Thời kỳ vượt qua thử thách giữ vững đường lối phương pháp cách mạng Việt Nam
Nắm bắt thời cơ, vượt qua thử thách, vững vàng và không ngừng tiến lên(*)(ĐCSVN) – Sáng 31/7, tại Hà Nội, Ban Tuyên giáo Trung ương đã long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 80 năm Ngày Truyền thống ngành Tuyên giáo của Đảng (1/8/1930 – 1/8/2010). Thay mặt Ban Tuyên giáo Trung ương, đồng chí Tô Huy Rứa, UVBCT, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương đã đọc diễn văn khai mạc. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. Show
- Kính thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước! - Thưa các đông chí lão thành cách mạng, các bà mẹ Việt Nam anh hùng! - Thưa các đồng chí và các bạn!
Hoà trong không khí sôi nổi của cả nước đang nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt nhất kế hoạch năm 2010, chào mừng những ngày lễ lớn của dân tộc, triển khai Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, hôm nay, chúng ta vô cùng phấn khởi họp mặt tại đây để kỷ niệm trọng thể 80 năm Ngày Truyền thống ngành Tuyên giáo của Đảng (01.8.1930 – 01.8.2010). Thay mặt Ban Tuyên giáo Trung ương, tôi xin chân thành cảm ơn và nhiệt liệt chào mừng sự có mặt của đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước - những người đã thường xuyên chỉ đạo, quan tâm theo dõi và gắn bó trực tiếp với ngành Tuyên giáo trong nhiều năm qua. Với tất cả sự trân trọng và tình cảm quý mến, tôi xin chào mừng sự có mặt của các đồng chí lão thành đã từng lãnh đạo và công tác nhiều năm ở Ban Tuyên giáo Trung ương, trong ngành Tuyên giáo toàn quốc. Tôi xin cảm ơn sự có mặt của đại diện các Bộ, ban, ngành, đoàn thể, các Hội văn học, nghệ thuật, các Hội Khoa học và kỹ thuật, Hội nhà báo Việt Nam, các cơ quan thuộc khối đã từng phối hợp, giúp đỡ ngành Tuyên giáo trong thực hiện các nhiệm vụ của Đảng. Xin gửi lời chào thân thiết đến tất cả các đồng chí đã và đang công tác trong ngành Tuyên giáo của chúng ta. Trong buổi Lễ kỷ niệm trọng thể và sâu sắc nặng ân tình này, xin kính cẩn nghiêng mình tưởng niệm hàng ngàn đồng chí đã hy sinh, đã qua đời - những người đã cống hiến trọn cuộc đời mình vì sự nghiệp tuyên giáo của Đảng.
Thưa các đồng chí và các bạn! Năm 1930, ngay sau khi Đảng ra đời, Ban Cổ động và Tuyên truyền đã được thành lập. Nhân dịp kỷ niệm Ngày quốc tế đấu tranh chống chiến tranh đế quốc, bảo vệ hoà bình, bảo vệ Liên bang Xô-Viết, ủng hộ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, tài liệu “Ngày quốc tế đỏ 1/8” của Ban Cổ động và Tuyên truyền được xuất bản. Tài liệu này đã góp phần thổi bùng lên ngọn lửa tranh đấu, chỉ trong vòng 3 tháng (từ tháng 8 đến tháng 10 năm 1930) hàng trăm cuộc mít tinh, biểu tình cách mạng đã nổ ra. Vai trò, sức mạnh của công tác tuyên truyền của Đảng đi vào lịch sử cách mạng nước ta cùng với ngày 01/8/1930. Từ đó, ngày 1.8 trở thành một mốc son trong lịch sử đấu tranh của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đánh giá cao sự kiện có ý nghĩa đặc biệt này, năm 2000, Bộ Chính trị (Khoá VIII) đã quyết định lấy ngày 1/8 hàng năm làm Ngày Truyền thống công tác tư tưởng, văn hoá của Đảng. Năm 2007, sau khi hợp nhất Ban Khoa giáo Trung ương và Ban Tư tưởng – Văn hoá Trung ương thành Ban Tuyên giáo Trung ương , Ban Bí thư đã quyết định lấy ngày 1/8 hàng năm làm Ngày Truyền thống Ngành Tuyên giáo của Đảng. Thưa các đồng chí và các bạn! Trải qua 80 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của từng giai đoạn cách mạng, ngành Tuyên Trải qua 80 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của từng giai đoạn cách mạng, ngành Tuyên giáo của Đảng đã có những tên gọi khác nhau, có sự thay đổi, điều chỉnh, bổ sung và từng bước hoàn chỉnh, nhưng trong bất cứ giai đoạn