tường là mãn.

         ¨Từ mẫu :

         Mẹ mất sớm, con được người cha giao cho bà mẹ kế nuôi đến lớn khôn, gọi là Từ mẫu, khi chết con thọ tang Tư thôi 2 năm, đến Đại tường là mãn.

      2. Tang vợ chồng:

         Chồng thọ tang cho vợ, đến Đại tường là mãn. Khi mãn tang rồi mới được lấy vợ khác.

         Vợ thọ tang cho chồng, đến Đại tường là mãn. Khi mãn tang rồi mới được lấy chồng khác.

      3. Tang anh chị:

         Người Em thọ tang cho anh chị ruột đến Tiểu tường là mãn.

         Em thọ tang cho anh hoặc chị chung mẹ khác cha 3 tháng, đến tuần Chung cửu là mãn.

      4. Tang chú bác, cô dì, nội ngoại:

         - Cô chú bác: Đồng thọ tang 1 năm, đến Tiểu tường là mãn. Nếu như cô xuất giá, để tang 3 tháng, đến tuần Chung cửu là mãn.

         - Cậu dì: Đồng thọ tang 3 tháng, đến tuần Chung cửu là mãn.

         - Ông nội, bà nội: Đồng thọ tang Tư thôi, đến Đại tường là mãn.

         Nếu người con trưởng nam chết trước cha mẹ, mà có sanh con trai để lại thì khi ông bà nội chết, đứa con trai của người con ấy (trưởng nam) phải thay cha mình mà chống gậy tang để báo hiếu Ông bà, gọi là cháu Đích tôn thừa trọng.

         Cháu Đích tôn thừa trọng, thay thế cho cha, thọ tang Ông nội bà nội Trảm thôi, đến Đại tường là mãn.

         - Ông ngoại, bà ngoại: Đồng thọ tang đến Tiểu tường là mãn

         - Ông cố bà cố: Đồng tho tang 3 tháng, đến tuần Chung cửu là mãn.

         - Tang bên chồng: Nàng dâu thọ tang cho cha mẹ chồng Tư thôi, đến Đại tường là mãn.

         - Tang bên vợ: Chàng rễ thọ tang cha mẹ vợ đến Tiểu tường là mãn.

      5. Tang người thân tộc:

         Vì ân nghĩa Thầy trò, vì tình bầu bạn, trò để tang cho thầy, bạn để tang cho bạn, tùy ý theo ân tình, không hạn thời gian bao lâu.

         Vì đại ân, kẻ thọ ân để tang cho người thi ân không kỳ hạn.

         Vì đại nghĩa, những kẻ anh hùng liệt sĩ lập nên công vĩ đại, có ích cho nhơn quần xã hội, cho Đạo, cho Đời, dân cảm mến để tang không hạn kỳ.

          Do theo sách Lễ Ký nói rằng: “Phàm lễ chi đại thể, thể Thiên địa, pháp tứ thời tắc âm dương, thuận nhân tình cố vị chi lễ , , , , ”, Người xưa chế định lễ dựa theo lý nhứt định của Trời đất mà phân biệt cấp bậc theo tôn ty thượng hạ; nhân theo sự biến thiên của thời tiết bốn mùa mà đo lường ân tình, đối đãi, lý âm dương để phân đoán kiết hung; thuận theo nhơn tình hậu bạc mà chế ra trọng hay khinh.

         Chẳng những lễ nghi mà thôi, tang phục cũng phải căn cứ theo phẩm trật tôn ty thượng hạ và ân tình trọng khinh, hậu bạc mà chế định ra.

         Như ta biết quần áo tang lễ là loại trang phục để mặc khi có người thân chết, thời hạn để tang chính là thời hạn mặc quần áo tang. Quần áo tang và thời hạn để tang phải phối hợp với nhau, để khi mặc loại quần áo gì thì để tang bao lâu, song cũng có trường hợp vì điều kiện ân nghĩa khác nhau thì quần áo vẫn vậy, mà thời hạn lại thay đổi. Ví dụ như thọ tang Tư thôi, cùng mặc tang phục giống nhau nhưng thời hạn chịu tang là 3 năm hay 1 năm.

         Chúng ta biết, tùy theo hình thức và loại vải thô dày thưa mà người xưa chế định năm loại tang phục, gọi Ngũ phục để biểu thị sự cách biệt về quan hệ họ hàng thân thiết xa gần và tình cảm nông sâu.

         Như vậy, có thể nói người sống dùng tang phục để biểu lộ tình cảm với người quá cố. Tình cảm có thân, có sơ, cho nên mới có người thân và người không thân, lễ sẽ định sự khác biệt ít nhiều. Đương nhiên người thân thiết thì tình cảm sẽ sâu nặng hơn, thì thọ tang phục sẽ tương đối phức tạp hơn; trái lại người thân xa, tình cảm cũng xa, tang phục do đó cũng đơn giản hơn. Tóm lại, Thánh hiền nghị chế ra tang phục là để đo lường cái nhơn tình trọng khinh, hậu bạc mà định phân thể thức bề ngoài để thể hiện tấm lòng con người đối xử lẫn nhau.

         Chính vì thế mà người ta cho rằng chế độ tang phục của người xưa chế định là thước đo tình cảm sâu nặng, hay thân sơ, nó cũng biểu thị sự thân thiết xa gần của họ hàng gia tộc.

         Một đại gia tộc, gồm bà con họ hàng là một tổ hợp có sự quan hệ vô cùng phức tạp, thế mà chế độ tang phục của người xưa có thể phân hoạch một cách rõ ràng, tỉ mỉ, từ đó hình thành một đạo lý để duy trì được sinh hoạt quần thể với nhau mà vẫn giữ được sự chung sống hòa bình, đoàn kết nhất trí trong dòng họ. Đó là thể hiện nền luân lý đạo đức trong gia tộc của người xưa.

         Việc thọ tang lâu mau cũng được người dựa theo nguyên do mà đặt để. Ví dụ như tại sao người xưa nghị chế thọ tang cho cha mẹ phải là ba năm? Ấy là do lời nói của Đức Khổng Tử: “Tử sinh tam niên, nhiên hậu miễn vu phụ mẫu chi hoài, phù tam niên chi táng, thiên hạ chi đạt táng dã , , , ”, tức là trẻ con sau ba năm mới được rời khỏi vòng tay bế ẵm của cha mẹ, cho nên khi cha mẹ mất đi, con cái phải báo đáp cái ân huệ vất vã nhứt của cha mẹ trong ba năm, để tang cha mẹ ba năm là lễ tang thông thường của mọi người trong thiên hạ. Vì vậy, Thánh hiền chỉ căn cứ vào chỗ trọng yếu đó mà chế ra tang phục ba năm dành cho người con hiếu để tang cha mẹ.

         Hễ nói rằng công sanh thành dưỡng dục của cha mẹ ví tợ biển rộng trời cao thì cha là ân trọng, thì mẹ cũng phải là ân trọng, lại nữa con phần nhiều nghiêng về tình cảm với mẹ hơn. Thế mà tại sao lễ xưa chế thọ tang cho bà mẹ có chỗ kém hơn ông cha? Chúng ta biết, ngày xưa mỗi gia đình đều phải có thứ bậc tôn ty thượng hạ, ông cha nắm quyền duy nhứt để sửa trị trong gia đình, nếu chẳng may bà mẹ chết trước ông cha thì con vì hiếu mà để tang cho mẹ chỉ thọ Tư thôi, chớ không đặng thọ Trảm thôi. Đó là thể hiện trong gia đình chẳng có hai người làm chủ vậy.

X.-NGHI TIẾT TẾ ĐIỆN.

      A. CHÁNH TẾ.

         Trước khi tang gia hiếu quyến tế lễ cho vong linh, ban lễ phải hành nghi đăng điện.

         Nghi đăng điện có 6 lễ sĩ hiến lễ. Tại tư gia chỉ thực hiện đăng điện cúng tế một lần, không phân biệt giàu nghèo. Còn các phần khác, chỉ hành lễ châm chước mà thôi.

         Áo lễ, cách thức đăng điện và bài thài theo qui định từ phẩm cấp trong Đạo. Ở các tỉnh địa phương thường chỉ đăng điện trong hai trường hợp:

            - Đăng điện cho hàng phẩm Lễ sanh hoặc tương đương (Đối phẩm hàng Thiên Thần).

            - Đăng điện cúng tế cho hàng Chức Việc Bàn Trị Sự và Đạo hữu (Đối phẩm hàng Nhơn thần và Địa Thần). Sau đây, chúng tôi trình bày nghi đăng điện cúng tế cho Chức Việc và Đạo hữu:

Tế điện hàng Nhơn Thần, Địa Thần

         Nghi tế điện hàng Nhơn Thần, Địa Thần dành cho các phẩm:

                        - Chánh Trị Sự.

                        - Phó Trị Sự.

                        - Thông Sự.

                        - Luật Sự.

                        - Hành Thiện.

                        - Thính Thiện.

                        - Tân Dân.

                        - Minh Đức.

                        - Giáo Nhi.

                        - Nhạc Sĩ.

                        - Lễ Sĩ.

                        - Đầu Phòng Văn Khoa Mục.

                        - Thơ Ký.

                        - Tá Lý.

                        - Đạo Sở và Đạo Hữu.

         Nghi này có nhạc, 6 lễ sĩ mặc áo lễ màu xanh đậm, cầu nguyện Chí Tôn tại Thiên Bàn, rồi trở lại Bàn vong đăng điện.

         Nghi tiết đăng điện hàng Nhơn Thần, Địa Thần như sau:

         1.- Tang chủ tựu vị.

         Một người con trưởng đứng nội nghi, và con thứ đứng ngoại nghi.

         2.- Nghệ hương án tiền.

         Hai cặp Lễ sĩ đến đứng hai bên bàn ngoại nghi.

         3.- Giai quì.

         Tất cả đều quì xuống.

         4.- Phần hương.

         Con quì ngoại nghi đốt nhang, xá rồi trao cho Lễ sĩ đài (Bốn Lễ sĩ đứng dậy).

         5.- Điện hương.

         Lễ sĩ điện, chân đi chữ Đinh , Đồng nhi thài bài Tuần hương:

TUẦN HƯƠNG

                     Nghệ hương hiến, nghệ hương tiền,

                     Trầm đoàn khói tỏa năm mây.

            Mùi hương phưởng phất thơm bay ngút trời.

         6.- Quì.

         Lễ sĩ quì xuống, trao nhang cho người con quì nội nghi xá, cầu nguyện dâng hương.

         7.- Cúc cung bái.

         Hai người con quì nội, ngoại nghi lạy (3 lạy).

         8.- Tiến soạn.

         Hai Lễ sĩ đài dâng cơm và đồ ăn, bốn Lễ sĩ điện vô nội nghi, đồng nhi không thài.

         9.- Quì.

         Bốn Lễ sĩ đều quì xuống, hai Lễ sĩ đài trao cơm và đồ ăn cho người con quì nội nghi cầu nguyện rồi dâng lên.

         10.- Sơ hiến lễ.

         Hiến lễ dâng rượu lần thứ nhứt.

         11.- Nghệ tửu tôn sở.

         Bốn Lễ sĩ đứng hai bên bàn ngoại nghi,chuẩn bị ly và nhạo rượu.

         12.- Quì.

         Bốn Lễ sĩ quì hai bên bàn ngoại nghi.

         13.- Châm tửu.

         Con quì ngoại nghi rót rượu vào ly, xá rồi đưa cho Lễ sĩ đài. Bốn Lễ sĩ đứng dậy.

         14.- Điện tửu.

         Lễ sĩ điện theo chữ Đinh , Đồng nhi thài bài tuần sơ:

TUẦN SƠ

                        Hiến tuần sơ, hề hiến tuần sơ,

                        Vân ám đảnh hồ, long khứ viễn.

                        Nguyệt minh hoa biểu, hạc qui trì.

                        Cồn dâu hóa bể, bể hóa cồn dâu,

                        Cơ tạo biến dời, người vật đổi,

                        Sanh ly tử biệt, mạng nơi Trời.

         15.- Quì.

         Bốn Lễ sĩ quì hai bên bàn nội nghi, trao ly rượu cho người con quì nội nghi cầu nguyện, rồi đưa hai Tiếp lễ dâng lên đặt trên Bàn vong.

         16.- Cúc cung bái.

         Hai người con quì nội, ngoại nghi lạy (3 lạy).

         17.- Á hiến lễ.

         Hiến lễ dâng rượu lần thứ nhì.

         18.- Nghệ tửu tôn sở.

         Bốn Lễ sĩ đứng hai bên bàn ngoại nghi,chuẩn bị ly và nhạo rượu.

         19.- Quì.

         Bốn Lễ sĩ quì hai bên bàn ngoại nghi.

         20.- Châm tửu.

         Con quì ngoại nghi rót rượu vào ly, xá rồi đưa cho Lễ sĩ đài. Bốn Lễ sĩ đứng dậy.

         21.- Điện tửu.

         Lễ sĩ điện theo chữ Đinh , Đồng nhi thài bài tuần trung:

TUẦN TRUNG

                        Hiến tuần trung, hề hiến tuần trung,

                        ……(1)………….. nghĩa mặn nồng.

                        Ân thâm càng nhớ lụy khôn ngừng.

                        Nhựt nguyệt đôi vầng soi nhắc bóng,

                        Hỡi ôi! Chiếu thấu thảm nơi lòng.

         22.- Quì.

         Bốn Lễ sĩ quì hai bên bàn nội nghi, trao ly rượu cho người con quì nội nghi cầu nguyện, rồi đưa hai Tiếp lễ dâng lên đặt trên Bàn vong.

         23.- Cúc cung bái.

         Hai người con quì nội, ngoại nghi lạy (3 lạy).

         24.- Ai chúc.

         Tất cả con cái người qui vị đều vào trước Bàn linh, Đồng nhi đọc bài:

            - Kinh Tụng Cha Mẹ Đã Qui Liễu

            - Hoặc Kinh Tụng Khi Chồng Qui Vị, hoặc Kinh Tụng Khi Vợ Qui Liễu

            - Hoặc Kinh Tụng Huynh Đệ Mãn Phần.

         25.- Cúc cung bái.

         Tất cả các con đều lạy (3lạy).

         26.- Chung hiến lễ.

         Hiến lễ dâng rượu lần chót.

         27.- Nghệ tửu tôn sở.

         Bốn Lễ sĩ đứng hai bên bàn ngoại nghi,chuẩn bị ly và nhạo rượu.

         28.- Quì.

         Bốn Lễ sĩ quì hai bên bàn ngoại nghi.

         29.- Châm tửu.

         Con quì ngoại nghi rót rượu vào ly, xá rồi đưa cho Lễ sĩ đài. Bốn Lễ sĩ đứng dậy.

         30.- Điện tửu.

         Lễ sĩ điện theo chữ Đinh , Đồng nhi thài bài tuần chung:

TUẦN CHUNG

               Hiến tuần chung, hề hiến tuần chung,

               Dặm cũ khách đà xa khổ não.

               Nay (2)… hiu quạnh chốn trần gian.

               Tiếng dế reo đêm sầu thắc dạ,

               Nguồn sông lệ chảy, ruột trăm chiều.

