Lịch sử ra đời của Nhà nước Việt Nam

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (2/9/1945) - Biểu tượng của khát vọng hòa bình, độc lập, tự do

Ngày phát hành: 04/09/2018 Lượt xem 22336

Lịch sử ra đời của Nhà nước Việt Nam


Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là nước CHXHCN Việt Nam). Ảnh: Tư liệu


Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (2/9/1945) đã khắc vào dòng chảy lịch sử dân tộc như một mốc son chói lọi, biểu tượng của khát vọng hòa bình, độc lập, tự do. Hơn 70 năm đã trôi qua, chúng ta càng nhận thức toàn diện và sâu sắc hơn về tầm vóc, giá trị của sự kiện trọng đại này.
Kết quả của phong trào giải phóng dân tộc lâu dài, gian khổ


Ngược dòng thời gian, vào năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Dù phong trào kháng chiến của nhân dân diễn ra mạnh mẽ, nhưng triều đình phong kiến nhà Nguyễn rơi vào khủng hoảng và bất lực, chịu thất bại rồi đi đến đầu hàng (ký Hiệp ước Giáp Thân 1884), chấp nhận làm tay sai cho giặc. Từ đó, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị “nô dịch” thuộc địa hết sức thâm độc, hà khắc. Nhân dân sống trong cảnh “nước mất, nhà tan”, cuộc đời lầm than cơ cực.
Tuy nhiên, không sự áp bức, bóc lột tàn bạo nào có thể tiêu diệt tinh thần yêu nước quật khởi của nhân dân Việt Nam. Những cuộc đấu tranh anh dũng của bao lớp người vẫn liên tục diễn ra, tiêu biểu như phong trào Cần Vương (cuối thế kỉ 19), khởi nghĩa nông dân (cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20), phong trào dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản (đầu thế kỉ 20)... Do nhiều nguyên nhân khác nhau cả chủ quan và khách quan, các phong trào đều đi đến thất bại, bị “dìm trong biển máu”.
Chịu vô vàn tổn thất, hi sinh to lớn do chủ nghĩa thực dân thẳng tay đàn áp, khát vọng hòa bình, độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam ngày càng cháy bỏng. Nhưng để khát vọng ấy trở thành hiện thực thì cách mạng cần phải có hướng đi mới, phù hợp với những biến chuyển lớn của thời đại, nhất là sau khi Cách mạng Tháng Mười nước Nga thành công năm 1917.
Năm 1920, sau nhiều năm bôn ba hoạt động khắp nơi trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh (khi đó lấy tên là Nguyễn Ái Quốc) đã tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam: Con đường cách mạng vô sản theo chủ nghĩa Mác - Lênin do Đảng Cộng sản - chính đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lãnh đạo.
Trải qua một quá trình tích cực vận động, ngày 3/2/1930, dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập (tháng 10/1930 đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương), đánh dấu bước ngoặt trên con đường tranh đấu vì độc lập, tự do.
Với đường lối đúng đắn, sáng tạo, kết hợp và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng đã tập hợp, lãnh đạo nhân dân ta đoàn kết đấu tranh trong cao trào cách mạng 1930 - 1931, cuộc vận động dân chủ 1936 - 1939, đặc biệt là cuộc vận động trực tiếp giành chính quyền (1939 - 1945). Tất cả đều hướng đến mục tiêu cao nhất: liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn.
Từ năm 1941, quá trình chuẩn bị mọi mặt cho “cuộc giải phóng” diễn ra rộng khắp các địa phương từ miền xuôi đến miền ngược, từ thành thị đến nông thôn; từ phát triển căn cứ địa, xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang đến tổ chức mặt trận đoàn kết cứu nước... Chưa bao giờ, khát vọng hòa bình, không khí cách mạng lại sục sôi cao trào đến thế. Cả đất nước như một đồng cỏ khô, chỉ cần một đốm lửa nhỏ đưa vào là sẽ bùng lên thiêu cháy bè lũ cướp nước và tay sai.
Tháng 8/1945, phát xít Nhật đầu hàng phe Đồng minh, quân đội và chính quyền tay sai rơi vào trạng thái hoang mang, tê liệt. Chớp thời cơ “ngàn năm có một”, Trung ương Đảng kịp thời hạ quyết tâm phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong phạm vi cả nước theo tinh thần: dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập.
Nghe theo hiệu lệnh, cả dân tộc vùng lên như “bão táp”. Chỉ trong vòng 15 ngày, từ 14 - 28/8, cuộc Tổng khởi nghĩa đã thắng lợi hoàn toàn. Lần đầu tiên trong lịch sử, chính quyền cả nước thực sự thuộc về tay nhân dân.
Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, trước hàng chục vạn đồng bào Thủ đô, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ cách mạng lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.
Đây là thành quả cách mạng hoàn toàn xứng đáng sau cả một quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do. Dân tộc đó phải được độc lập.