cách mạng nào, công tác Tuyên giáo cũng luôn giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng. Đó là công việc của toàn Đảng. Ngay từ khi Đảng mới thành lập và còn hoạt động trong bí mật, Bác Hồ cùng các lãnh tụ của Đảng không chỉ lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên giáo mà còn là những người thầy, người mở đường, người chiến sĩ trực tiếp hoạt động trên mặt trận này. Hôm nay, trong buổi lễ long trọng này tất cả chúng ta xin kính dâng lên Người và các thế hệ cách mạng tiền bối lòng biết ơn vô hạn và hứa sẽ đi trọn con đường mà Đảng và Bác đã chỉ ra vì Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cho đất nước ta. Nhìn lại chặng đường vẻ vang 80 năm qua, đội ngũ những người làm công tác tuyên giáo của Đảng phấn khởi và tự hào vì ở bất cứ giai đoạn nào, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng đều phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó. 15 năm đấu tranh giành chính quyền (1930 -1945) trong bối cảnh kẻ thù đàn áp, khủng bố tàn khốc, điều kiện hoạt động hết sức hiểm nguy, đội ngũ những chiến sĩ làm công tác tư tưởng của Đảng đã nêu cao phẩm chất và khí tiết của người cộng sản, sẵn sàng hi sinh, bám sát phong trào cách mạng, thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, tổ chức quần chúng đấu tranh chống thực dân, đế quốc. Xô-viết Nghệ Tĩnh, Mặt trận dân chủ, cao trào giải phóng dân tộc tiến tới Tổng khởi nghĩa 8/1945 là những bằng chứng vô cùng sinh động về sức mạnh to lớn của công tác tư tưởng, công tác tuyên giáo trong việc giác ngộ, tập hợp, tổ chức quần chúng, biến ý chí và tinh thần cách mạng thành sức mạnh vật chất, làm nên những cao trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả cuộc vận động cách mạng sâu sắc đó. Đội ngũ cán bộ tuyên giáo thực sự là những chiến sĩ xung kích, có mặt ở những nơi khó khăn, gian khổ, tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân phát huy cao độ lòng yêu nước và truyền thống đoàn kết, anh hùng, bất khuất của dân tộc, xây đắp động lực tinh thần to lớn của quần chúng vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền, thành lập Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, công tác tuyên giáo đã tập trung nuôi dưỡng và phát huy ý chí kiên cường, bất khuất, quyết tâm bảo vệ thành quả cách mạng, động viên toàn dân tộc “Quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập”, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam, cổ vũ nhân dân thực hiện ba nhiệm vụ lớn: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm; tuyên truyền sâu rộng, làm thấm sâu vào lòng dân Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Đảng và Bác Hồ, góp phần động viên cả nước dồn hết sức người, sức của cho kháng chiến, anh dũng chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, công tác Tuyên giáo đã tham gia tổ chức và triển khai liên tục các phong trào cách mạng ở hai miền Nam – Bắc, cổ vũ, động viên quân và dân cả nước phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với ý chí “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân toàn diện, triệt để, tạo nên sức mạnh tổng hợp “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Nguỵ nhào” giành thắng lợi có ý nghĩa dân tộc và thời đại sâu sắc trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975. Trong cuộc chiến đấu này, hàng vạn cán bộ tuyên giáo đã có mặt ở khắp mọi nơi, trên mọi mặt trận. Hàng ngàn cán bộ tuyên huấn, các nhà báo, văn nghệ sĩ, y bác sĩ, nhà giáo và cán bộ khoa học kỹ thuật… đã anh dũng hy sinh vì độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc. Trực tiếp phát hiện, nuôi dưỡng, khẳng định và truyền bá những giá trị văn hoá và sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam trong cuộc đọ sức