               Oanh khóc năm canh chiu chít bạn,

               Ủ ê cảnh cũ vẫn vơ tình.

         31.- Quì.

         Bốn Lễ sĩ quì hai bên bàn nội nghi, trao ly rượu cho người con quì nội nghi cầu nguyện, rồi đưa hai Tiếp lễ dâng lên đặt trên Bàn vong.

         32.- Cúc cung bái.

         Hai người con quì nội, ngoại nghi lạy (3 lạy).

         33.- Tiến trà.

         Bốn Lễ sĩ đứng hai bên bàn ngoại nghi, chuẩn bị ly và bình trà.

         34.- Quì.

         Bốn Lễ sĩ quì hai bên bàn ngoại nghi.

         35.- Điểm trà.

         Con quì ngoại nghi rót trà vào ly, xá rồi đưa cho Lễ sĩ đài. Bốn Lễ sĩ đứng dậy.

         36.- Điện trà.

         Lễ sĩ điện, Đồng nhi thài bài Tuần trà:

TUẦN TRÀ

                        Đơn tiện xin dâng một tấc thành,

                        Cõi Thiên khẩn vái có anh linh.

                        Mảnh lòng tha thiết, ai ôi thấu,

                        Ngó liễu trông mây để tượng hình.

         37.- Quì.

         Bốn Lễ sĩ quì hai bên bàn nội nghi, trao ly trà cho người con quì nội nghi cầu nguyện, rồi đưa hai Tiếp lễ dâng lên đặt trên Bàn vong.

         38.- Cúc cung bái.

         Hai người con quì nội, ngoại nghi lạy (3 lạy).

         39.- Hưng bình thân.

         Hai người con quì nội, ngoại nghi đứng dậy.

         40.- Tang chủ dĩ hạ giai xuất.

         Hai người con quì nội, ngoại nghi xá ba xá rồi bước ra.

         41.- Lễ thành.

         Đạo Cao Đài là một nền Đại Đạo có tôn chỉ qui nguyên Tam giáo, hiệp nhứt Ngũ chi, tức là một sự hợp nhứt của tất cả triết lý các tôn giáo.

         Trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn dùng Nho tông chuyển thế, cho nên nghi lễ của Đạo lấy nhạc và lễ nhằm mục tiêu phô diễn cái phần hữu tướng, làm cho đàn tế ra vẻ tôn nghiêm và tạo cho người cúng tế có được cái tâm kính và thành.

         Vì thế, trong tang lễ của Đạo Cao Đài được thể hiện theo một nghi thức tế lễ long trọng tùy theo mối liên hệ tình cảm và ân nghĩa giữa người quá cố và kẻ sanh tiền.

         Chánh tế là nghi vợ tế chồng hay chồng tế vợ, con tế cha mẹ, em tế anh chị…

         ¨ Vợ tế chồng hay chồng tế vợ:

            Vợ tế chồng:

         Đạo Cao Đài lấy Nho Tông chuyển thế, nên việc cư xử giữa con người với nhau đều được qui định theo một phép tắc hợp với luân lý, nhứt là cách ứng xử của con người với nhau trong gia đình phải hợp với luân thường đạo đức.

         Trong Kinh Thư viết: Vua Nghiêu muốn nhường ngôi cho Thuấn, bèn gả hai nàng công chúa là Nga Hoàng và Nữ Anh cho, để xem cách tề gia và việc ứng xử của Thuấn. Ông Thuấn lấy ngũ điển ra đối đãi với vợ và mọi người, nên sau được vua Nghiêu nhường ngôi cho.

         Trong nền đạo Cao Đài, theo ngũ luân của Nho giáo, coi đạo vợ chồng là nền tảng của gia đình, bổn phận người vợ hoàn toàn gởi thân cho chồng, cho nên đạo vợ chồng phải lấy ơn nghĩa mà sống đời với nhau. Khi chồng chết, người nữ tín đồ phải giữ lòng trinh tiết mà thờ phượng và cúng tế chồng theo đạo nghĩa của người đàn bà.

         Kinh “Tụng Khi Chồng Qui Vị” dành cho người vợ cúng tế cho chồng nhằm nói lên cái ơn che chở, đùm bọc của đấng lang quân, mà nàng đã bao năm đem thân “sắn bìm nương bóng”. Người góa phụ Cao Đài, trong cảnh đau buồn mất đi một nguời yêu thương đã cùng chia vui sớt thảm, gắn bó với cuộc đời nàng, khiến cho nàng có lời tâm nguyện thờ chồng:

Thiếp cam bao tóc thờ chàng,

Rót chung ly biệt đôi hàng lệ sa.

            Chồng tế vợ:

         Bà Đoàn Thị Điểm, một nữ sĩ Việt Nam, năm 1933 có giáng cơ ban cho Đạo Cao Đài một tác phẩm rất có giá trị, đó là Nữ Trung Tùng Phận, một cuốn sách nhằm mục đích giáo hóa các nữ tín đồ Cao Đài trở nên người hiền đức, giữ vẹn đạo nhơn luân, theo đúng tôn chỉ Nho tông chuyển thế mà Đức Chí Tôn đã đề ra trong thời Hạ ngươn mạt Pháp.

         Theo Bà, đạo vợ chồng là đầu mối của nhơn luân nên phải biết thương yêu nhau, ăn ở nhau có nghĩa thủy chung:

                        Tình phu phụ biết bao nghĩa trọng,

                        Đạo nhơn luân gầy sống của đời.

                           Dầu cho non nước đổi dời,

                  Còn niềm chồng vợ, còn người còn ta.

         Ơn nghĩa của người phụ nữ với chồng con rất sâu nặng, là một giềng mối để kế thừa hương lửa Tổ tông, là khởi đoan của nền nhơn luân đạo đức, nên trong bài Kinh Tụng Cha Mẹ Đã Qui Liễu, bà viết:

                        Nối hương lửa nhơn luân đạo trọng.

         Hay trong bài Kinh Tụng Khi Vợ Qui Liễu bà cũng viết:

                        Nối Tông tổ biết bao nghĩa trọng

                        Cơ nghiệp còn lưu mộng tang du.

         Trong bài thuyết đạo về Bảo thủ thuần phong mỹ tục, Đức Hộ Pháp cũng cho rằng: Đạo nhơn luân khởi đoan do chồng vợ, có chồng vợ mới có cha con, có cha con mới có dân tộc lập thành quốc gia xã hội. Nhiều gương xưa tích cũ được nêu lên để chỉnh đốn đạo nhơn luân, cốt yếu làm con người biết đạo vợ chồng là trọng, đặng sửa đương cho nhau để lập mình lên bực chí Thánh. Như thời xưa vợ chồng ông Châu Công, Ngài là Tể tướng đầu triều mà bà vợ vẫn lo canh cửi làm ăn nuôi mẹ chồng, một vị mạng phụ phu nhơn mà cư xử được như vậy thật đáng quí.

         Chính vì ơn “tùng phu sửa trấp nâng khăn” và ơn “nối Tông tổ” của người vợ quá cố, Bà Đoàn Thị Điểm mới giáng cơ ban cho bài Kinh Tụng khi Vợ Qui Liễu nhằm tỏ lòng tiếc thương và đau khổ của người chồng đã mất đi một vị hiền phụ.

         Con tế cha mẹ:

         Ở cõi thế gian này, bất cứ một tôn giáo nào cũng đều dạy con người phải hiếu thảo với cha mẹ, ông bà. Nho giáo được xem như là một Đạo dạy về nhơn luân đạo đức, hay nói cách khác, là một đạo thờ cúng Tổ tiên Ông bà, lấy hiếu làm đầu trong trăm nết (Hiếu vi bách hạnh chi tiên ). Sách Hiếu Kinh cũng viết: Hiếu là Đạo thường của Trời, lẽ phải của Đất (Hiếu giả Thiên chi kinh dã, địa chi nghĩa dã , , ).

       Còn nếu là người biết tu hành thì càng nên trọng chữ hiếu, bởi lẽ Nho giáo có dạy: “Vật hữu bổn mạt, sự hữu chung thủy, tri sở tiền hậu, tắc cận Đạo hỹ , , , ” Nghĩa là Vật có gốc ngọn, việc có trước sau, nếu mình biết gốc ngọn trước sau, thì gần được Đạo vậy, tức là mình phải biết nguồn gốc sinh thành ra chúng ta đây để lo đền đáp công ơn đào tạo ấy.

         Ân sanh thành dưỡng dục của cha mẹ sâu nặng như vậy, người con hiếu thảo phải ở với cha mẹ hết lòng tôn kính, nuôi cha mẹ thì hết lòng vui vẻ, cha mẹ đau ốm thì hết lòng lo, cha mẹ mất, cư tang thì phải hết lòng xót thương, khi tế tự thì nghiêm trang hết mực (Hiếu tử chi sự thân, cư tắc trí kỳ kính, dưỡng tắc trí kỳ lạc, bệnh tắc trí kỳ ưu, tang tắc trí kỳ ai, tế tắc trí kỳ nghiêm , , , ,, ).

         Ngoài ra, Thầy Mạnh Tử cũng nói rằng: “Con đối với cha mẹ, sự phụng dưỡng khi cha mẹ còn sống, không đủ gọi là việc lớn, duy chỉ việc chôn cất khi cha mẹ chết mới gọi được là việc lớn” (Dưỡng sinh giả bất túc dĩ đương đại sự, duy tống tử khả dĩ đương đại sự, ) và Thầy cũng có nói: “Đạo trị thiên hạ cần nhứt là khiến dân nuôi người sống và tang người chết mà không có điều gì hối hận” (Dưỡng sinh tang tử vô hám, vương đạo chi thủy dã , ).

         Việc tang cho cha mẹ được Nho giáo coi là quan trọng như thế, nên khi cha mẹ mất, nghi lễ xưa định con cái ba ngày không ăn uống. Điều này cũng dễ hiểu, bởi khi cha mẹ mất, người con hiếu vì trong lòng bi thương cực độ, còn bụng dạ nào ăn uống được nữa? nên tục định trong ba ngày cư tang, hiếu tử không ăn không uống.

         Thế mà Tăng Tử cho rằng quá nhẹ, Thầy nói với Tử Tư rằng: Cấp (tên của Tử Tư) này, khi tôi lo lắng cho tang lễ cha mẹ đã từng bảy ngày không uống một giọt nước, không ăn một cái gì.

         Tử Tư nói: Việc định lễ chế của Thánh hiền đã có sự suy xét nhiều mặt rồi sau mới quyết định. Như vậy, những người có tình cảm quá sâu đậm thì phải hơi kềm chế bản thân mình một chút, để phù hợp với lễ chế; còn những người lạnh nhạt phải tự ép mình một chút để đúng với lễ định. Nếu muốn hợp với lễ chế, khi có tang, chỉ yêu cầu trong ba ngày không ăn không uống, dựa vào gậy tang để chống lên đứng dậy di chuyển là được rồi (Đàn Cung Thượng).

         Ta thấy Tăng Tử cư tang bảy ngày không ăn uống, nên trách những người đối với tình thân quá hờ hững. Nhưng những lời Tử Tư cho biết lễ chế chú trọng thích đáng, có tính khả thi, nếu quá đáng sẽ hóa ra dở vậy.

         Ngày nay, trong tang lễ Cao Đài, nếu là một người con chí hiếu không phải nhịn đói cư tang, mà trước nhứt phải giữ chay lạt suốt trong thời kỳ hành tang lễ và tuần cửu để thành tâm cúng tế, không bày biện hình thức phí phạm, hao tốn, không nên khóc lóc chỉ chú trọng ai bi cư tang, thành kỉnh tế tự, ấy là căn bản của lễ nghi vậy. Điều cần nhứt trong tang lễ của Đạo là hiếu quyến phải chí thành cầu xin Đức Chí Tôn, Phật Mẫu, các Đấng Thiêng Liêng Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thất Nương Diêu Trì Cung cứu độ cho Chơn linh phụ hay mẫu được siêu thăng thoát hóa mà thôi.

         Sau lễ tang, những người con hiếu thảo phải khắc cốt ghi tâm đến lời trong “Kinh Tụng Cha Mẹ Đã Qui Liễu” có nhắc nhở mà chính mình quì tế thì mặc nhiên như một lời hứa hẹn với hai đấng song thân đã quá cố:

Thong dong cõi thọ nương hồn,

Chờ con lập đức giúp hườn ngôi xưa.

         Có nhớ đến lời hứa hẹn, người con hiếu mới quyết tâm lo bồi công lập đức để lấy đó mà hồi hướng cho Chơn linh cha mẹ hầu có thể trở về Quê xưa vị cũ. Đó là thực hiện đúng câu Phật pháp: “Thân đắc ly trần cấu, tử đạo phương thành tựu , ”(Cha mẹ được xa lìa khỏi bụi trần, thì mới được gọi là trọn đạo làm con).

         ¨Em tế anh chị:

         Thánh hiền ngày xưa có quan niệm rằng tình nghĩa anh em như là tay chân, tình nghĩa vợ chồng như xiêm áo, trong ca dao Việt Nam có câu:

Anh em như thể chân tay,

Vợ chồng như áo cởi ngay tức thì.

         Cổ ngữ cũng có nói: Cái ở thế gian rất khó được là anh em: “Thế gian tối nan đắc giả huynh đệ”. Câu này được trích từ câu chuyện trong sách Bắc Tề như sau: Ông Tô Quỳnh làm quan thái thú huyện Thanh Hà. Dân trong huyện có hai anh em ruột tên là Phổ Minh tranh giành ruộng đất, đã nhiều năm thưa kiện không ngã lẽ, mỗi bên viện cả trăm người để làm chứng. Vụ án được chuyển lên quan thái thú, ông Quỳnh đòi vào mà phủ dụ rằng: Cái khó được trong thiên hạ là anh em, cái dễ được là ruộng đất. Thảng như được ruộng đất mất anh em, bấy giờ trong lòng của hai người thế nào? Nói đến đó, quan thái thú bèn rơi lụy khóc. Anh em Phổ Minh cúi đầu xin về nhà nghĩ lại...Chia rẽ năm năm, rồi sau anh em hòa thuận trở lại.

         Xem thế, tình anh em thực là nồng nàn thắm thiết, từ buổi lọt lòng đến lúc trưởng thành, biết bao nhiêu là niềm thương yêu khăng khít. Nếu chẳng may, anh hay chị mãn phần thì phận làm em lại há nỡ chẳng tiếc thương sao!

         Đạo Cao Đài thể hiện cái tình anh em khi tử biệt bằng bài Kinh Tụng Huynh Đệ Mãn Phần [8].

      B. PHỤ TẾ.

         Trước khi phụ tế, là phần tuyên dương công nghiệp cho người chết.

         - Chánh Trị Sự hay Chức Việc Bàn Trị Sự đọc tuyên dương công nghiệp cho Đạo hữu trong hương Đạo mãn phần.

         - Chức Sắc Cai Quản Họ Đạo đọc tuyên dương công nghiệp cho Chức Việc trong Họ Đạo. mãn phần.

