Sinh sản của trùng giày và trùng roi giống nhau ở điểm nào
- Giống nhau : Cấu tạo từ một tế bào, di chuyển vừa tiến vừa xoay, có kích thuớc hiển vi, sinh sản vô tính, hô hấp qua màng cơ thể - Khác nhau: Đặc điểm Trùng roi Trùng biến hình Trùng giày Cấu tạo - Chất nguyên sinh có chứa các hạt diệp - Có nhân - Chất nguyên sinh lỏng, nhân - Không bào tiêu hoá, không bào co bóp - Chất nguyên sinh, nhân lớn, nhân nhỏ - 2 không bào co bóp, không bào tiêu hoá, rãnh miệng, hầu - Lông bơi xung quanh cơ thể Di chuyển Nhờ roi Nhờ chân giả (do chất nguyên sinh dồn về 1 phía) Nhờ lông bơi Dinh dưỡng - ở nơi ánh sáng, trùng roi xanh dinh dưỡng như thực vật (tự dưỡng). Nếu chuyển vào hồ tối lâu ngày, trùng roi mất dần màu xanh. Chúng vần sông được nhờ đồng hoá những chất hữu cơ hoà tan do các sinh vật khác chết phân huỷ ra (còn gọi là dị dưỡng). - Tiêu hoá nội bào - Bài tiết: Chất thừa dồn đến không bào co bóp -> thải ra ngoài ở mọi nơi - Thức ăn -> miệng -> hầu -> không bào tiêu hoá -> biến đổi nhờ enzim - Chất thải được đưa đến không bào co bóp -> lỗ thoát ra ngoài Sinh sản Vô tính: Cơ thể phân đôi theo chiều dọc. Vô tính: bằng cách phân đôi cơ thể - Vô tính: bằng cách phân đôi cơ thể theo chiều ngang - Hữu tính: bằng cách tiếp hợp Chi Trùng roi xanh (Euglena) là một chi sinh vật nguyên sinh đơn bào. Nó là chi được biết đến và được hiểu rõ nhất trong lớp Euglenoidea, một nhóm đa dạng gồm 54 chi và ít nhất 800 loài.[3][4] Các loài Euglena sống trong nước ngọt, ao, hồ, đầm ruộng, kể cả vũng nước mưa. Chúng phổ biến trong vùng nước ngọt, chúng có thể sinh sôi đến số lượng đủ để làm đổi màu vùng nước thành màu xanh lá cây
Trùng roi sống trong nước: ao, hồ, đầm, ruộng, vũng nước mưa. Lớp Trùng roi (Flagellata) bao gồm trùng roi xanh, tập đoàn trùng roi cùng khoảng hơn 8 nghìn loài động vật nguyên sinh nguyên thủy khác sống trong nước ngọt, nước biển, đất ẩm,..., một số sống ký sinh, có các đặc điểm chung sau: di chuyển nhờ quẫy roi (một hay nhiều roi ở đuôi), vừa tự dưỡng vừa dị dưỡng (ở các trùng roi thực vật) hoặc chỉ dị dưỡng (ở các trùng roi động vật), hô hấp qua màng cơ thể, đường lấy thức ăn ổn định nhưng đường tiêu hóa thức ăn không ổn định, bài tiết và điều chỉnh áp suất thẩm thấu nhờ không bào co bóp, sinh sản vô tính theo cách phân đôi. Lớp Trùng roi có vai trò rất quan trọng trong thiên nhiên và đối với con người. Về mặt có lợi, chúng là chỉ thị về độ sạch của môi trường nước, là thức ăn của một số động vật thủy sinh... Một số trùng roi ký sinh gây hại không nhỏ cho con người (truyền các bệnh nguy hiểm như trùng roi âm đạo, bệnh ngủ châu Phi ở người,...).
Trùng roi xanh (Euglena viridis) sống ở nước, chúng tạo nên các mảng váng xanh trên bề mặt ao, hồ. Trùng roi xanh là một cơ thể động vật đơn bào cỡ nhỏ (≈ 0,05mm). Cơ thể hình thoi, đuôi nhọn, đầu tù và có một roi dài xoáy vào nước giúp cơ thể vừa tiến vừa xoay. Cấu tạo gồm nhân và chất nguyên sinh chứa các hạt diệp lục như thực vật, ác hạt dự trữ, điểm mắt và không bào co bóp. Ở nơi có ánh sáng, nhờ các hạt diệp lục mà trùng roi dinh dưỡng kiểu tự dưỡng như thực vật, còn ở chỗ tối trùng roi vẫn sống nhờ đồng hóa các chất dinh dưỡng có trong nước (dị dưỡng). Hô hấp nhờ sự trao đổi khí qua màng tế bào, bài tiết và điều chỉnh áp suất thẩm thấu nhờ không bào co bóp. Sinh sản vô tính theo cách phân đôi theo chiều dọc cơ thể: nhân phía sau cơ thể phân đôi trước, chất nguyên sinh và các bào quan lần lượt phân chia, cuối cùng cá thể phân đôi theo chiều dọc cơ thể tạo thành 2 trùng roi mới. Trùng roi có tính hướng sáng, cảm nhận ánh sáng nhờ điểm mắt và bơi về chỗ sáng nhờ roi bơi. Trên mảng xanh ở ao, hồ hoặc ở vài giếng ta thường gặp các hạt hình cầu có đối xứng mặt trời, đường kính khoảng 1mm bơi lơ lửng, xoay tròn. Đó là các tập đoàn trùng roi (hay còn gọi là tập đoàn Vôn-vốc (Volvox)). Mỗi tập đoàn có hàng nghìn cá thể trùng roi hình quả lê có 2 roi xếp thành một lớp bề mặt, roi hướng ra ngoài giúp tập đoàn di chuyển. Tập đoàn trùng roi sinh sản vừa vô tính vừa hữu tính:
Tập đoàn trùng roi dù có nhiều tế bào nhưng chỉ được coi là một nhóm động vật đơn bào vì mỗi tế bào vẫn vận động và dinh dưỡng độc lập. Tập đoàn trùng roi được coi là hình ảnh của mối quan hệ về nguồn gốc giữa động vật đơn bào và động vật đa bào. Ở nơi có ánh sáng trùng roi dinh dưỡng như thực vật (tự dưỡng). Nếu cho chúng vào chỗ tối lâu ngày chúng sẽ mất dần màu xanh. Chúng vẫn sống được nhờ đồng hóa những chất hữu cơ có sẵn hòa tan do các sinh vật khác chết phân hủy ra (hoại sinh). Hô hấp của trùng roi nhờ sự trao đổi khí qua màng tế bào. Không bào co bóp tập trung nước thừa cùng sản phẩm tiết rồi thải ra ngoài, góp phần điều chỉnh áp suất thẩm thấu của cơ thể. Khi sinh sản, nhân phía sau cơ thể phân đôi trước, sau đó chất nguyên sinh và các bào quan lần lượt phân chia. Cuối cùng, cá thể phân đôi theo chiều dọc cơ thể tạo thành 2 trùng roi mới. Gọi tắt là sinh sản vô tính theo cách phân đôi theo chiều dọc cơ thể.[5] Loài Euglena gracilis được sử dụng rộng rãi trong phòng thí nghiệm như sinh vật mô hình.[6]
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Trùng_roi_xanh&oldid=68333452” |