sống còn với các thế lực xâm lược tàn bạo là cống hiến to lớn của công tác tư tưởng, công tác tuyên giáo của Đảng trong 30 năm kháng chiến giải phóng, bảo vệ và thống nhất Tổ quốc. Đúng như Lênin đã khẳng định: “Trong bất cứ cuộc chiến tranh nào, rốt cuộc là do trạng thái tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường quyết định”. Những thành tựu mà nhân dân ta giành được trong gần 25 năm đổi mới là to lớn và có ý nghĩa lịch sử, làm thay đổi sâu sắc bộ mặt đất nước, tạo thế và lực mới để đất nước tiếp tục tiến lên, giành thắng lợi mới. Thực tiễn đổi mới đã chỉ ra rằng, sức mạnh của đổi mới, trước hết và có giá trị chỉ đạo hoạt động thực tiễn là đổi mới tư duy. Công tác tuyên giáo trong thời kỳ này đã góp phần quan trọng vào việc đổi mới tư duy, động viên tinh thần, ý chí kiên cường, sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp còn nhiều thách thức ở phía trước, nhất là khi diễn ra các biến cố to lớn như cơn “chấn động chính trị” thế giới, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ vào những năm 1989 – 1991, cuộc khủng hoảng tài chính ở khu vực những năm 2008 -2009. Trước những thách thức cực kỳ gay gắt đó, công tác tuyên giáo đã nỗ lực hết mình, hoạt động không mệt mỏi góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu: kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội, duy trì tăng trưởng hợp lý để tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế. Từ trong những hoạt động thực tiễn đó của 25 năm đổi mới, công tác tuyên giáo đã trưởng thành vượt bậc, gắn bó và phục vụ với hiệu quả ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Từ thực tiễn sinh động và phong phú của công tác Tuyên giáo qua 80 năm, chúng ta có thể rút ra một số bài học chủ yếu: - Kiên định lý tưởng về lập trường cách mạng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nâng cao tính khoa học và cách mạng của công tác tuyên giáo trong quá trình xây dựng và thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Kiên định lý tưởng, mục tiêu cách mạng, kiên định những nguyên tắc cơ bản là nhân tổ quyết định đảm bảo cho công tác Tuyên giáo đúng hướng. Đồng thời, thực tiễn 80 năm chỉ ra rằng, kiên định phải đi liền với sáng tạo và phát triển. Sáng tạo và phát triển chính là để củng cố cho sự kiên định, làm cho nó vững chắc hơn, có sức thuyết phục hơn và gắn bó với thực tiễn đang vận động. Trong công tác Tuyên giáo, sự kiên định, tính khoa học và tính sáng tạo luôn luôn thống nhất. Đó là bài học lớn của công tác Tuyên giáo. - Bám sát và am hiểu sâu sắc thực tiễn đất nước và tình hình thế giới, kịp thời dự báo các xu hướng, phát hiện vấn đề, đề xuất lý luận, chủ động tham gia định hướng, giải quyết những vấn đề tư tưởng, văn hoá và khoa giáo, tăng cường sự thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận xã hội. Tham gia tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, đề xuất, truyền bá, giáo dục lý luận đồng thời thường xuyên triển khai các hoạt động thực tiễn trên các lĩnh vực của công tác Tuyên giáo là hai mặt không thể tách rời nhau trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của công tác Tuyên giáo suốt 80 năm qua. Cùng với hoạt động nghiên cứu lý luận của toàn Đảng, công tác tuyên giáo đã góp phần trực tiếp củng cố và xây dựng phẩm chất tiên phong đó. -Phát huy sức mạnh của toàn Đảng, của cả hệ thống chính trị làm công tác tuyên giáo. Đó là nhiệm vụ của tất cả các đảng viên của Đảng đang có mặt ở mọi lĩnh vực của đời sống, trong đó, trước hết, các cấp uỷ đảng và chính quyền, đặc biệt là người đứng đầu phải quan tâm và trự tiếp chỉ đạo công tác Tuyên giáo, coi đó là lĩnh vực đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động của mình. Đồng thời, Đảng cần huy động trí tuệ, tâm