         Khi đọc tiểu sử và công nghiệp hành Đạo cho Chức Sắc hoặc Chức Việc lâm chung, vị Chức Sắc hay Chức Việc thay mặt Hội Thánh phải mặc Đại phục vào bái lễ Đức Chí Tôn, rồi mới đến trước Bàn linh đọc tuyên dương công nghiệp. Khi xong phải trở lại Thiên Bàn xá 3 xá, rồi mới trở ra thay Đại phục.

         Xong phần tuyên dương công nghiệp đến phần niệm hương phụ tế. Nếu người chết là vị Chức Việc thì Chức Sắc niệm hương phụ tế, nếu người chết là vị Đạo hữu thì Chức Việc niệm hương phụ tế. Khi nhiều người vào niệm hương thì chỉ phát hương cho quí vị đứng hàng đầu mà thôi.

         Phụ tế là nghi dành cho thân bằng cố hữu cúng tế theo nghi châm chước, có nhạc và hai lễ sĩ chấp sự, tế chủ quì tay bắt Ấn Tý, đồng nhi đọc một bài kinh Thế Đạo: “Kinh Cầu Bà Con Thân Bằng Cố Hữu Đã Qui Liễu”.

         Sau phần Phụ tế xong, tang gia phải có lời đáp từ Hội Thánh, quí Chức Sắc, Chức Việc và toàn Đạo nam nữ lưỡng phái và ba ban: Nhạc, lễ, đồng nhi. Nếu trong tang quyến không có người đại diện thì Chức Việc sở tại thay lời để đáp từ.

          Chúng ta đã biết, ngoài quan hệ thân tộc, người ta còn nhiều mối quan hệ khác nữa như: Vua tôi, Thầy trò, xóm giềng, bè bạn...Tất cả những mối quan hệ đó đều có mối ân tình ràng buộc lẫn nhau, tạo nên một giềng mối nhơn luân. Do vậy, khi có người thân trong mối quan hệ đó mất, chúng ta phải sắm lễ phẩm đến phúng tế. Đó gọi là nghi Phụ tế. Nghi Phụ tế gồm vua tôi, thầy trò, bà con bầu bạn…

         1- Vua tôi:

         Chế độ quân chủ, vua là thiên tử, là người thay mặt cho Trời để trị dân, cho nên vua chỉ phải tuân mệnh Trời, còn nhân dân và quỉ thần ở trong nước đều ở dưới quyền tuyệt đối của nhà vua. Vua là cha mẹ dân, vì vậy tài sản và sinh mệnh của dân, đều cũng là của vua hết. Hay nói cách khác, đất ruộng trong nước đều là của vua, và vua có quyền sinh sát đối với mọi người trong nước.

         Vua có nhiệm vụ phải lo lắng, chăm sóc muôn dân, nên khi gặp vị vua hiền minh, nhân dân sẽ được hưởng cảnh thái bình, an cư lạc nghiệp. Xem thế, công đức của vị Thánh vương, theo bài kinh, có thể sánh bằng Đấng Chí Công.

         Người tín đồ Cao Đài, lấy đạo tam cang làm trọng, nên vua thăng hà, tức đạo quân thần, phải khắc ghi ơn sâu nghĩa nặng của ngọn rau tấc đất mà thể hiện qua lòng thành kính tế lễ cho nhà vua. Do thế, Tiên Nương Đoàn Thị Điểm mới giáng cơ ban cho bài Kinh Tụng Khi Vua Thăng Hà.

         2- Thầy trò:

         Trong xã hội hiện thời, thầy được xem như người truyền thụ kiến thức lại cho con em, do vậy tình thầy trò không thấy gì thấm thiết. Ơn thầy xem như ơn hướng dẫn kiến thức, chứ không như thầy học xưa có trách nhiệm khai tâm, khai hóa nên một con người.

         Theo quan niệm xưa, công ơn của cha mẹ đào tạo ra hình hài thể xác thì to lớn như trời biển, song đã có tấm thân mà không có thầy khai hóa thì con người chỉ như một khối thịt tùng theo vật dục mà hành động, không có tri giác, không hiểu lễ giáo. Vì vậy người xưa cho rằng công lao thầy đào tạo nên người bằng công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, nên lập thành cái đạo: Đạo thầy trò, và xếp trước đạo cha con, sau đạo vua tôi, ấy là đạo: Quân, sư, phụ.

         Đời Tống một triết gia Trung Quốc là Chu Đôn Di mới lập Sư đạo (Đạo của thầy trò), ông cho rằng: Cái đạo của Thánh nhân rất quí, nhưng phải có thầy dạy mới biết được. Ông đặt vấn đề: Làm sao khiến cho thiên hạ đều thiện cả? Rằng phải có thầy dạy, tức là kẻ tiên giác dạy kẻ hậu giác, kẻ mờ tối học kẻ sáng suốt, như thế thì đạo thầy được thành lập vậy.

         Chính vì người xưa xem đạo thầy trò cao trọng như vậy, nên khi Khổng Tử mất, các môn đồ của Ngài phải để tâm tang ba năm (Bằng tang cha mẹ), mãn tang họ họp nhau lần cuối cùng ở trước mộ để khóc Ngài, rồi mới chia tay nhau mỗi người đi mỗi nơi. Riêng Tử Cống còn ở lại trong một căn nhà lá để giữ mộ cho thầy thêm ba năm nữa.

         Tiên Nương Đoàn Thị Điểm, trong tác phẩm Nữ Trung Tùng Phận cũng cho rằng ơn nghĩa của thầy dạy học cũng sánh bằng với công sanh thành dưỡng dục của cha mẹ. Bà viết:

                              Con nhờ thầy công danh mới toại,

                              Như nhờ cha mới giỏi hình dung.

                                 Hai ơn ấy gẫm so đồng,

                  Nghĩa kia như hiếu, mặn nồng cả hai.

         3- Thân bằng cố hữu:

         Bài “Kinh Cầu Bà Con Thân Bằng Cố Hữu Đã Qui Liễu” được dùng để đồng nhi tụng đọc khi những người ngoài thân tộc ruột thịt, hay bạn bè tế lễ cho người quá cố.

         Theo quan niệm về đạo lý con người, một nhà có việc tang thì trăm nhà lo giúp (Nhứt gia hữu sự, bá gia ưu, ), hoặc lấy câu “thố tử hồ bi ” để tỏ lòng đau xót cho nhau.

         Trong thiên Khúc Lễ, sách Lễ Ký có nói rằng: Trong làng có tang sự thì người giã gạo chẳng đặng hò, có tẫn liệm thì ngoài đường không ca hát (Lân hữu tang, thung bất xướng, lý hữu tẩn bất hạng ca , ; , ). Đây là phép cư xử của người biết đạo lý, nhằm bày tỏ chia buồn cùng tang gia hiếu quyến của thân bằng cố hữu trong cơn hữu sự.

         Đức Khổng Tử là người rất nhân hậu, hễ thấy ai đau đớn, buồn rầu, khổ sở thì Ngài động lòng thương xót. Chương Thuật Nhi có kể lại rằng: Phu Tử ngồi ăn bên cạnh người có tang thì ăn không no. Ngày nào có đi phúng điếu về thì suốt cả ngày không đàn hát (Tử thực ư hữu tang giả chi trắc, vị thường bão dã. Tử ư thị nhật, khốc tắc bất ca. , . , ).

         Châu Trình ngày xưa lấy gương Đức Khổng Phu Tử điếu tang người đời mà dạy rằng: Khi đến điếu nhà có tang, chẳng nên uống rượu ăn thịt, chẳng đặng phép đàm luận lớn hoặc cười cợt to tiếng (Phàm điếu ư hữu tang giả chi trắc, bất ẩm tửu thực nhục, bất khả cử đàm đại tiếu , , ), mà phải tỏ vẻ thương xót như thế mới là lẽ phải vậy.

         Việc tang sự là cái cảnh buồn đau, bối rối của người ta, mà sự trợ tang là một nghĩa vụ của mọi người chúng ta. Đã là nghĩa vụ, thì khi người gặp cảnh tang biến, mình có thể giúp được việc gì thì nên giúp, còn nghĩ gì đến sự ăn uống được, trong lúc tang quyến gặp cảnh đau đớn, còn vui đâu mà thù tiếp. Vậy mà bày cổ bàn thịnh soạn để tiệc tùng, say sỉn thì than ôi! đâu còn là ý nghĩa của sự điếu tang để trợ tang nữa!

         Tang lễ ngày xưa có tục đua nhau làm đám to tát, linh đình, nhà giàu tổ chức cỗ bàn thịnh soạn để đãi nhiều người tới phúng điếu. Quan niệm làm đám tốn tiền nhiều chừng nào, có nhiều khách ăn uống chừng nào thì được tiếng khen chừng nấy. Câu tục ngữ “Nhất nhân tử, vạn nhân túy ” (Một người chết, muôn người say) là có ý mỉa mai cái hủ tục nhơn có người chết mà tổ chức ăn uống linh đình. Vì tục tranh nhau làm đám ma lớn mà có người mang công mắc nợ, cố đất cầm vườn để trả nợ miệng thế gian và lấy thể diện với người đời, thực là một việc làm phi lý hết sức.

         Riêng tang lễ trong Đạo Cao Đài, về thể pháp, là thể hiện tấm ân tình với người quá cố bằng cách đến chia buồn và tương trợ. Có hai cách tương trợ:

         - Một là trợ táng bằng cách đến điếu tang.

         - Hai là tỏ lòng trọng kính với người quá vãng nên sắm lễ vật để cúng tế. Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thần Thành Hoàng Bổn Cảnh đình Mỹ Lộc giáng cơ dạy rằng: “Tế tự là tại sao? Phàm có lòng tin mới cúng. Cúng là lấy lễ đó, gọi là kỉnh trọng, chớ Thần Thánh nào ăn của ai. Bởi thế nên ai dùng vật thực mà cúng, tốt hơn nên dùng trái cây”. Như vậy, khi sắm lễ vật để cúng tế, chúng ta là người có Đạo thì nên sắm hoa quả, rượu hay trà bánh, thiết nghĩ phẩm vật như bột ngọt, đường cát, dầu ăn…không phải lễ phẩm để cúng tế.

         Về bí pháp, thì người tín đồ đến để hộ niệm cho người quá cố. Vì thế, người đến hộ niệm không nên nhậu nhẹt, say sưa mà buộc phải hết sức tinh tấn để thành tâm cầu rỗi cho vong linh. Sự thành tâm đó mới có năng lực cảm ứng với các Đấng Thiêng Liêng mà hộ trì cho Chơn linh được dễ dàng siêu thoát.

         Đám tang ở các tỉnh đạo địa phương thường trong tang quyến có người không theo Đạo mà theo phong tục ngoài đời, có người lại theo Tôn giáo khác, nên việc thực hiện theo nghi lễ Đạo Cao Đài khó được thuần nhứt. Ví như nghi phụ tế, tại Châu Thành Thánh Địa, tất cả người đến tế lễ đều chờ đợi vào giờ phụ tế. Trong khi tại các địa phương, người có mâm tế thường cúng tế riêng, thậm chí có nhiều đội tế là thông gia của tang quyến còn giành nhau để được tế trước. Và khi họ cúng tế đều có khởi đánh trống chầu, một nghi thức mà Đạo Cao Đài không có, bởi trống chầu đối với Đạo là Ngọc Hoàng Sấm hay Lôi Âm Cổ. Lại nữa, có đám, sui gia không có Đạo, mang đến một con heo quay con để cúng tế, trong khi nội qui của Tôn giáo buộc tang gia phải thực hành đám toàn chay.

         Cũng có đám, người con là một hương chức của làng, mà người cha hoặc người mẹ có Đạo chết, ban hội hương của Đình mang cặp lọng đến đặt hai bên Bàn vong người mất, điều này phạm nặng vào nghi thức của Đạo. Vì thế, Các vị Chức sắc Cai Quản Họ Đạo và các Ban nghi lễ ở địa phương đó thường phải hết sức khéo léo lắm mới không mếch lòng với bà con tang quyến hay ban hội hương trong làng xóm.

      C. CẦU SIÊU.

         Tất cả tang quyến của người chết (Vợ hoặc chồng, con, dâu, rể và các cháu), càng đông càng tốt, đều đến trước Bàn vong quì thẳng, lớn trước nhỏ sau, tay bắt Ấn Tý để làm lễ cầu siêu cho Chơn linh người mất.

         Chức Sắc, Chức Việc, đồng nhi và toàn Đạo nam nữ đến dự lễ đều đứng hai bên, tay cũng bắt Ấn Tý cùng đọc bài Kinh Cầu Siêu (Đầu vọng bái Tây Phương Phật Tổ …..), đọc xen với bài Kinh Khi Đã Chết Rồi (Ba mươi sáu cõi Thiên tào ….). Đọc ba lần, khi dứt niệm câu chú Thầy ba lần.

         Theo lời chú giải của Hội Thánh, sở dĩ tụng bài Kinh Cầu Siêu rồi còn phải tụng xen bài Kinh Khi Đã Chết là vì sợ e cho vong hồn hoặc là người không tu mà Hội Thánh mới độ hồn, hoặc Đạo hữu mới phạm thệ mà đi xuống cõi Phong đô, nên trước phải tụng bài Kinh Cầu Siêu hầu cho vong hồn hồi dương đặng rồi tụng tiếp bài Kinh Khi Đã Chết Rồi đặng vong hồn được hưởng phép siêu thăng Tịnh độ.

         Nghi lễ Cầu Siêu của Đạo Cao Đài cần rất nhiều người Đạo càng đông càng tốt, có lòng tự nguyện và chí thành cùng với Tang gia hiếu quyến (con cháu) nhứt tâm cùng tụng đọc bài Kinh Cầu Siêu nhằm để cầu xin Chí Tôn, Phật Mẫu và các Đấng Thiêng liêng Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thất Nương Diêu Trì Cung ân xá cho vong hồn người chết được siêu thăng thoát hóa.

         Ngày xưa, khi Đức Hộ Pháp dự đám tang, dự lễ Cầu siêu, Ngài thấy có nhiều người không đọc Kinh. Sau đó Ngài giảng giải ý nghĩa Kinh Cầu Siêu, sự mầu nhiệm của bài Kinh Cầu Siêu và sự huyền diệu của việc Cầu siêu. Và dặn mọi người phải đọc một cách thành tâm khi dự đám.

         Đức Hộ Pháp dạy: “Mỗi khi Kinh được đọc thì âm thanh sẽ vang ra, mỗi người một âm thanh, tức một người phát ra một điễn lực. Nhờ đó Chơn linh người chết, nếu hợp với điễn lực đó, họ sẽ nương nhờ vào mà giải trừ oan nghiệt và tội lỗi vì người chết và tất cả những người có mặt nơi đám, biết đâu trong vô lượng kiếp trước, giữa họ và ta đã từng là người chí thân hoặc đầy dẫy oan nghiệt, tội tình, mà người chết và ta chưa từng gặp mặt nhau.