Lịch sử ra đời của Nhà nước Việt Nam


Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” tuyên bố sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Ảnh: Tư liệu TTXVN


Nhân tố nền tảng và động lực bảo đảm vững chắc nền độc lập, tự do

Cách mạng tháng Tám 1945 là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thành công triệt để nhất trong lịch sử. Nó phát huy được cao nhất sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, đập tan mọi xích xiềng nô lệ của chủ nghĩa thực dân và phát xít, rửa sạch nỗi đau mất nước kéo dài gần một thế kỉ; đồng thời lật nhào chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại cả ngàn năm, đưa nước ta từ một nước thuộc địa trở thành một nước độc lập, đưa nhân dân ta từ kiếp sống nô lệ thành người dân tự do, làm chủ vận mệnh nước nhà.
Dựa trên cơ sở thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Nhà nước Dân chủ Cộng hòa ra đời (2/9/1945), trở thành nhân tố nền tảng bảo đảm vững chắc cho nền độc lập, tự do mà nhân dân ta hằng khát khao và cũng vừa mới giành được. Từ đây, một kỉ nguyên mới trong lịch sử dân tộc mở ra: kỉ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, kỉ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Trên thực tế, ngay sau khi thành lập, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thể hiện rõ bản chất chuyên chính vô sản, là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Không lâu sau khi thành lập, Chính phủ Cách mạng lâm thời đã tổ chức cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội (6/1/1946) và Hội đồng Nhân dân các cấp nhằm củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, xây dựng nền móng của chế độ mới, tạo cơ sở pháp lí vững chắc để đập tan những luận điệu xuyên tạc và hành động của các thế lực thù địch đang nuôi dưỡng mưu đồ đặt lại ách đô hộ lên đất nước ta.
Đặc biệt, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945 - 1975), thể hiện khát vọng và quyết tâm bảo vệ nền độc lập, tự do, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn khẳng định: “Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, “Không có gì quý hơn độc lập tự do”...
Cách mạng Tháng Tám thành công và sự ra đời của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1945 đã tạo thêm động lực to lớn, cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Nhân dân các nước thuộc địa và nửa thuộc địa đã rút ra một bài học sâu sắc từ cách mạng Việt Nam: trong điều kiện thế giới ngày nay, một dân tộc nhược tiểu nếu quyết tâm chiến đấu vì độc lập, tự do, có đường lối đấu tranh đúng, biết tạo thời cơ, chớp thời cơ khởi nghĩa thì hoàn toàn có thể đứng lên tự giải phóng khỏi ách đế quốc thực dân, xây dựng chế độ mới, xóa bỏ mọi áp bức, bất công.
Phát huy bản chất và những giá trị của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay, Đảng và Nhà nước ta chủ trương: Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đồng thời tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Đó cũng chính là “phương cách” tốt nhất để vươn đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, bảo đảm cho sự trường tồn và phát triển bền vững của quốc gia, dân tộc.

PGS.TS Nguyễn Đình Lê

Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội

(Theo TTXVN/Báo Tin tức)

Trang chủ / Khoa học - thông tin - tư liệu / Bài viết chuyên đề

Đăng lúc: 16:18:56 08/11/2021 (GMT+7)11813 lượt xem

 TS. Phạm Thị Hoài Thu
 Phó Trưởng khoa Nhà nước và Pháp luật

Từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời cho đến nay, nước ta đã ban hành năm bản Hiến pháp, đó là Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001), Hiến pháp năm 2013. Các bản Hiến pháp này đều ra đời trong những hoàn cảnh thời điểm lịch sử nhất định nhằm thể chế hóa quan điểm, đường lối, chủ trương cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam cho từng giai đoạn phát triển của đất nước. Hiến pháp là văn bản pháp luật có giá trị pháp lý đặc biệt quan trọng, là đạo luật cơ bản, luật gốc của Nhà nước làm căn cứ ban hành các văn bản pháp luật trong hệ thống pháp luật, thể hiện rõ nét bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước.

Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ luôn xác định những vấn đề cơ bản nhất, quan trọng nhất của Nhà nước và xã hội, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nội dung trong Hiến pháp là bản tổng kết những thành quả của cách mạng, vừa đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo như bản chất nhà nước, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa xã hội; quyền con người.

Hiến pháp 1946 ra đời trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử sau cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công. Tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 03/9/1945, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định việc xây dựng một bản hiến pháp dân chủ là một trong sáu nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ. Ngày 20/9/1945, Chính phủ lâm thời ra sắc lệnh thành lập Ban dự thảo hiến pháp gồm 7 người, đại diện cho nhiều tổ chức, đảng phái khác nhau do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Đầu tháng 11/1945, bản dự thảo đã hoàn thành công việc và được công bố cho toàn dân thảo luận. Hàng triệu người Việt Nam hăng hái tham gia đóng góp ý kiến cho bản dự thảo với những nội dung mơ ước bao đời về độc lập, tự do. Ban dự thảo đã tổng kết các ý kiến tham gia đóng góp của nhân dân và xây dựng Bản dự thảo cuối cùng để đưa ra Quốc hội xem xét, thông qua. Ngày 9/11/1946, tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I đã thảo luận và thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của đấtnước. Hiến pháp năm 1946 ra đời đã tuyên bố với tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới rằng, nước Việt Nam là một nước độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân không phân biệt gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo và các quyền tự do dân chủ của nhân dân được bảo đảm thực hiện.

 

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc nước ta đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh để hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, miền Bắc là hậu phương vững chắc cho tiền tuyến miền Nam. Hiến pháp năm 1946 đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, nhưng với tình hình và nhiệm vụ cách mạng mới lúc bấy giờ đặt ra vấn đề là cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Vì vậy, tại kỳ họp lần thứ 6, Quốc hội khóa I đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1946. Ngày 31/12/1959, tại kỳ họp lần

thứ 11,  Quốc hội khóa I đã nhất trí thông qua bản Hiến pháp. Hiến pháp năm 1959 ra đời đã kế thừa những nội dung trong Hiến pháp năm 1946, đồng thời phản ánh đầy đủ tình hình thực tế lúc bấy giờ, phản ánh đúng đắn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Tiếp tục khẳng định tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân, các quyền tự do dân chủ của nhân dân được bảo đảm thực hiện. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua cơ quan Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.


Hiến pháp năm 1980 ra đời trong điều kiện hoàn cảnh
thắng lợi vĩ đại của Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân năm 1975 mở ra một giai đoạn mới trong trang sử dân tộc ta. Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành trong phạm vi cả nước. Nước ta đã hoàn toàn độc lập, tự do, hai miền Nam - Bắc đã thống nhất, đưa cả nước quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hiến pháp năm 1959 đã hoàn thành nhiệm vụ của mình, nhiệm vụ cách mạng Việt Nam đặt ra những yêu cầu mới. Ngày 24/6/1976, Quốc hội khóa VI tiến hành kỳ họp đầu tiên. Tại kỳ họp này, Quốc hội đã ra Nghị quyết về việc sửa đổi Hiến pháp năm 1959 và thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp gồm 36 người do đồng chí Trường Chinh - Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội làm chủ tịch. Sau một thời gian làm việc khẩn trương, Ủy ban đã hoàn thành dự thảo. Bản dự thảo được đưa ra toàn dân thảo luận, đóng góp ý kiến. Tháng 9/1980, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp phiên họp đặc biệt để xem xét và cho ý kiến bổ sung, chỉnh lý trước khi trình Quốc hội thảo luận, thông qua. Ngày 18/12/1980, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa VI đã nhất trí thông qua Hiến pháp năm 1980.