huyết, sức lực mọi mặt của toàn xã hội cùng Đảng hoạt động trên lĩnh vực tuyên giáo. - Quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ tuyên giáo có bản lĩnh chính trị vững vàng, tâm huyết, có năng lực, trình độ nghề nghiệp tốt, có đạo đức trong sáng, có tri thức và phương pháp công tác khoa học. Hoạt động trên tất cả các lĩnh vực của cuộc sống, ở mọi miền Tổ quốc, từ Trung ương đến cơ sở, trung thành với sự nghiệp cách mạng, bám sát thực tiễn, gắn bó mật thiết với nhân dân, có khả năng tập hợp, đoàn kết, thuyết phục quần chúng, thông thạo chuyên môn - nghiệp vụ... của các thế hệ cán bộ tuyên giáo là nhân tố trực tiếp quyết định hiệu quả công tác Tuyên giáo. - Chủ động, kiên quyết phản bác có cơ sở khoa học và sức thuyết phục các quan điểm sai trái, phản động. Nắm vững bản chất, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trên lĩnh vực lý luận, tư tưởng, văn hoá, tổ chức lực lượng, chủ động tiến công các quan điểm sai trái, thù địch nhằm bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước... là bài học lớn của công tác Tuyên giáo, không chỉ có ý nghĩa trong quá khứ mà còn có giá trị thực tiễn trong thời kỳ mới. Thưa các đồng chí và các bạn! Tự hào về những thành tựu to lớn trong 80 năm qua, đứng trước yêu cầu của thời kỳ mới, ngành Tuyên giáo của Đảng và đội ngũ những người làm công tác tuyên giáo ý thức rõ ràng và sâu sắc hơn về trách nhiệm nặng nề nhưng rất vẻ vang của mình trong những năm tới. Trải qua 80 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng ta đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm quý báu, hun đúc nên những truyền thống vẻ vang. Đó là truyền thống trung thành vô hạn với lợi ích của giai cấp, của nhân dân và của cả dân tộc, kiên định lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; truyền thống đoàn kết thống nhất, ý thức tổ chức kỷ luật cao... Đây là cơ sở vững chắc để Đảng ta tiếp tục tiến tới, phát triển và thực hiện đưòng lối đổi mới đúng dắn, sáng tạo, tạo nên sức mạnh tổng hợp của dân tộc dưa cách mạng Việt Nam vươn lên giành đựoc những thành tựu to lớn hơn nữa. Sau 25 năm đổi mới, với thế và lực mới, đất nước ta có nhiều cơ hội, điều kiện thuận lợi để phát triển, đẩy nhanh hơn nữa sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, trong những năm tới, thế giới đang biến đổi, biến động nhanh chóng, phức tạp và khó lường trên tất cả các lĩnh vực và trong các quan hệ quốc tế. Đời sống tư tưởng thế giới tiếp tục diễn ra ngày càng phức tạp, nhiều khuynh hướng khác nhau, đối lập nhau cùng ảnh hưởng và tác động đối với nước ta. Đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn về nhiều mặt, song chất lượng phát triển kinh tế - xã hội còn rất hạn chế, chưa đảm bảo hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; phân hoá giàu nghèo còn lớn và có xu hướng tăng. Tình trạng thoái hoá, biến chất về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn nghiêm trọng. Các thế lực thù địch ráo riết hoạt động “diễn biến hoà bình” để chống phá cách mạng nước ta. Trong khi những điều kiện và đặc điểm trên tác động cả tích cực và tiêu cực đến hoạt động của chúng ta, thì bản thân công tác Tuyên giáo, bên cạnh những thành tự rất đáng ghi nhận, vẫn còn nhiều mặt bất cập, yếu kém và khuyết điểm. Tham mưu trên một số lĩnh vực công tác còn chưa kịp thời, nhạy bén. Công tác tư tưởng văn hoá còn thiếu sắc bén; tính chiến đấu, tính giáo dục và thuyết phục chưa cao. Công tác lý luận chưa giải đáp đúng, trúng và thuyết phục nhiều vấn đề mới nảy sinh từ cuộc sống. Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, khoa học – công nghệ và các vấn đề xã hội còn nhiều việc chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Trong đấu tranh tư tưởng còn chưa kịp thời, chưa nhạy bén phản bác các luận điệu tuyên truyền thù địch, xuyên tạc, phản động. Đó là những cơ hội lớn và cả những thách thức mới, gay gắt đối với công tác Tuyên giáo thời gian tới. Phát huy truyền thống 80 năm, toàn ngành Tuyên giáo cần nỗ lực vươn lên đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tập trung sức thực hiện tốt các nhiệm vụ mà Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Ban Bí thư giao phó. Công tác tuyên giáo là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng, là lĩnh vực trọng yếu để xây dựng, bồi đắp nền tảng tinh thần của chế độ, khẳng định và nâng cao vai trò tiên phong của Đảng về chính trị, tư tưởng, lý luận, trí tuệ, văn hoá, đạo đức. Lý luận thật sự khoa học và cách mạng là cơ sở để giáo dục lý tưởng, củng cố và khẳng định niềm tin. Chưa bao giờ thực tiễn đặt ra những đòi hỏi bức xúc đối với công tác lý luận như hiện nay. Vì vậy, công tác Tuyên giáo phảo thực hiện tốt chức năng định hướng và góp phần đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, giải đáp những vấn đề đặt ra trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tích cực góp phần trực tiếp xây dựng Đảng trên tất cả các lĩnh vực về chính trị, tư tưởng, đạo đức và văn hoá; gắn chặt nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng với cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; tiếp tục tập trung thực hiện có hiệu quả và phát triển Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong thời kỳ mới. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về đường lối đổi mới của Đảng, tăng cường tính chiến đấu, tầm văn hoá và sức thuyết phục, chú trọng tính hiệu quả của các hoạt động tuyên giáo, gắn bó chặt chẽ với nhân dân và thực tiễn đất nước, nhân rộng, tạo sức lan toả của các nhân tố mới, điển hình tiên tiến; giữ gìn và phát huy những giá trị nhân văn cao đẹp trong cuộc sống. Chủ động góp phần trực tiếp với hiệu quả cao trong việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trên quan điểm khẳng định công tác tuyên giáo phải là một bộ phận, một thành tố hữu cơ, gắn chặt với toàn bộ quá trình triển khai các nhiệm vụ và hoạt động kinh tế - xã hội. Công tác tuyên giáo phải tiếp tục nghiên cứu, tổng kết, xây dựng và truyền bá rộng rãi những giá trị mới của con người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Góp phần xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ to lớn của thời kỳ mới (cán bộ lãnh đạo, quản lý, các nhà văn hoá, khoa học, đội ngũ người lao động có trình độ tốt, các nhà doanh nghiệp tâm huyết với đất nước, có tài và đức...), chú trọng nâng cao chất lượng tham mưu trên lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, các vấn đề xã hội và trong nhiệm vụ xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi, đồng thời tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước để các lĩnh vực báo chí, xuất bản, văn hoá, văn nghệ phát triển mạnh mẽ, phát huy vai trò tích cực trong đời sống xã hội của từng cơ quan, đơn vị; kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực trong các lĩnh vực rất quan trọng này. Triển khai đồng bộ, chủ động đấu tranh có hiệu quả trên mặt trận tư tưởng, phản bác các luận điệu sai trái, thù địch, chống phá Đảng và Nhà nước. Về xây dựng đội ngũ, những năm tới, cần tập trung kiện toàn tổ chức, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất, bản lĩnh chính trị năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên giáo, đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá các hoạt động tuyên giáo. Công tác tuyên giáo phải đổi mới toàn diện, mạnh mẽ về nội dung và phương thức, không ngừng nỗ lực nâng cao chất lượng và hiệu quả cụ thể, góp phần làm cho mặt tích cực, cái mới, cái tiến bộ trở thành xu hướng