         Nơi cửa Đạo Cao Đài này, ta không biết họ là ai, ta thành tâm cầu nguyện Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và các Đấng Thiêng Liêng ân xá và tha thứ tội tình cho họ được siêu thăng thoát hóa. Còn đối với riêng ta, ta cũng tha thứ cho họ nữa. Được như thế, lần hồi cái nợ nần, oan nghiệt, trái chủ của ta, của họ và của mọi người sẽ tự tiêu tan, kết thúc. Cho đến một ngày nào, đến khi ta thoát xác, các bạn của ta cũng tha thứ cho ta, như ta đã làm hôm nay cho những người đã qui liễu. Cái ý nghĩa này, mọi người nên biết, để khi dự lễ Cầu siêu lại đừng quên đọc Kinh với lòng cầu nguyện chân thành cho người thân yêu mong đợi”.

         Đức Ngài còn cho biết thêm: “Người chết, chơn hồn còn vấn vương, lảng vảng nơi đây. Nếu trong số người dự lễ Cầu siêu có được những bậc chơn tu, đạo đức đến cầu nguyện hoặc những bậc có cấp bậc trong Tôn giáo đến cầu nguyện càng có lợi cho người chết, vì lời cầu nguyện ấy sẽ nâng đỡ linh hồn họ. Còn riêng những người Đạo, cũng có người đức độ lớn, giữ Đạo tốt đến cầu nguyện tất ảnh hưởng tới vong linh người mất” (1).

         Vong linh người chết được những tư tưởng, điễn lành của mọi người đến dự lễ Cầu siêu phát ra ắt sẽ hưởng được ân huệ. Vì vậy mà Đức Hộ Pháp khuyên chúng ta nên siêng năng đi đám vừa có lợi cho người, vừa có lợi cho mình.

         Trong quyển “Thiên Đạo”, Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có nói đến sự tác dụng của Kinh Cầu siêu như sau: “Kinh Cầu Siêu rất linh nghiệm vì mỗi tiếng tụng lên vốn có sức rung động huyền diệu vô cùng. Sức rung động ấy, hiệp với sức tư tưởng mạnh mẽ và thành kỉnh của người tụng kinh gây thành một mảnh lực phi thường đánh tan Chơn thần của âm nhơn, giúp cho họ mau giải thoát đau khổ và hình phạt Thiêng Liêng đặng đi đầu thai sớm được”.

         Thực hiện lễ Cầu siêu là nhằm cầu xin Ơn Trên cứu giúp phần nào cho vong linh người chết được nhẹ nhàng, vì nó còn tùy thuộc vào nghiệp quả nặng nhẹ mà kiếp sinh người chết đã gây tạo.

         Nhưng sự siêu thoát của cha mẹ ông bà có thể trợ giúp bằng việc làm của con cháu. Nếu con cháu biết lo tu hành, lập công bồi đức để có thừa âm chất mà đem hiến dâng cho cha mẹ ông bà thì những Chơn linh này có thể được nhẹ nhàng trở về ngôi xưa vị cũ. Trong Kinh Tụng Cha Mẹ Đã Qui Liễu có câu:

Thong dong cõi thọ nương hồn,

Chờ con lập đức giúp huờn ngôi xưa.

         Tại sao chỉ có con cháu mới có thể cứu ông bà và cha mẹ? Chúng ta biết, khi một người thác sinh vào một dòng họ nào đều do nhân quả trả vay mà đầu kiếp vào dòng họ đó, nên giữa ông bà, cha mẹ và con cháu có mối dây ràng buộc về oan trái lẫn nhau. Vì thế, những tội lỗi do mình gây ra thì Tổ tiên, cha mẹ phải gánh chịu; còn công đức do mình tạo ra thì Cửu Huyền đều thọ hưởng. Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy: “Một người giữ tròn đạo hạnh thì cứu đặng Thất Tổ Cửu Huyền, vậy có đáng quí báu chăng?(1).

         Biết vậy, bổn phận con cháu, khi ông bà, cha mẹ chết, lúc còn trong tang phải thành tâm tụng niệm Di Lặc Chơn Kinh để cầu nguyện các Đấng Thiêng Liêng độ rỗi cho Chơn linh họ được siêu thoát, rồi sau đó lo tu thân hành Đạo, tạo lập công đức độ rỗi Cửu Huyền và dành phước huệ lại cho con cháu thọ hưởng.

         Theo chánh pháp Cao Đài, Di Lặc Chơn Kinh là bài kinh do Đức Thích Ca Mâu Ni Văn Phật giáng cơ ban cho chúng sanh trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, là một bài kinh rất thiêng liêng và rất huyền diệu, tụng lên có thể cầu chư Phật siêu độ cho Chơn linh, cứu thoát được tam tai, giải trừ được tật bịnh…

         Căn cứ nội dung bài kinh, chúng ta thấy ở mỗi từng Trời (Hỗn Ngươn Thiên, Hội Ngươn Thiên, Hư Vô Thiên…) chư Phật đều có nhiệm vụ đi dạo khắp cõi Ta Bà Thế Giái độ hết các Chơn linh để được trở về với ngôi vị Phật (…Năng du Ta Bà Thế giái độ tận Vạn linh đắc qui Phật vị). Trong từng Hội Ngươn Thiên, Đức Di Lặc Vương Phật có hứa: “Nếu có chúng sanh nào nghe biết lời của Ta, thì nên tìm cách thoát khỏi nghiệp chướng, bằng cách niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, tùng theo những điều khoản luật pháp của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, thì ắt được giải thoát khỏi luân hồi, mà đạt được con đường Chánh Đẳng chánh Giác, đó là chứng quả vị nơi cõi Cực Lạc Niết Bàn” (Nhược hữu chúng sanh văn ngã ưng đương thoát nghiệt, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng tùng thị Pháp điều Tam Kỳ Phổ Độ, tất đắc giải thoát luân hồi, đắc lộ Đa La Tam Diệu Tam Bồ Đề thị chi chứng quả Cực Lạc Niết Bàn).

         Chính do lời Phật giáng cơ ký hứa, nên Di Lặc Chơn Kinh là bài kinh rất mầu nhiệm mà tất cả chúng sanh trong Đạo Cao Đài nên siêng năng tụng đọc. Càng tụng niệm nhiều chừng nào thì có lợi cho Chơn linh người quá cố, hay Cửu Huyền nhiều chừng nấy.

         Như vậy, trong những tang lễ hay tuần cửu tang quyến nên chay lạt mà tụng niệm nhiều chừng nào tốt chừng nấy. Hằng đêm sau khi cúng thời xong nên tụng Di Lặc Chơn Kinh và Kinh Cứu Khổ.

XI.-HÀNH PHÁP ĐỘ HỒN.

         Chức sắc, Chức việc và toàn Đạo phải cúng Chí Tôn đúng thời nơi Thiên Bàn trước (Nếu có Chức sắc đến hành pháp thì 2 ly nước Âm Dương phải được đậy để dành đó), rồi tang quyến chuẩn bị hai mâm cơm canh để cúng Thần Thành Hoàng Bổn Cảnh và cúng Cửu Huyền Thất Tổ.

         Kế đó, con cháu đến bàn thờ Cửu Huyền để hành lễ Cáo Từ Tổ, theo nghi châm chước, có nhạc lễ. Nghi Cáo Từ Tổ xong, con cháu đến Bàn linh để cúng vong theo nghi châm chước, đọc một bài Kinh Thế Đạo. Tiếp theo hành lễ Cầu siêu.

         Muốn hành bí pháp độ hồn cho Chơn linh thì người quá cố lúc sinh tiền buộc phải ăn chay mười ngày trong một tháng đổ lên, và sau đó theo nghi lễ năm 91 là quan tài của người chết phải đặt quay đầu vô nhà.

         Trẻ em từ 10 tuổi trở lên nếu trường trai hoặc thập trai cũng được thi hành theo nghi lễ này. Còn dưới 10 tuổi thì chỉ thượng sớ và Cầu siêu mà thôi.

         Chức sắc Hành pháp sẽ hành phép xác, phép đoạn căn và phép độ thăng cho Chơn hồn trong nghi lễ Cầu siêu này.

         Khi đồng nhi tụng bài Kinh Cầu siêu và bài Kinh Khi Đã Chết Rồi ở hiệp một thì vị Chức sắc hành pháp tay trái bắt Ấn Hộ Pháp, để chén nước Cam lồ trên Ấn, tay mặt lấy nhành dương đi giáp vòng quan tài người chết để dùng nhành dương nhúng vào nước Cam Lồ mà rải lên khắp mình người chết. Làm phép xác nhằm ý nghĩa là tẩy rửa Chơn Thần người chết cho hết ô trược để được nhẹ nhàng siêu thăng thoát hóa.

         Khi tụng Kinh Cầu siêu hiệp thứ nhì thì vị Chức sắc hành pháp tay cầm cây kéo đi giáp vòng quan tài tìm 7 sợi dây oan nghiệt nơi xác người chết để cắt. Đó là hành phép đoạn căn với ý nghĩa là cắt cho đứt hết 7 sợi dây oan nghiệt để không còn ràng buộc Chơn Thần người chết nữa.

         Khi tụng Kinh Cầu siêu hiệp thứ ba thì vị hành pháp tay trái bắt Ấn, tay mặt cầm 9 cây nhang vẻ bùa rồi triệu Chơn Thần người chết lên ngồi trên ngọn nhang để người hành pháp đưa vào cõi Hư linh. Đây là bí pháp độ thăng tức phép độ hồn người chết được siêu thăng lên chín từng Trời (Cửu Trùng Thiên).

          Trong Kinh Giải Oan có câu:

                        Dòng khổ hải dễ thường chìm đắm,

                        Mùi đau thương đã thấm Chơn linh.

                           Dây oan xe chặt buộc mình,

                  Nhớp nhơ lục dục thất tình nhiễm thân.

cho chúng ta thấy rằng làm con người mang lấy mảnh hình hài xác thịt, lại phải lặn hụp trong biển khổ của thế gian này, nên khổ sở lo ăn, vất vã kiếm mặc, lại còn bị sự đòi hỏi của thân xác, càng ngày càng gây nhiều oan nghiệt, rồi chìm sâu trong luân hồi sanh tử, tử sanh, khiến những nỗi đau thương thấm sâu vào Chơn linh, làm ô trược nặng nề. Do vậy, con người muốn thoát khỏi oan nghiệt để lo tu hành cũng phải nhờ phép Tắm Thánh, Giải Oan Cắt Dây Oan Nghiệt…hầu gột rửa những oan nghiệp chất chồng đã nhiều kiếp.

            May duyên cho chúng sanh, gặp thời Tam kỳ Phổ Độ, Chí Tôn giáng huyền cơ, khai mở nền Đại Đạo đại ân xá cho các Chơn linh tội lỗi, giải trừ oan khiên nghiệp quảnhằm mục đích cho chúng sanh dễ bề tu hành, hầu có thể phản bổn huờn nguyên, qui hồi cựu vị. Hơn nữa, đạo Cao Đài là một tôn giáo ra đời nhằm để cứu vớt người có tội lỗi như lời Thánh giáo đã dạy: “Buổi lập Thánh Đạo, Thầy đến độ rỗi kẻ có tội lỗi. Nếu đời không có tội lỗi, đâu nhọc đến công Thầy.

         Ấy vậy, các con rán độ kẻ tội lỗi là công lớn làm cho Thầy vui hơn hết”.

         Chính vì thế trong nền Đạo Cao Đài, Đức Hộ Pháp vâng lịnh Chí Tôn truyền cho các Chức sắc hàng Thánh thể của Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài và Phước Thiện những Chơn pháp bí truyền để hỗ trợ cho các Chức Sắc ấy khi đi hành Đạo tại các địa phương dùng để cứu giúp cho nhơn sanh và độ hồn cho các Chơn linh quá cố. Chơn pháp bí truyền đó là 7 Bí tích của Đạo Cao Đài như:

                        - Phép Tắm Thánh

                        - Phép Giải Oan

                        - Phép Hôn Phối

                        - Phép Giải Bịnh

                        - Phép Xác

                        - Phép Đoạn Căn

                        - Phép Độ Thăng

         Những bí tích này có tác dụng về phương diện thiêng liêng là cứu giúp về phần xác và độ rỗi hồn cho con người để giải thoát khỏi những sợi dây oan nghiệt hầu được nhẹ nhàng siêu thăng thoát hóa.

         Như vậy riêng việc siêu độ Chơn linh chúng ta được hưởng 3 bí tích. Đó là:

         ª Hành phép xác.

         Theo Giáo lý nhà Phật, con người sống ở thế gian, xác thân phải mang nhiều phàm trược, bởi vì thế gian này là cõi trược, gồm có ngũ trược:

         Kiếp trược: Do chúng sanh chịu muôn ngàn nỗi khổ sở trong cuộc sống chẳng cách nào diễn tả nổi, nên gọi là Kiếp trược.

         Kiến trược: Do kiến giải hay có thể hiểu là những tư tưởng, suy nghĩ có công năng sai khiến hết thảy chúng sanh tạo tác các ác nghiệp, khiến họ bị đọa lạc trong luân hồi sanh tử, nên gọi là Kiến trược.

         Phiền não trược: Những điều khiến tâm tăm tối, buồn phiền, bất an. Có năm yếu tố tạo thành phiền não: Tham (tham lam), sân (hờn giận), si (ngu muội), mạn (kiêu ngạo), nghi (ngờ vực). Do những yếu tố này khiến tâm bị ray rứt, hỗn loạn, mờ đục, nên gọi là Phiền não trược.

         Chúng sanh trược: Chúng sanh mê muội, chấp trước vào ngã tướng, nên sanh ra tâm vị kỷ, tâm tư lợi, mà gây tạo bao nhiêu ác nghiệp. Vì tạo ác nghiệp, nên bị đọa những đường ác xấu, hèn hạ để chịu đựng, do vậy gọi là Chúng sanh trược.

         Mạng trược: Thân người do duyên hợp, biến đổi không ngừng, không cách nào khống chế nổi. Khi nghiệp lực duy trì các duyên kết hợp lại đã hết, các duyên sẽ chia lìa, vì thế mỗi thân mạng chỉ tồn tại một thời kỳ nhứt định, gọi là Thọ mạng. Thọ mạng bị chấm dứt bất ngờ do những yếu tố ngoại lai như bịnh tật, tai nạn....nên gọi là Mạng trược.

         Khi thân xác bị ô trược thì Chơn thần cũng bị ô trược, mà Chơn thần là một xác thân Thiêng liêng do Phật Mẫu dùng nguơn khí tạo thành, nên rất nhẹ nhàng, trong sạch. Vì ngũ trược, vì oan nghiệt buộc ràng, và vì vật chất lôi cuốn con người chìm đắm vào vòng tục lụy là nơi có nhiều cấu trược, rồi từ đó, con người mới mải chịu xây chuyển trong luân hồi sinh tử, khiến Chơn thần càng ngày càng thêm ô trược, nặng nề, làm cho đường về của nó khó khăn. Thánh giáo Chí Tôn dạy: “Cái Chơn thần buộc phải tinh tấn, trong sạch, mới nhẹ nhàng hơn không khí, ra khỏi càn khôn đặng”.

         Kinh Giải Oan viết:

                     Chịu ô trược Chơn thần nặng trịu,

                     Mảnh hình hài biếng hiểu lương tâm.