Sau một thời gian thực hiện các quy định trong Hiến pháp năm 1980, nhiều nội dung không còn phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước lúc bấy giờ. Tình hình thực tiễn đòi hỏi phải có một bản hiến pháp mới, phù hợp hơn để thúc đẩy sự phát triển của đất nước, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho Nhân dân.
Tiếp thu tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12/1986), tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa VIII đã ra Nghị quyết sửa đổi lời nói đầu của Hiến pháp năm 1980. Ngày 30/6/1989, tại kỳ họp thứ V, Quốc hội khóa VIII lại ra Nghị quyết sửa đổi 7 điều (57, 116, 118, 122, 123, 125) của Hiến pháp năm 1980 để xác định thêm quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân của công dân và thành lập thêm thường trực Hội đồng nhân dân trong cơ cấu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, đồng thời củng cố thêm các mặt hoạt động của Hội đồng nhân dân. Cũng trong kỳ họp này, Quốc hội đã ra Nghị quyết thành lập Ủy ban sửa đổi Hiến pháp để sửa đổi Hiến pháp một cách cơ bản, toàn diện, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Ủy ban sửa đổi Hiến pháp được thành lập bao gồm 28 người, do đồng chí Chủ tịch Hội đồng nhà nước Võ Chí Công làm chủ tịch. Ủy ban sửa đổi Hiến pháp đã họp nhiều phiên và thông qua toàn văn dự thảo Hiến pháp sửa đổi. Cuối năm 1991, đầu năm 1992, bản dự thảo Hiến pháp lần thứ ba đã được đưa ra trưng cầu ý kiến Nhân dân. Trên cơ sở tổng hợp ý kiến đóng góp của Nhân dân và ý kiến của Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng, dự thảo Hiến pháp lần thứ tư đã hoàn thành và được trình lên Quốc hội khóa VIII tại kỳ họp thứ 11 để xem xét. Sau nhiều ngày thảo luận sôi nổi với những bổ sung, chỉnh lý nhất định, ngày 15/4/1992, Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp năm 1992. Việc soạn thảo và ban hành Hiến pháp năm 1992 là một quá trình thảo luận dân chủ và chắt lọc một cách nghiêm túc những ý kiến đóng góp của mọi tầng lớp nhân dân về tất cả các nội dung của Hiến pháp từ quan điểm chung đến các vấn đề cụ thể. Hiến pháp năm 1992 là sản phẩm trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thể hiện ý chí và nguyện vọng của đồng bào, chiến sĩ cả nước, là bản Hiến pháp của Việt Nam trong tiến trình đổi mới. Với 12 chương, 147 điều, Hiến pháp năm 1992 đã thể chế hóa toàn diện đường lối đổi mới của Đảng, đẩy mạnh đổi mới kinh tế, đổi mới vững chắc về chính trị, khẳng định mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhân dân ta đã lựa chọn; tiếp tục khẳng định tính chất của Nhà nước ta là Nhà nước chuyên chính vô sản, mọi quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân do Nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước Nhân dân. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Hiến pháp năm 1992 đã thể chế hóa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhân dân là chủ và làm chủ đất nước, các quyền, nghĩa vụ của công dân, quyền cơ bản của con người được tôn trọng và bảo vệ bằng pháp luật, đồng thời tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo nhà nước, xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.  


Sau gần 10 năm có hiệu lực, Hiến pháp năm 1992 đã phát huy được hiệu quả là một đạo luật cơ bản, luật gốc của nhà nước. Hiến pháp năm 1992 thực sự tạo ra một cơ sở pháp lý vững chắc để xây dựng nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xây dựng bộ máy nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới phù hợp với xu thế hội nhập, hợp tác quốc tế toàn cầu. Tuy nhiên, sau một thập kỷ, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ở nước ta đã có những thay đổi nhất định, đòi hỏi Hiến pháp phải được bổ sung, sửa đổi nhằm phát huy hơn nữa hiệu lực và hiệu quả trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội khóa X, kì họp thứ 9 đã ra Nghị quyết số 43/2001/QH10 ngày 29/6/2001 về việc thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992. Bản dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 đã được đưa ra thảo luận rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân. Sau khi tổng hợp các ý kiến đóng góp của Nhân dân, bản dự thảo đã được chỉnh lý, bổ sung nhiều lần. Sau một thời gian làm việc khẩn trương, với sự bàn bạc, thảo luận dân chủ, công khai, ngày 25/12/2001 Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10 với đa số đại biểu đã nhất trí thông qua Nghị quyết số 51/2001/QH10 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. Với 24 vấn đề được sửa đổi, bổ sung, Hiến pháp năm 1992 đã đánh dấu một bước hoàn thiện mới về chế độ chính trị, kinh tế; các chính sách văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ; chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, củng cố tổ chức, phân công và phối hợp trong việc thực hiện quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước ta, tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân.