         Chính vì vậy, Chí Tôn mới ban cho chúng sanh trong thời Tam Kỳ Phổ Độ này được hưởng bí pháp độ hồn, trong ấy là hành phép xác, tức là người hành pháp dùng bí pháp chơn truyền luyện Ma Ha thủy, rồi sau đó lấy nhành dương nhúng vào nước Ma Ha rải vào thân xác người mất để tẩy rửa Chơn thần tinh khiết hầu dễ dàng siêu thoát.

ª Hành phép đoạn căn.

         Những hành động hung tàn bạo ngược và những việc làm ác đức của con người nơi thế gian này sẽ tạo thành những sợi dây oan nghiệt, có khả năng lôi kéo các Chơn linh phải chìm đắm vào luân hồi sinh tử. Như vậy, tức là con người luôn tự mình xe dây để tự trói chặt vào mình mà không hay. Sợi dây oan nghiệt đó xây chuyển từ muôn đời ngàn kiếp trong cái vòng lẩn quẩn không bao giờ thoát ra nỗi.

         Chúng sanh may duyên gặp thời Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn và Phật Mẫu khai nền Đại Đạo hầu mở cơ tận độ, nên giao cho “Bí tích hành phép Đoạn căn” để giải thoát Chơn thần ra khỏi những sợi dây oan nghiệt đó.

         Theo Đầu Sư Thượng Sáng Thanh trong quyển Bí Truyền Chơn Pháp, sự sống của con người do nơi khí Sanh quang nuôi nấng, khí sanh quang nơi mình chúng ta tụ tại 7 khiếu làm nên điễn lực, gọi là Thất khiếu sanh quang, phàm gọi là bảy dây oan nghiệt (hay bảy sợi từ khí).

         Bảy dây oan nghiệt là 7 dòng điễn lực nối liền giữa Chơn thần và thể xác, hễ điễn lực còn thì thi hài còn vận chuyển, sanh hoạt, điễn lực dứt thì thi hài phải chết. Khi sắp sửa chết thì thi hài phải chịu một phen khổ sở, đau đớn, vì bảy dây oan nghiệt này vẫn còn ràng buộc thể xác và Chơn thần, không bứt rời ra được.

         Chính vì lòng Đại từ bi, Chí Tôn mới ân xá, ban cho Đạo Cao Đài bí tích Cắt Dây Oan Nghiệt, tức là dùng diệu pháp cắt bảy cái mối năng lực đặng cho Chơn thần xa lìa xác tục, rồi cũng dùng diệu pháp mà đưa vào cõi Hư linh.

         Hành phép đoạn căn là vị hành pháp dùng kéo đi vòng quanh quan tài để cắt đứt 7 sợi dây oan nghiệt nơi thân con người:

                        - Ngay mỏ ác

                        - Ngay trán.

                        - Ngay cổ.

                        - Ngay tim.

                        - Ngay hông bên trái.

                        - Ngay dạ dưới.

                        - Ngay xương khu.

         Bảy dây oan nghiệt là thất tình, còn trong châu thân hữu hình là 7 phách ở 7 vị trí trên xác thân con người. Khi người hành pháp đoạn căn, phải định Thần thấy được xác mới cắt đúng vị trí của 7 lằn khí còn vướng bận với xác thân. Nghĩa là đi từ phải qua trái giáp vòng quan tài về vị trí giữa như lúc mới đứng ban đầu.

         Đức Hộ Pháp cho biết 7 vị trí phách ấy trên châu thân con người là biểu tượng của chòm sao Đại Hùng tinh, tức là sao bánh lái hướng Bắc Đẩu. Đó là Trời và người đều giống nhau.

         Nói về cây kéo dùng để cắt dây oan nghiệt, Đức Hộ Pháp có cho các vị thọ pháp biết: Cây kéo khi đã được trấn thần trước Thiên nhãn. Mấy em đừng nghĩ nó là cây kéo mà lầm, nó chính là cây Thư Hùng Kiếm của Đức Thượng Sanh đó. Chỉ có gươm Thư và gươm Hùng nhập lại mới đoạn được 7 dây oan nghiệt của thế tình mà thôi.

         ª Hành phép độ thăng.

         Vị Chức Sắc hành pháp dùng Thần lực của chính mình và ấn khuyết trong phép Độ thăng truyền vào vong linh người chết để Chơn thần họ được nhẹ nhàng và sáng suốt mà lên 9 cây hương, rồi vị hành pháp đưa thẳng lên chín từng Trời hay gọi là Cửu Trùng Thiên.

         Người làm phép độ thăng phải định thần thì việc hành pháp mới có hiệu nghiệm như lời dạy của Phối Thánh Phạm Văn Màng giáng cơ cho Đức Hộ Pháp năm 1936: “Xin Sư Phụ dặn lại dùm mấy vị Hành phép xác, biểu trục Chơn Thần vào 9 cây nhang, gọi là Cửu Tiêu, rồi thì nán đợi cho Chơn Thần thăng cho đủ Tam giái, nghĩa là ba bực, thăng rồi lại cầm vững cho Tam Bửu nhập định đủ ba lần.

         Mấy vị ấy không đợi đủ, lại không định thần, thành thử Bửu pháp ấy không hiệu nghiệm vào đâu hết”.

         Tóm lại, làm phép độ hồn cho một người chết là lấy quyền năng điễn lực vô hình luyện Ma Ha thủy để tẩy trừ những mối oan khiên, ô trược, kế tiếp dùng kéo thiêng liêng đoạn lìa bảy mối oan nghiệt cho Chơn Thần được nhẹ nhàng lên cõi Hư Linh.

         Ấy vậy, làm phép xác cốt yếu là tắm gội xác tục và hồn với giọt nước Cam Lồ, cắt đứt bảy dây oan nghiệt cho Chơn thần lìa khỏi xác rồi đưa Chơn thần vào cõi Hư linh, nghĩa là Thanh Tịnh Đại Hải Chúng, Tứ Đại Bộ Châu và Tam Thập Lục Thiên (1).

         Việc hành pháp độ thăng đòi hỏi vị Chức sắc được thọ truyền bí pháp phải có một đời sống tu hành nghiêm mật, một năng lực tinh thần mạnh mẽ mới có đủ quyền năng linh hiển để truyền vào Chơn thần người chết cho được thanh thoát, nhẹ nhàng.

       Việc hành pháp độ thăng chỉ giúp phần nào cho Chơn thần người quá cố, bởi vì Chơn thần của họ tùy thuộc vào nghiệp quả mà lúc sanh tiền đã làm thiện hoặc ác. Nếu sinh thời gây nhiều ác nghiệp, thì việc hành pháp độ thăng và năng lực cảm ứng của những người đến cầu siêu chỉ giúp đỡ phần nào cho Chơn linh người chết được nhẹ nhàng mà thôi, nếu sinh thời lập nhiều công đức thì việc hành pháp độ thăng và năng lực cảm ứng của những người đến cầu siêu sẽ dễ dàng đưa Chơn linh người chết vào cõi Tịnh Độ.

XII.- LỄ ĐỘNG QUAN.

         Trước khi di chuyển quan tài để đi an táng thì phải làm lễ Khiển điện, tức là lễ dọn dẹp bàn cúng điện (Bàn vong) để Ban Đạo tỳ vào động quan khiêng Linh cữu ra Thuyền Bát Nhã hay xe tang đi an táng.

      a- Khiển điển:

         Khiển điện có nhạc và hai lễ sĩ chấp sự theo nghi tiết sau:

         - Đạo giả tựu vị:

         Đạo tỳ sắp hàng đi vòng qua lại trước Bàn linh.

         - Nhơn quan giả bái quan:

         Các Đạo tỳ đứng trật tự rồi lạy trước Bàn vong.

         - Đạo giả nhập cữu:

         Các Đạo tỳ đứng hai bên linh cữu.

         - Chấp sự giả triệt linh tọa:

         Các vị chấp sự khiêng bàn vong qua một bên, một người trong tang bưng khay Linh vị.

         - Đạo giả cử cữu thăng xa phát hành:

         Các Đạo tỳ khiêng linh cửu lên thuyền Bát Nhã hay xe tang và khởi hành.

         Vị Chức Sắc hoặc Chức Việc cầm phướn Thượng Sanh và tang chủ bưng khai Linh vị đến trước Thiên Bàn xá ba xá, rồi ra phía trước quan tài sắp đặt theo thứ tự di quan.

          Tục lệ ngày xưa trước khi làm lễ Khiển điện phải lễ cáo Từ Đường, tức là lễ diễn ra trong phút quàn cuối cùng tại nhà. Nếu nhà nào giàu sang có phủ thờ riêng và có điều kiện thì di quan tài đến nhà thờ để người chết cúng lạy Ông Bà lần cuối. Nếu không có điều kiện vì chật hẹp thì chỉ xoay chuyển quan tài tượng trưng một vòng mà thôi, gọi là Chuyển cữu. Tuy nhiên, phổ biến nhứt là người ta rước hồn bạch qua nhà Từ Đường thay cho quan tài để người chết cáo Từ Đường.

         Riêng chánh pháp Cao Đài mượn Linh vị tượng Chơn linh người chết, nên lễ cáo Từ Đường chỉ cần con cháu đem khay Linh vị sang làm lễ Cáo Từ Tổ tại Bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ mà thôi.

         Ngày xưa, người chết thường được quàn tại nhà lâu, nên trước khi khiển điện có làm lễ “phá quàn”, tức là lễ do một vị Sư múa võ, đi quyền trước Bàn vong rồi sau đó dùng gậy pháp đập vỡ cái nồi đất đặt dưới quan tài.

         Ngày nay, sau khi khiển điện, tục lệ lại lấy cái siêu đất (đã được để dưới quan tài từ lúc an vị Linh cữu) ra đập bể, làm như vậy có ý nghĩa là cầu cho vong linh người qui liễu được siêu thoát.

         Nghi “Phá quàn” ngày nay không phải do nhà sư múa nữa, mà do người chuyên đánh “Phá quàn” học về cách đi quyền, đánh võ và lấy tích một vị tướng cướp trên núi xuống trộm quan tài về an táng nơi sơn trại, có người nói do tích Tiết Cương thám Thiết Khưu Phần.

         Qui định của Tôn giáo Cao Đài không cho quàn Linh cữu tại nhà lâu (chỉ để trong vòng ba ngày) nên việc múa phá quàn chẳng cần thiết cho lễ tang người tín đồ Đạo. Lại nữa, ta nhận thấy việc múa phá quàn theo nghi lễ đời không lợi ích cho việc siêu độ Chơn linh, trái lại còn gây sự thất kính với người quá cố, và không tốt đẹp cho danh thể người Đạo, bởi người đánh phá quàn cầm đuốc múa võ quanh quan tài, được tượng trưng cho một tướng cướp trên sơn trại, nửa đêm đem lâu la đốt đuốc, xuống núi cướp quan tài người chết đưa lên sơn trại an táng. Thử hỏi nếu là cha hoặc mẹ của vị Đạo hữu được một tướng cướp gọi bằng cha hoặc mẹ và điều động đám lâu la đem quan tài lên sơn động mà an táng thì có đáng thẹn và đau buồn lắm không!

         Còn việc thăng hay đọa, là kết quả cả kiếp sanh của người chết đã làm điều thiện hoặc làm điều ác. Chẳng những nghi lễ của Đạo Cao Đài như cầu hồn, cầu siêu, làm phép xác, cắt dây oan nghiệt, làm phép độ thăng…cũng chỉ nhằm nhắc nhở, trợ giúp một phần nào cho Chơn linh được nhẹ nhàng để dễ dàng thoát hóa mà thôi, huống chi việc đập bể siêu đất thì làm sao có thể can thiệp vào sự thăng hay đọa của vong linh người mất được.

         Theo luật công bằng thiêng liêng “Nhất nhân hành Đạo Cửu Huyền thăng ”, như vậy, chỉ có con cháu người quá cố mới có thể giúp thẳng cho Chơn linh ông bà, cha mẹ siêu thoát được mà thôi. Muốn vậy, con cháu phải biết lo tu hành, phải lập công bồi đức để lấy công đức đó mà dâng hiến cho vong linh ông bà, cha mẹ thăng tiến.

         Nghi lễ động quan là giờ phút cuối cùng của quan tài người thân còn ở trong nhà để sau đó được di chuyển ra huyệt an táng vĩnh viễn nơi mộ phần. Vì vậy, trong thời khắc này tang quyến rất đau buồn. Tục ngày xưa, con cái thường khóc la một cách thảm thiết, có người kêu trời kêu đất, có kẻ lại gào thét đến hết hơi khan tiếng. Ta biết, sự thương cốt ở trong lòng, chỉ đau đớn rơi hai dòng lệ cũng là đủ rồi, cần chi phải khóc than kể lể. Chính vì người xưa quan niệm cho rằng khóc lóc là thể hiện lòng thương yêu, nên trong nghi tiết cúng lễ có mục “cử ai” (Tang quyến phải khóc lên), “chỉ ai” (Tang quyến ngưng khóc).

         Thậm chí, con của Tăng Tử là Tăng Thân nghĩ rằng khi có tang cha mẹ, con cái phải khóc theo một thanh điệu nhất định, nên mới hỏi cha. Tăng Tử trả lời: Con cái đi giữa đường đột nhiên lạc cha hoặc mẹ thì con nghĩ xem tiếng khóc của đứa con có cần thanh điệu không?

         Chúng ta thấy khi gặp nỗi đau lớn lao như mất cha hoặc mẹ, hầu như bị điếng hồn, khóc không ra hơi nữa, đó là biểu lộ hoàn toàn sự chân tình, chứ làm sao còn nói đến chuyện sử dụng thanh điệu gì để mà khóc?

         Chúng ta biết, khóc là do sự kích động của lòng thương xót, thế mà khi làm lễ, thầy cúng xướng “cử ai ” thì con cái làm sao khơi dậy lòng ai bi mà khóc lóc được, nếu mà khóc được thì tỷ như diễn xuất thôi, chứ trong lòng làm sao có mối cảm xúc. Khi đang khóc thầy lại xướng “chỉ ai ” thì con cái làm sao chận được cái tình cảm đau thương trong lòng mà ngưng khóc!

         Lễ là biểu hiện của lễ nghi tiết độ, bởi vì nói chung những sự việc mà con người phải tiếp xúc chỉ là hình thức bên ngoài của lễ. Nếu như quá sức xem trọng hình thức thì rất dễ dàng khiến cho lễ rơi vào tình trạng thừa thãi, ngụy tạo, trở nên vô nghĩa, vì vậy chúng ta không nên bày hình thức la gào, khóc lóc trong tang lễ Cao Đài, bởi sự thương yêu ở trong lòng, chỉ thể hiện bằng cử chỉ đau khổ, gương mặt buồn rầu cũng đủ, chứ không nên khóc la thành tiếng mà mất thanh tịnh trong tang lễ và chỉ làm quyến luyến, đau thương cho vong linh người chết mà thôi.

      b- Phát dẫn:

         Phát dẫn là nghi đưa tiễn Linh cữu đến huyệt mộ. Theo Cao Đài giáo, một đám tang khi đưa đi hạ huyệt thì phải theo một trật tự. Trật tự đưa đám tang cho vị Chức Việc Bàn Trị Sự và Đạo hữu được Hội Thánh hướng dẫn như sau:

               1.- Bảng Đại Đạo.

               2.- Phướn Thượng Sanh.

               3.- Khay Linh vị

               4.- Đồng nhi (Tụng bài Đưa Linh, có đờn)

               5.- Vãng lụy (nếu có).

               6.- Thuyền Bát Nhãn chở Linh cữu

               7.- Tang quyến

               8.- Chức Sắc, Chức Việc, Đạo hữu nam nữ.

         Hễ đám tang phát hành thì đồng nhi tụng bài Kinh Đưa Linh Cữu từ nơi phát hành ra tới huyệt mộ.

         Trên đường di quan, nơi Châu Thành Thánh Địa, thuyền Bát Nhã và người đưa đám tang đi vào nội ô Tòa Thánh, dừng lại trước Báo Ân Từ, ban nghi lễ nơi đây dộng một hồi chuông, tang quyến bưng khay vong vào lạy Phật Mẫu.

         Khi tới trước Đền Thánh, ban nghi lễ cũng dộng một hồi chuông, tang quyến bưng khay Linh vị vào lạy Chí Tôn để cầu nguyện cho vong linh.

         Tại các địa phương nếu trên đường di quan có đi ngang qua Thánh Thất thì ban nghi lễ nơi đó cũng dộng một hồi chuông, tang quyến cũng thỉnh Linh vị vào bái lễ Đức Chí Tôn.

         Theo nghi lễ năm 91, việc rước vong vào cầu nguyện tại Thánh Thất hay Điện Thờ Phật Mẫu địa phương thì nam rước nam, nữ rước nữ. Nghĩa là:

         Chức Sắc hoặc Chức Việc nam phái rước vong người nam phái qui vị.

         Chức Sắc hoặc Chức Việc nữ phái rước vong người nữ phái qui vị.

         Nếu không có Chức Sắc hoặc Chức Việc nữ thì Chức Sắc, Chức Việc nam mới rước vong cho người nữ qui vị.

         Người cầm phướn dẫn vong phải là một vị Chức Việc hoặc một vị Chức Sắc tùy theo phẩm cấp người qui vị.

          Theo phong tục, ngày phát dẫn, tức là ngày di chuyển quan tài đi an táng tất cả tang quyến đều mặc tang phục đưa tang. Khi cha mất, các người con trai đi đưa chống gậy tre, mẹ mất thì chống gậy vông đi thụt lùi trước linh cữu. Con gái, con dâu thì phải lăn đường, nghĩa là nằm lăn ra giữa đường mà than khóc để cho người khiêng quan tài bước qua mình, cứ đi một đoạn đường thì lại nằm lăn xuống cho đến huyệt mộ mới thôi (1). Hiện nay cũng có nhiều gia đình ở vùng sâu của các địa phương còn theo tục lệ này.

         Chúng ta biết lễ tang là cốt để tỏ lòng thương xót đối với người chết, song lễ phải làm theo những nghi tiết trang nghiêm và chân tình, không vì câu nệ thái quá mà thành như diễn trò, chứ chẳng thấy chút gì biểu lộ tình cảm tự nhiên.

         Riêng với người Đạo Cao Đài, chúng ta vẫn cư tang bằng cách mặc tang phục, tay cầm gậy tre hay gậy vông, nhưng không nên kêu gào, nằm lăn hay khóc lóc. Bởi chúng ta biết giáo lý Đức Phật đã dạy: Ái biệt ly khổ , tức là vì thương yêu quá nên khi xa lìa nhau là khổ. Vì vậy, chúng ta phải giải trừ cái khổ đó bằng cách siêu độ Chơn linh để không còn luân hồi nữa. Vì vậy, dù yêu thương người thân mà đau đớn cách mấy thì cũng phải nén lòng mà cư tang. Không nên bày trò thảm thiết hay khóc lóc, đau buồn làm cho Chơn linh người mất vì tình cảm mà quyến luyến cõi dương trần, không chịu dứt rời để về quê xưa cảnh cũ. Điều này Kinh Tẩn Liệm cũng từng nhắc nhở Chơn linh người quá cố:

                        Đừng gìn thân ái nghĩa nhân,

                        Xôn xao thoát khổ xa lần bến mê.

         Cần nhứt tang gia hiếu quyến nên thành tâm cúng lạy các Đấng Thiêng Liêng để siêu độ Chơn linh và trang nghiêm tế lễ để thể hiện lòng kính trọng ân đức người chết.

         Ngoài ra, trên đường di quan đến huyệt mộ, theo phong tục, thường dùng giấy tiền vàng bạc, đô la địa phủ rải tung tóe khắp đường lộ, bởi tục lệ cho rằng có quỉ phụ vào quan tài, nên phải rắc vàng mả để tống quỉ, kẻo quan tài nặng nề khó khiêng đi. Lại có người nói rằng rắc giấy tiền vàng bạc là để vong hồn người chết có của để chi dụng.

         Việc này xét ra quá mê tín, không phù hợp với giáo lý Đạo Cao Đài. Chúng ta thấy, nặng nhẹ là do quan tài dùng bằng gỗ tốt hay gỗ thường. Nếu chúng ta sợ nặng nề cho Đạo tỳ khiêng thì nên tạo cỗ quan tài bằng gỗ thường, để nhẹ nhàng, đỡ về phí tổn, lại nữa khi chôn xuống mau hư mục, Chơn thần mau dứt lìa khỏi hài cốt dễ dàng.

         Còn nói rải giấy tiền vàng bạc là dành để người chết hưởng dùng thì lại càng mâu thuẫn, bởi trong tang lễ người con nào cũng mong vong linh cha hoặc mẹ được siêu thoát, nên mới nhờ Đạo thành tâm cầu nguyện hay nhờ thầy cúng siêu độ cho linh hồn. Nếu vong linh cha hoặc mẹ được thoát hóa thì giấy tiền vàng bạc là vật chất hữu hình nơi thế gian liệu có cần thiết cho vong linh trong cõi Thiêng Liêng hay không?

XIII.- LỄ HẠ HUYỆT.

         Khi tới nơi chôn cất, linh cữu được đặt yên trên huyệt, vị Chánh Trị Sự cùng với tang gia hiếu quyến mới đến trước Linh cữu bày hoa quả để thiết lễ cầu nguyện Hoàng Thiên Hậu Thổ để gởi thi hài của người qui liễu nơi phần mộ, rồi tang gia lạy ba lạy.

         Nếu trong thân bằng quyến thuộc có điếu văn thì đọc trước phần mộ, và đại diện tang gia đáp từ để cảm tạ Hội Thánh, Chức Sắc, Chức Việc, các ban bộ và chư vị Đạo hữu nam nữ.

         Lễ cảm tạ xong, tang quyến quì trước đầu huyệt, tay bắt ấn Tý, đồng nhi tụng bài Kinh Hạ Huyệt (ba lần), mỗi lần dứt một hiệp thì cúi đầu, mãn hiệp thứ ba tiếp tụng Vãng Sanh Thần Chú, ba lần, khi dứt niệm câu chú Thầy, ba lần.

         Tiếp theo đó vị chứng lễ đứng ngang quan tài xá Thiên Nhãn trên tấm Phủ quan ba xá, rồi mới thu hồi đem cất.

         Sau cùng, Linh cữu từ từ được hạ xuống, an táng vĩnh viễn nơi mộ phần.

          Theo phong tục về tang lễ ở Nam Bộ, trước khi hạ huyệt phải trải lên nắp quan tài một lá triệu, sau đó mới lấp đất lại. Lá triệu đó, ghi lý lịch và tánh hạnh của người chết dùng như một tờ giấy chứng nhận cho vong hồn người mất.

         Trong nghi tiết tang lễ hiện nay, phần đông trong dân gian các Thầy tụng còn có nghi “Đề phan (1) hay “Thiết minh tinh (2), tức là viết chữ vào lá phan hay tấm Minh tinh, tục gọi là tấm “Triệu” vậy.

         Lá triệu, tức là “Phan” hay “Minh tinh”, do người bình dân gọi theo danh từ “Tiếp triệu” trong tấm phan hay minh tinh viết theo nghi thức Phật giáo. Hai chữ “tiếp triệu” có nghĩa là “tiếp dẫn triệu gọi” linh hồn người chết về Tây Phương Cực Lạc hay trình diện U Minh Giáo Chủ Địa Tạng Vương Bồ Tát.

         Đề phan hay “Thiết minh tinh”, tức là một lễ do vị Sư tụng miệng đọc tay viết tên tuổi quê quán, ngày sanh, ngày chết, đức hạnh của người mất lên lá phan hay lá minh tinh. Ngoài ra, còn kể lể công đức lúc sanh tiền của người quá cố, đồng thời Thầy tuyên dương Phật pháp trích từ kinh điển nhấn mạnh về lẽ vô thường, sinh diệt để thức tỉnh cho vong linh. Đề phan hay thiết minh tinh thì do các Thầy viết và ngâm có ca kệ, còn đề triệu theo tục lệ thì chỉ viết chữ vào lá triệu mà thôi.

         Tấm triệu được treo trên một cây tre cầm dẫn đi đường, hoặc gắn vào một cái giá, là một cái khung bằng cây tre đặt trên một cái giá bốn chơn có chỗ cho cháu đích tôn người chết ngồi lên đó và được người ta khiêng đi phía trước xe tang trong ngày di quan ra phần mộ.

         Sau khi Linh cữu đặt an trên miệng huyệt, người ta mới trải dài tấm triệu trên nắp quan tài, đến khi hạ huyệt xong mới lấp đất lại. Cũng có nơi khi hạ huyệt người ta đốt lá triệu.

         Lá triệu được quan niệm như một giấy thông hành của người chết để trên đường di quan từ nhà đến huyệt, đạo lộ âm binh nhìn thấy lý lịch người chết ghi rõ trên lá triệu mà không ngăn chặn xét hỏi cho đi qua và sau khi hạ huyệt 7 ngày linh hồn người chết cầm tấm triệu này trình cho quỷ tốt giữ cầu Nại Hà để chúng tiếp nhận, dẫn vào trình diện Diêm Vương (1).

         Trên lá triệu thường có thêu hình Bát Tiên, trong đó người ta viết theo thứ tự một hàng chữ Nho, từ trên xuống dưới, lý lịch vắn tắt của người chết gồm tên Nước, tỉnh, huyện, xã, tên họ, chức vụ, đứng hàng thứ mấy trong gia đình, hưởng thọ hay hưởng dương và cuối cùng ban tặng cho người mất. Nếu người Nam thì tặng trung trực, thuần lương…nếu người Nữ thì tặng trinh thục…

         Có hai cách viết triệu:

         ¨ Triệu Làng.

         Một tấm triệu do vị Hương chức hay nhân sĩ trong làng viết. Ví dụ:

         “, , , , , , ,

         Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Tiền Giang tỉnh, Châu Thành huyện, Long Định xã, tánh Nguyễn húy Thành Nhân, đệ nhị hàng, hưởng hạ thọ lục thập tứ tuế, tặng viết: Thuần lương chi linh cữu.

         ¨ Triệu Phật.

         Một tấm triệu hay thiếtt minh tinh (Minh sanh)do Thầy tụng bên Phật giáo viết,. Ví dụ:

         “ , , , , , ,

         U Minh Giáo Chủ tiếp triệu, phục vị vong tính Lê húy Nguyệt, nguyên sanh Việt Nam quốc, Tiền Giang tỉnh, pháp danh Diệu Chơn, hưởng thọ thất thập nhứt tuế, đệ tam hàng chi linh cữu.

         Khi viết triệu, người ta thường đếm số chữ của lá triệu theo bốn chữ “Quỷ khốc linh thính”, sao cho chữ cuối cùng của người nam đúng vào “linh”, chữ cuối cùng của người nữ đúng vào chữ “thính” (gọi là nam linh nữ thính). Tránh đừng để chữ cuối rơi vào chữ “quỷ” và chữ “khốc”. Nếu gặp trường hợp này thì ta thêm chữ vào hoặc bớt đi để cho nam dứt ở “linh”, nữ dứt ở “thính”.

         Triệu làng là lá triệu của người đời, được vị Hương chức hay thân hào nhân sĩ có uy tín trong làng viết và ban tặng, còn triệu Phật do vị Sư hay các Thầy tụng viết cho một vị Phật tử theo nghi thức của Phật giáo.

         Theo chánh pháp Cao Đài, người tín đồ chết không có viết triệu, tức không lấy tấm triệu làm lý lịch thông hành, bởi vì một khi đã hồng thệ nhập môn, về vô vi người tín đồ được Chí Tôn nhìn nhận là đệ tử Đấng Cao Đài và về hữu hình được Hội Thánh chứng nhận bằng giấy Sớ Cầu Đạo.

         Như vậy, khi di quan ra huyệt mộ người Đạo Cao Đài về thể pháp, đã có lá phướn Thượng Sanh (Thế cho tấm triệu) dìu dẫn Chơn linh người quá cố, nghĩa là Phướn Thượng Sanh đi trước dẫn khay Linh vị. Về bí pháp nơi cõi thiêng liêng mỗi Chơn linh đều được dẫn dắt bằng phướn Tiếp Dẫn của Tiếp Dẫn Đạo Nhơn, hay phướn Tiêu Diêu (phướn Truy Hồn) của Lục Nương Diêu Trì Cung.

         Còn Sớ Cầu Đạo là tờ giấy mà Hội Thánh cấp cho người Đạo Cao Đài, chứng nhận cho người đã lập minh thệ để nhập môn vào Đạo, được Chí Tôn nhìn là Môn đệ, nên có giá trị về mặt vô vi, nghĩa là Chơn linh có thể lấy đó như một sắc lệnh thông hành về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

         Vì vậy cho nên Sớ Cầu Đạo của người quá vãng được vị Chánh Trị Sự cầu nguyện và đốt trước khi hạ huyệt để linh hồn người mất tiện sử dụng.

XIV.- NGU TẾ, VIẾNG MỘ, KHAI MỘ.

         An táng rồi trở về nhà đơm quả phẩm tế lại tại Bàn linh gọi là Ngu tế . Ngày hôm truớc tế gọi là sơ ngu , ngày thứ hai gọi là tái ngu , ngày thứ ba gọi là tam ngu .

         Ngu nghĩa là yên. Vì người chết, xương thịt mới chôn dưới đất, hồn phách chưa được yên, cho nên cần tế lễ ba lần để yên hồn phách cho người chết.

         Lễ Sơ ngu còn được gọi là Lễ an sàng hay quải chân dung , tức treo ảnh người chết lên bàn thờ. Chữ an sàng cũng có ý chỉ an bày người chết lên giường nằm (Đây là Bàn thờ). Trong lễ an bày này theo nghi lễ xưa phải treo hai tấm màn vải thưa trước Bàn thờ, phủ xuống tận dưới đất.

         Trong ba ngày sau khi đã chôn cất, mỗi buổi chiều con cái đem cơi trầu đến mả khóc lóc gọi là viếng mộ.