Qua 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đến nay, tình hình trong nước, khu vực và quốc tế có những biến đổi sâu sắc và phức tạp hơn. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện khác của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định mục tiêu, định hướng phát triển toàn diện, bền vững đất nước trong giai đoạn cách mạng mới nhằm xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIII đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để bảo đảm đổi mới đồng bộ cả về kinh tế và chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; xây dựng và bảo vệ đất nước; tích cực và chủ động hội nhập quốc tế. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa XIII về việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, từ năm 2011 đến năm 2013, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã tổ chức tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và xây dựng dự thảo sửa đổi Hiến pháp trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại 3 kỳ họp. Tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIII đã quyết định tổ chức lấy ý kiến Nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Việc lấy ý kiến Nhân dân đã được các cấp, các ngành triển khai, thu hút sự tham gia sâu rộng, nghiêm túc, tích cực, tâm huyết của đông đảo các tầng lớp nhân dân và đồng bào Việt Nam ở nước ngoài, thực sự là đợt sinh hoạt chính trị, pháp lý dân chủ, sâu rộng trong cả hệ thống chính trị. Ngày 28/11/2013 tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Đây là bản Hiến pháp phản ánh ý chí, nguyện vọng của toàn thể Nhân dân, là căn cứ pháp lý bảo đảm chính trị, pháp lý vững chắc cho dân tộc ta, Nhân dân ta. Hiến pháp năm 2013 ra đời là cơ sở pháp lý để Nhà nước ta vượt qua những thách thức mới, khó khăn mới, vững bước tiến lên trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế sâu rộng. Đây cũng là bản Hiến pháp vừa kế thừa được các giá trị to lớn của các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992, vừa thể chế hóa các quan điểm, phương hướng, nội dung phát triển đã được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Với bố cục 11 chương, 120 điều, giảm 01 chương và 27 điều so với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 có nhiều điểm mới cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến, thể hiện sâu sắc, toàn diện sự đổi mới đồng bộ cả về kinh tế và chính trị, thể hiện rõ và đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và chế độ ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Như vậy, kể từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời cho đến nay, trong lịch sử lập hiến Nhà nước ta ban hành năm bản Hiến pháp, trong đó Hiến pháp năm 1992 có sửa đổi, bổ sung năm 2001. Mỗi một bản Hiến pháp ra đời đánh dấu nhiệm vụ cách mạng Việt Nam qua mỗi thời kỳ; phù hợp với điều kiện chủ quan và khách quan của đất nước. Hiến pháp năm 2013 của nước ta đã và đang đi vào cuộc sống, ngày càng thể hiện rõ tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, đưa đất nước ta trở thành một nước
phát triển, thu nhập cao vào năm 2045 như mục tiêu Đại hội XIII của Đảng đề ra, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam.

-----------------------------

5. Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001.

  • Nhất thể hoá chức danh bí thư chi bộ kiêm trưởng thôn - Từ thực tiễn Đảng bộ xã Điền Hạ, huyện Bá Thước
  • Một số giải pháp cơ bản góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ ở Trường THPT Vĩnh Lộc, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay
  • Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở Trường Trung học phổ thông Nông Cống 3, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa.
  • Cảm xúc qua chuyến đi nghiên cứu thực tế về Thạch Tượng
  • Giải pháp nâng cao chất lượng đảng viên ở Đảng bộ Ban Quản lý dự án đầu tư công trình giao thông Thanh Hoá trong giai đoạn hiện nay
  • Nâng cao chất lượng công tác quản lý đảng viên của cấp uỷ cơ sở, chi bộ ở Thanh Hoá hiện nay
  • “Kiên định” - Chuẩn mực giá trị đầu tiên trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ở Trường Chính trị tỉnh Thanh Hoá hiện nay
  • Xây dựng văn hoá ứng xử góp phần xây dựng trường chính trị đạt chuẩn
  • Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa không ngừng đổi mới sáng tạo theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
  • Một số biện pháp giúp học viên Trường Chính trị tỉnh Thanh Hoá học tốt lý luận chính trị