         Tục lệ ngày nay thường để đến ngày thứ ba sau khi chôn cất người trong tang gia hiếu quyến mới mặc tang phục đem khay vong ra mộ phần bày lễ cúng gồm năm thứ đậu (có nơi dùng mè), một cây thang làm bằng bẹ chuối hay cây sậy, ba ống đựng gạo, muối và nước, một cây mía lau chín lóng và một con gà con cùng với giấy tiền vàng bạc, giấy quần áo, nhà kho…Lễ cúng này gọi là lễ khai mộ, tục gọi là mở cửa mả.

         Ý nghĩa làm lễ mở cửa mả theo người đời là để vong hồn người chết được siêu thăng lên cõi Tịnh độ. Cây thang nam 7 nấc, nữ 9 nấc là để người chết leo lên khỏi huyệt mộ. Năm thứ đậu, gạo muối và nước để hồn người chết ăn uống cho no dạ. Cây mía lau chín đốt là tượng trưng cho chín chữ cù lao. Còn con gà con để tượng trưng các con nay côi cút như gà con lìa mẹ. Gà con còn được hiểu là gà linh, khi bị đánh nó kêu lên làm vong hồn người chết đang mê muội chưa biết mình đã chết, tỉnh ra (1).

          Theo chánh pháp Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ thì không có lễ khai mộ (Mở cửa mả), tức là bày lễ vật như tục dân gian mà cúng mở cửa mả.

         Bởi vì triết lý Cao Đài cho rằng:

Khối vật chất vô hồn viết tử,

Đất biến hình tự thử qui căn.

         Sở dĩ con người có sự sống là nhờ sự hiện diện của Linh hồn. Linh hồn là một Tiểu Linh Quang của Thượng Đế chiết từ khối Đại Linh Quang để ban cho con người. Còn thi thể phàm tục vốn dĩ do một khối vật chất cấu thành, nghĩa là xác thể con người từ tế bào xương thịt do tinh cha huyết mẹ tạo ra, được lớn lên nhờ sự nuôi sống của vật thực, là nguồn cung cấp từ đất. Vậy Đất sinh ra vật chất tạo ra hình thể, còn Trời ban cho Linh hồn là một thể bất tiêu bất diệt. Trời đất trong con người hợp lại thì có sự sống, nghĩa là có linh hồn và thể xác. Nếu như Linh hồn lìa khỏi xác thân thì xác thân chỉ là một khối vật chất bị chết rồi sẽ tan rã.

         Như thế, chỉ Chơn linh người chết mới có thể về sống nơi cõi thiêng liêng được, còn thi hài là khối vật chất nên phải trở về với nguồn cội là đất, chứ không thể siêu thăng được:

Hồn trời hóa trở về Thiên cảnh.

Xác đất sanh đến lịnh phục hồi.

         Xác được an táng nơi mộ phần, còn hồn thì chờ đợi về cõi vô vi. Vì vậy, Đạo Cao Đài trọng Chơn linh người chết, nên thể hiện bằng tấm Linh vị, an ngôi nơi Bàn Linh để hằng ngày cúng cơm cho vong linh về phần Thế đạo, gọi là thờ người chết như người còn sống “Sự tử như sự sinh ” và đến ngày Tuần cửu thỉnh vong qua Thiên Bàn cầu siêu cho Chơn linh người quá cố, đó là phần Thiên đạo. Còn thi hài người mất được vùi sâu dưới lòng đất, tức là trở về với đất. Sở dĩ phải an táng kín đáo, xây mộ phần, sau này hằng năm phải tảo mộ là bởi vì ơn nghĩa mà người sống phải trọng kính thi hài người mất, đó là phần Thế đạo.

         Việc mở cửa mả là tục của người đời, bởi người ta quan niệm rằng hồn người chết vẫn quanh quẩn nơi thi hài, nên mới có tục mở cửa mả để cầu siêu nơi huyệt mộ và có tục thỉnh vong từ mộ trở lại nhà. Các Thầy tụng bên Phật Giáo cũng có nghi rước vong như vậy. Thử hỏi, đã tạo Linh vị tượng trưng cho vong hồn người chết và thờ nơi Bàn vong rồi thì ngoài mộ còn hồn đâu mà thỉnh?

         Tóm lại, trong nghi lễ Cao Đài không có cúng mở cửa mả, không sử dụng giấy tiền vàng bạc, giấy quần áo, nhà kho…để cúng cho vong linh.

         Nếu người Tín đồ muốn thể hiện lòng hiếu thảo, sau ba ngày an táng, có thể sắm hoa quả hay nấu chè xôi đem ra phần mộ cúng Thần Thành Hoàng Bổn Cảnh (tức Hậu Thổ) và cúng xác tại mộ phần (Tức là nghi Thế đạo để lòng hiếu kỉnh), chứ không phải cúng vong, bởi vong linh được thờ tại nhà, hằng ngày đã có cúng. Lễ này theo Đạo, coi như là lễ viếng mộ mà người xưa thường làm thôi.

XV.- TUẦN CỬU, TIỂU, ĐẠI TƯỜNG.

         Phương thức độ hồn cho vong linh sau khi chết được tiếp tục diễn ra trong vòng 581 ngày. Đó là các tuần cửu và tiểu, đại tường.

         Những người đã quá vãng, sau khi an táng xong, kể từ ngày chết, đếm tới 9 ngày thì tang gia hiếu quyến đem Linh vị đến Thánh Thất sở tại, hay Thiên Bàn tại tư gia để làm tuần Nhứt Cửu, đếm tới 18 ngày (tức 9 ngày sau) thì làm tuần Nhị Cửu...cho đến 81 ngày thì làm tuần Cửu Cửu.

         Kể từ sau một ngày chung cửu (hay Cửu Cửu), đếm tới 200 ngày thì làm tuần Tiểu Tường. Rồi kể từ sau một ngày làm tuần Tiểu Tường đếm tới 300 ngày thì làm tuần Đại Tường, hay là tuần mãn tang.

         Như vậy, theo nghi lễ của đạo Cao Đài, một tín đồ giữ thập trai, kể từ ngày chết cho đến ngày làm tuần Đại Tường tất cả là 581 ngày, phải dâng 9 lá sớ khi cúng chín tuần cửu, một lá sớ cúng tuần Tiểu Tường và một lá sớ cúng tuần Đại Tường. Tổng cộng là mười một lá sớ cùng với lá sớ Tân Cố thượng khi vừa mới chết nữa là mười hai lá sớ.

         Như vậy, một vị Đạo hữu ăn 10 ngày chay trở lên thì được thọ truyền Bửu pháp, tức là được:

         - Làm phép xác

         - Làm Tuần Cửu, Tiểu, Đại tường và được thượng 12 lá Sớ lên Đức Chí Tôn.

         - Tụng kinh Cầu siêu và tụng thêm bài kinh Khi Đã Chết Rồi.

         - Đối phẩm hàng Địa Thần (Khi lạy vong linh ba lạy).

         - Có dộng chuông di quan khi đến Báo Ân Từ và Đền thánh.

      a.-Tuần Cửu:

         - Nếu cúng tại Thánh Thất, tang gia hiếu quyến phải bưng Linh vị đến đó cúng thời ngọ, có thượng sớ Tuần cửu.

         Cúng thời xong, tụng bài Kinh Khai Cửu, kế tiếp tụng kinh Tuần cửu (Kinh Đệ Nhứt Cửu, Đệ Nhị Cửu, hay Đệ Tam Cửu….). Sau cùng tụng Di Lạc Chơn Kinh.

         - Nếu do hoàn cảnh không thuận tiện đến Thánh Thất thì có thể cúng cửu tại tư gia. Tang quyến phải chuẩn bị hoa, quả trong ngày cúng.

         Tang quyến bưng khay Linh vị cùng với Chức Việc và toàn Đạo thiết lễ cúng Chí Tôn vào thời ngọ, có dâng tam bửu, thượng sớ Tuần cửu.

         Kế tiếp nhập đàn, tụng bài Kinh Khai Cửu, tụng xong, Chức Việc và toàn Đạo đứng qua hai bên, tang quyến vẫn quì để tiếp tụng Kinh Đệ Nhứt, Nhị hay Tam…Cửu, tụng ba lần, dứt niệm câu chú Thầy ba lần.

         Sau cùng nhập đàn trở lại để tiếp tụng Di Lạc Chơn Kinh.

         Nếu là một vị Chức Sắc qui liễu, hành lễ tại tư gia, khi tụng Di Lặc Chơn Kinh, Linh vị của Chức Sắc được để ngang chỗ vị Chức Việc chứng lễ, Nam bên tả, Nữ bên hữu.

         Trong tuần Chung Cửu, nếu tang gia có nấu cơm canh để cúng Cửu Huyền Thất Tổ và cúng vong, thì nghi thức Cáo Từ Tổ và cúng vong cũng giống y như cúng trong phần tang lễ.

          Tục lệ dân gian thường theo Phật giáo làm “Tuần thất”, cứ bảy ngày làm một tuần chay, làm đủ bảy tuần, đến ngày thứ 49 thì làm lễ “Chung thất”, tục gọi là cúng năm mươi ngày.

         Được 100 ngày là tuần tốt khốc nghĩa là đến bây giờ mới thôi khóc, tuần này tế lễ một tiệc rồi thôi không còn cúng cơm hai bữa nữa.

         Được một năm thì là giỗ đầu, gọi làm lễ “Tiểu tường” hay Giáp Năm.

         Được hai năm thì làm lễ Đại tường tức là giỗ hết, gọi là “Mãn khó”.

         Tục xưa còn phải thêm ba tháng nữa, tức là phải đủ 27 tháng kể từ ngày chung thất, thì mới làm lễ trừ phục, gọi là Đàm tế. Bấy giờ mới bỏ hết tang phục. Từ đó về sau, cứ mỗi năm đến ngày kỵ lại phải làm lễ gọi là giỗ, cho đến khi người chết lên đến bậc ngũ đại (Đời thứ năm) thì chôn Thần chủ (Ngũ đại mai Thần chủ ), từ đó không còn làm giỗ nữa, mà chỉ thờ chung nơi Từ đường thôi.

         Riêng Đạo Cao Đài không cúng Thất mà cúng Cửu, bởi vì theo triết lý Đại Đạo, một Chơn linh phải do theo đường Cửu Thiên Khai Hóa mà siêu thăng, tức là phải được Cửu Vị Tiên Nương nơi Diêu Trì Cung và Phật Mẫu dẫn dắt đi qua chín từng trời, gọi là Cửu Trùng Thiên để trở về quê xưa cảnh cũ.

         Theo giáo lý Cao Đài, con người sau khi chết sẽ được thọ sanh theo nghiệp thiện hay nghiệp ác. Người có tu hành, làm nhiều việc thiện thì được siêu sanh vào cõi Thiêng Liêng, là cảnh giới thanh tịnh, nhẹ nhàng; người làm nhiều việc ác thì phải chịu ở cõi Âm quang, là cảnh giới trọng trược, nặng nề. Những người không phân định rõ nghiệp lành hay nghiệp ác thì Chơn linh sẽ chờ đợi các Tuần cửu và Tiểu Đại Tường nhờ con cháu, thân bằng quyến thuộc ở thế gian thành tâm siêu độ hay làm những điều lành để hồi hướng công đức cho họ được nhẹ nhàng về Thiên cảnh.

         Vì thế, việc làm Tuần Cửu, Tiểu, Đại Tường rất cần thiết cho Chơn linh mà bổn phận con cháu trong thời gian này, phải chay lạt, có lòng thành cầu cúng, tạo lập công đức bằng các việc từ thiện như bố thí người nghèo khổ, bịnh tật, ủng hộ những người tu hành chân chính, thí pháp…để giúp cho Chơn linh người chết dễ dàng siêu thoát.

         Trong thời gian này tang gia hiếu quyến hằng đêm cúng thời xong nên tụng Di Lạc Chơn Kinh và Kinh Cứu Khổ để  siêu rỗi cho người mất.

         Những bài Kinh tụng Cửu trong quyển Kinh Thiên Thế Đạo do Cửu Vị Tiên Nương giáng cơ ban cho chúng sanh trong thời Tam Kỳ Phổ Độ. Nội dung các bài Kinh nhằm nhắc nhở vong linh người quá cố xa lánh tục trần, lìa khỏi Phong đô để được đi qua từng cõi giới càng ngày càng nhẹ nhàng và thanh cao hơn để hướng về nguồn cội của Chơn linh là Đức Thượng Đế.

         Ý nghĩa Kinh Nhứt Cửu: Vườn Ngạn Uyển nơi Diêu Trì Cung có một bông hoa héo tàn thì một Chơn linh thoát xác. Khi Chơn linh vừa mới thoát xác, thần thức còn mê man, nay được chín ngày, thì nên thức tỉnh, để nhớ lại tiền duyên của mình là Phật tánh, đã chịu nhiều kiếp luân hồi sinh tử mà Chơn linh mượn nơi ấy tiến hóa. Giờ đây căn nghiệp vừa mãn thì phải cắt đứt hết những mối nợ oan khiên do mình gây tạo lúc sinh tiền, hầu trở về với ngôi vị cũ.

         Ý nghĩa Kinh Nhị Cửu: Chơn hồn đến vườn Đào của Bà Tây Vương Mẫu, Bà Nhị Nương mở tiệc trường sanh thết đãi Chơn hồn rồi dìu dắt đến Ngân Kiều để cỡi Kim quang kiệu bay lên Ngọc Hư Cung chầu Đức Thượng Đế.

         Ý nghĩa Kinh Tam Cửu: Chơn hồn được Tam Nương Diêu Trì Cung tiếp dẫn lên tầng Thanh Thiên, rưới nước Cam Lộ cho tiêu thất tình lục dục rồi vào Cung Như Ý bái kiến Thái Thượng Lão Quân. Sau đó, đưa Chơn hồn đến Hội Thánh Minh lãnh sách Trường Xuân đặng lên cõi Huỳnh Thiên.

         Ý nghĩa Kinh TứCửu: Chơn hồn lên tầng Trời Huỳnh Thiên, nhờ thuyền năm rồng đưa vào Cung Tuyệt Khổ yết kiến Đức Huyền Thiên Quân. Chơn hồn được dìu dắt chun ngang cửa lầu Bát quái, để thiêu hết oan gia nghiệt chướng, nhẹ nhàng mà lên núi Thái Sơn, qua cung Đâu Suất, rồi cỡi Kim mao hẩu về cõi Xích thiên.

         Ý nghĩa Kinh Ngũ Cửu: Chơn hồn được Ngũ Nương Diêu Trì Cung tiếp dẫn đến tầng Xích Thiên, đưa đến đài Chiếu Giám để xem rõ những hành vi tội phước của mình nơi thế gian, rồi tiếp tục dẫn đến khai Vô Tự Kinh đặng nhìn thấy được quả duyên. Sau đó, nhờ xe Như Ý đưa, Chơn hồn tiếp lên tầng Trời Kim Thiên.

         Ý nghĩa Kinh Lục Cửu: Chơn hồn được Lục Nương Diêu Trì Cung tiếp dẫn bằng phướn Truy Hồn lên tầng Kim Thiên, rồi đưa vào cung Vạn Pháp để xem ngôi vị của mình, vào cung Lập Khuyết lãnh Bửu pháp Kim sa dự vào phẩm Như lai, tiếp tục được chim Khổng tước chở lên đài Huệ Hương, khử trừ trược khí, rồi nhạc Thiên thiều đưa trổi hồn vào cõi Hạo Nhiên Thiên.

            Ý nghĩa Kinh Thất Cửu: Chơn hồn lên tầng Trời Hạo Nhiên Thiên, một tầng Trời nhiều cảnh xinh đẹp, hào quang chiếu diệu. Nhờ tu hành đắc quả, Chơn hồn được đưa vào cung Chưởng Pháp bái kiến Chuẩn Đề Bồ Tát, rồi Phật Dà Lam dẫn Chơn hồn về Tây Phương Cực Lạc, tức cõi Niết Bàn có trống Lôi Âm thúc giục đưa tiễn Chơn hồn bay đi.

         Ý nghĩa Kinh Bát Cửu: Bát Nương có nhiệm vụ tiếp rước Chơn hồn lên tầng Phi Tưởng Thiên, đưa Chơn hồn vào Cung Tận Thức, qua núi Phổ Đà nhờ Từ Hàng Bồ Tát cho cỡi Kim hẩu bay lên núi Tịch San để vào Cung Diệt Bửu rồi qua tầng Tạo Hóa Thiên.

         Ý nghĩa Kinh Cửu Cửu: Chơn hồn đến tầng Tạo Hóa Thiên để vào Diêu Trì Cung bái kiến Đức Phật Mẫu, được ban thưởng cho Đào hạnh và tiên tửu, nơi đây học hỏi về triều nghi để vào Ngọc Hư Cung.

         Nơi Kim Bàn của Diêu Trì Cung có chứa Nguyên chất tạo hình hài các Nguyên nhân. Nơi đây, chơn hồn được dẫn đến Cung Trí Giác trụ Tinh Khí Thần hiệp nhứt để chờ ngày về cõi Hư Vô Thiên.

      b.- Tiểu Tường và Đại Tường:

         Chữ Tường nghĩa là lành, là kiết. Trong nhà có tang cả nhà mang sự thương xót, đau buồn, vì tưởng nhớ đến người quá cố. Thời gian qua, xoa dịu nỗi đau thương, cái buồn bớt lần lần, đem lại cái vui, như điềm lành, điềm tốt trở lại. Vì vậy, mà Tiểu tường cũng có nghĩa là Tiểu kiết tường 小吉祥, Đại tường cũng có nghĩa là Đại kiết tường 大吉祥 (1).

         Như trên ta biết, Chơn linh người chết qua các Tuần cửu được Cửu Vị Tiên Nương nơi Diêu Trì Cung dẫn dắt đi lên chín tầng Trời là Cửu Trùng Thiên, rồi muốn về với Chí Tôn, Chơn linh còn phải lên ba tầng trời nữa, đó là Hư Vô Thiên, Hội Ngươn Thiên và Hỗn Ngươn Thiên, cộng lại 12 cõi trời, tức Thập Nhị Khai Thiên. Đây là hàng Phật vị.

      ♦/.Làm Tiểu, Đại tường tại Thánh Thất.

         Nghi thức cúng Tiểu Tường và Đại Tường cũng giống như cúng Tuần Cửu, tức là cúng thời ngọ có Tam bửu và dâng Sớ Tiểu Tường hoặc Đại Tường. Sau đó tụng Khai Cửu, rồi tiếp tụng kinh Tiểu hoặc Đại Tường.

         Tụng Di Lạc Chơn Kinh xong, tang gia bưng khay Linh vị xuống Hậu Điện để làm lễ Cáo Từ Tổ trước Bàn Chư Tiên Linh và đặt khay bài vị ở Bàn hai bên Hậu Điện, nam tả nữ hữu để tang gia hiếu quyến tế lễ vong linh.

         Thường tang gia có thể bưng khay Linh vị đến Thánh Thất cúng phần Thiên đạo, rồi về tư gia làm phần Thế đạo.

      ♦/. Làm Tiểu, Đại tường tại tư gia.

         Nghi thức cũng giống như làm tuần cửu tại tư gia, chỉ tụng lại bài Kinh Tiểu Tường hoặc Đại tường mà thôi.

         Cúng Tiểu Tường hoặc Đại Tường tại tư gia, tang gia có thể mời ban nhạc, lễ đến đăng điện cúng tế phần thế đạo.

         Nếu cúng Tiểu Tường thì đến khi cúng vong linh xong là chấm dứt.

         Làm lễ Đại Tường thì khi cúng vong xong, khi Lễ Sĩ xướng: “Lễ thành”, thì một người trong tang quyến đứng trước Bàn vong, rót rượu lễ vào khay mà nói lễ tạ ơn chung các cơ quan, thân bằng cố hữu. Xong đến phần lễ xả tang.

         Theo tài liệu Hạnh Đường, việc thực hành lễ xả tang, trước hết vị Chánh Trị Sự mặc Đại phục sắp đồng nhi trước Thiên Bàn mời tang quyến đến, vị Chánh Trị Sự quì trước, tang quyến quì sau cầu nguyện Đức Chí Tôn để xả tang, bắt đầu đốt Linh vị, đồng nhi tụng 3 biến Vãng Sanh Thần Chú, dứt niệm Câu Chú Thầy ba lần, tang quyến lạy Đức Chí Tôn, rồi qua Bàn vong, kế vị Chánh Trị Sự xả tang cho một người trưởng trong tang quyến (chỉ xả cho tang chủ hay những vị quì hàng đầu), những người còn lại tự lột khăn tang trên đầu xuống và đứng dậy xá bước ra ngoài sẽ cởi bỏ tang phục vào một cái mâm đốt hay để tùy ý gia quyến.

         Trong lễ xả tang, có một số địa phương, vị Chức Việc tuy không thọ pháp, khi hành lễ vẫn thỉnh nước âm dương, lấy bông nhúng vào mà rải lên đầu người thọ tang và dùng kéo cắt tang.

         Việc hành pháp xả tang phải được vị Chức Sắc đã thọ pháp hành lễ mới được. Đức Hộ Pháp có giảng giải điều này như sau: “Sở dĩ lễ Đại Tường phải hành pháp xả tang, ấy là phép để ngừa trùng tang liên táng.

         Sau khi luyện pháp xong, người hành pháp, một tay bắt ấn ở ngực, một tay cầm kéo cắt tang, cắt từng người một! Cắt trên khoảng không cách đầu chừng 5 hoặc 10 cm rồi đưa mũi kéo vít đẩy khăn tang lên, đồng thời nhắm mắt vẽ lên đầu người đội khăn chữ (…). Xong phần cắt.

         Người hành pháp tiếp lấy ly nước Cam Lồ Thủy và dùng nhành dương nhúng nước giũ vào đầu người đã được lột tang xong; giũ ba lần và niệm câu chú Thầy.

         Theo nghi lễ năm 91, hành Tiểu, Đại tường tại tư gia phải:

         - Đem Linh vị vào Đền Thánh hoặc Thánh Thất làm tuần theo luật định.

         - Nếu tang quyến xin hành lễ đăng điện cúng tế vong linh tại tư gia, có lễ nhạc và đồng nhi thì khi đăng điện xong, tang quyến vẫn quì trước Bàn linh, lễ xướng: “Thành kỉnh tụng Tiểu (hoặc Đại) tường kinh”. Đồng nhi tụng kinh khai cửu một hiệp, tiếp đọc kinh Tiểu (hoặc Đại) tường ba hiệp, dứt niệm câu chú của Thầy ba lần.

          Ý nghĩa Kinh Tiểu Tường: Bài Kinh Tiểu Tường do Đức Diêu Trì Kim Mẫu giáng cơ ban cho chúng sanh trong thời Tam Kỳ Phổ Độ.

         Tuần Tiểu Tường được cúng vào ngày thứ 200 kể từ sau ngày làm tuần Cửu Cửu (Chung Cửu) một ngày.

         Theo ý nghĩa Kinh, làm tuần Tiểu Tường tức là cầu nguyện cho Chơn linh được vào cõi Hư Vô Thiên để nghe Đức Nhiên Đăng Cổ Phật thuyết pháp, rồi vào Lôi Âm Tự yết kiến Đức Phật Di Đà. Chơn thần được tắm gội ở ao Thất Bửu để tẩy trừ tục trần, rồi lên ngự trên Tòa sen.

            Bài Kinh Đại Tường do Đức Thích Ca Mâu Ni Văn Phật giáng cơ ban cho chúng sanh trong thời Tam Kỳ Phổ Độ.

            Tuần Đại Tường được làm vào ngày thứ ba trăm (300 ngày), kể từ sau ngày làm tuần Tiểu Tường một ngày.

            Theo ý nghĩa Bài Kinh Đại Tường, Chơn hồn đến tầng Hỗn Ngươn Thiên, nơi đây theo Đức Thích Ca cho biết vào thời Tam Kỳ Phổ Độ, do Đức Di Lặc Vương Phật cai quản, và làm Chánh chủ khảo Long Hoa Hội để tuyển phong những người hiền đức, có nhiều công nghiệp vào ngôi vị Phật.

            Ngài còn giáng Chơn linh xuống làm Hộ Pháp Di Đà để dùng Giáng ma xử khu trừ tà tinh quỉ quái, hầu gồm thâu các mối Đạo hữu hình làm thành nền Đại Đạo, thực hiện giềng bảo sanh của Đức Chí Tôn và lập đời Thánh đức.


[1] Được biết người con gái trong tranh là nữ minh tinh màn bạc Miên Quốc nổi tiếng xinh đẹp, là hoa hậu của thời đại ấy. Chẳng may bị tai nạn giao thông chết trong lúc còn xuân sắc, chưa lập gia đình.

 (1) Lời dặn trong Tài liệu Hạnh Đường: Hai cây đèn sáp hành lễ cầu hồn khi hấp hối phải để liên tục trong cuộc hành lễ liên tiếp đến khi hết thôi, không nên dùng vào việc khác.

(1) Lời khuyên của Hội Thánh trong quyển Quan Hôn Tang Lễ.

(2) Trên đời này, có bốn cách táng người chết, gọi là Tứ táng:

            a. Thủy táng: Ném người chết xuống sông. Cách táng này do ở phía Bắc nước Phi Châu, người mọi da đen hay dùng. Hoặc bên xứ Ấn Độ có con sông Hằng (Gange), khi chết họ cũng đem thây thả xuống dòng sông nầy đặng cho Linh hồn siêu thăng về miền Cực Lạc.

            b. Hỏa táng: Đốt thây thành tro. Cách táng này theo tục Ấn Độ và Cao Miên, Xiêm, Lào…Gần đây, nước ta cũng bắt đầu Hỏa táng.

            c. Thổ táng: Chôn thây dưới đất. Cách táng này ở Đông phương và các nước Âu Châu đều có dùng.

            d. Điểu táng: Phơi thây cho chim ăn. Cách táng lạ này ở về miền ngoại bộ nước Mông Cổ.

(1) Giáo Hữu Thái Sơn Thanh, nhà in Hoàng Hải, xb 1956.

(1) Mạc Đỉnh Chi, tự Tiết Phu, là một danh sĩ đời nhà Trần. Ông đậu trạng nguyên, có lần đi sứ Tàu, được vua Nguyên phong làm “Lưỡng Quốc Trạng Nguyên”.

Tương truyền vào dịp đi sứ này, có một vị công chúa Tàu từ trần. Quan Tàu muốn thử tài ông, viết bốn chữ “nhất” vào giấy làm văn tế nhờ ông đọc. Ông liền ứng khẩu đọc thành bài văn tế trên.

[2]       Có một số địa phương, người chết hành theo nghi Bạt tiến, khi cáo Từ Tổ Ban Trị Sự dạy tang quyến lạy Cửu Huyền Thất Tổ bốn lạy. Điều này không đúng.

        Bởi vì theo “Tài Liệu Thực Hành Nghi Tiết Cúng Lễ Của Đạo” năm 1991, thì Nghi Cáo Từ Tổ tại tư gia: Tang chủ quì, tay bắt Ấn tý, lạy ba lạy theo hàng Thần vị. Như vậy lạy Cửu Huyền Thất Tổ lúc nào cũng lạy ba lạy, không phân biệt người quá cố được hành đủ kinh hay hành bạt tiến.

[3] Nghi Cáo Từ Tổ trên đây cúng ở nhà Tiền Vãng, Hậu điện Thánh Thất, Hậu điện Phật Mẫu. Còn ở tư gia, bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ, lễ xướng đủ 3 từng rượu, lạy 3 lạy.

[4] Cáo Từ tổ là cáo trình với Từ đường Tổ phụ, hay nói cho dễ hiểu tức là trình thưa với Ông Bà Tổ Phụ.

[5]   Chúng ta thấy rằng nếu ý Bà Đoàn Thị Điểm muốn điền vào câu kinh trên cho thích hợp với hoàn cảnh thì Bà phải viết:

“..…..…ở đây, .…….nơi đâu?”

    Rồi Hội Thánh chú thích cách điền vào câu kinh cho thích hợp.

[6] Đức Cao Thượng Phẩm gọi Đức Hộ Pháp bằng em Tám.

[7] Tri sanh bất tri tử 知生不知死: Biết sự sống, không biết sự chết.

Mãn sanh vị chi tử 滿生謂之死: Mãn kiếp sống gọi là chết.

(1) Con tế cha hoặc mẹ, đọc: Cắn muối trêu cơm.

    Vợ tế chồng hoặc chồng tế vợ, đọc: Tình ái cùng nhau.

    Em tế anh chị ruột, đọc: Huyết mạch đồng môn.

(2) Con tế cha hoặc mẹ, đọc: Con.

    Vợ tế chồng hoặc chồng tế vợ, đọc: Em hoặc Anh.

    Em tế anh chị ruột, đọc: Em.

[8] Theo Nghi lễ năm 91, Bài kinh tụng Huynh đệ mãn phần chỉ dành cho chị em ruột, không đọc cho anh em thuộc các dạng liên hệ còn lại như: Anh chị em khác mẹ, khác cha, anh chị em nuôi, anh chị em vợ hoặc chồng…

(1) Trích tập “Kỷ Yếu Lễ Kỷ Niệm Năm Thứ 78 Ngày Hoằng Khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Cao Đài Giáo” của Thánh Thất Sài Gòn.

(1) Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Quyển I. trang 60.

(1) Trích Bí Truyền Chơn Pháp, Đầu Sư Thượng Sáng Thanh.

(1) Theo Việt Nam Phong Tục, Phan Kế Bính.

(1) Phan  tức là lá phướn, tựa như lá cờ , bề ngang hẹp, có chiều dài, trong lá phướn có ren lụa thêu rũ xuống.

(2) Minh tinh là tấm lụa trắng dài dùng ghi tên tuổi, ngày sanh, ngày chết quê quán cùng chức tước của người chết để dùng đưa rước trong đám tang.

(1) Theo cách giải trong: “Nghi Thức và Văn Cúng Đám Tang Ở Nam Bộ”, Lý Việt Dũng.

(1) Theo Nghi Thức Và Văn Cúng Đám Tang Ở Nam Bộ.

(1) Trích Quan Hôn Tang Lễ.