chỉ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội, nêu cao khát vọng vươn lên của các tầng lớp nhân dân, phát huy tinh thần đại đoàn kết, sự thống nhất cao trong Đảng và sự đồng thuận lớn trong xã hội để xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc VIệt Nam xã hội chủ nghĩa. Thưa các đồng chí và các bạn! Những thành tựu đáng tự hào của công tác Tuyên giáo của Đảng 80 năm qua đã cho chúng ta những kinh nghiệm quý báu, tạo niềm tin và sự phấn khởi của toàn ngành quyết tâm hoàn thành tốt hơn nữa những trọng trách mà Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao phó. Để thực hiện tốt các nhiệm vụ đó, đội ngũ cán bộ tuyên giáo phải ra sức học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tiếp tục kiên định và thuỷ chung với lý tưởng cách mạng, gắn bó máu thịt với nhân dân và thực tiễn đất nước, nêu cao tinh thần và năng lực sáng tạo, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, xứng đáng là những chiến sỹ xung kích trên mặt trận tuyên giáo của Đảng. Nắm bắt thời cơ, vượt qua thử thách, vững vàng và không ngừng tiến lên, đó là phương hướng tư tưởng và phương châm hành động của chúng ta! Một lần nữa, xin kính chúc các đồng chí lãnh đạo Đảng Nhà nước và toàn thể các đại biểu dồi dào sức khoẻ, hạnh phúc và thành công!
Xin trân trọng cảm ơn! (*) Đầu đề do Báo điện tử ĐCSVN đặt. Sự hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng thời kỳ 1930-1945
Ngày phát hành:
29/08/2021
Lượt xem
16672
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thắng lợi vĩ đại, là mốc son chói lọi của lịch sử cách mạng Việt Nam, gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta. Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám. Quá trình hình thành đường lối chiến lược giải phóng dân tộc là quá trình vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX, để nhận thức đúng mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội, xác định đúng kẻ thù, quyết định nhiệm vụ chiến lược, các chủ trương chính sách để tập hợp lực lượng và phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn. Do đó, quá trình hình thành đường lối cách mạng giải phóng dân tộc giai đoạn 1930 – 1945, Đảng ta đã trải qua quá trình đấu tranh cách mạng kiên cường. Vừa trực tiếp tuyên truyền, giáo dục, vận động tổ chức quần chúng đấu tranh chống đế quốc thực dân, chống sưu cao thuế nặng, chống khủng bố dã man; đấu tranh về nhận thức, quan điểm khi vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội Việt Nam; phát triển lực lượng, bổ sung, tăng cường lãnh đạo các cấp của Đảng kể cả Ban chấp hành Trung ương. Sự lãnh đạo của Đảng ta đối với xã hội trước hết là bằng cương lĩnh, đường lối chính trị, mà theo nguyên tắc hoạt động của đảng cộng sản thì cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng phải do Đại hội – cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng quyết định. Tuy nhiên, trong thời kỳ 1930 – 1945 - do hoàn cảnh phải hoạt động bí mật, liên tục bị chính quyền thực dân đàn áp, khủng bố, Đảng ta chỉ tiến hành duy nhất Đại hội lần thứ I vào tháng 3-1935. Trong hoàn cảnh đó Ban chấp hành Trung ương có trọng trách vận dụng sáng tạo lý luận cách mạng vào thực tiễn để hình thành, phát triển hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt) do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị thành lập Đảng 3-2-1930 thông qua, trên cơ sở phân tích, đánh giá chính xác tính chất xã hội Việt Nam thuộc địa cùng những đặc điểm quan trọng nhất về nền công nghiệp, nông nghiệp của đất nước, đã chỉ ra mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu là giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc thực dân xâm lược; đã xác định: Đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đây là quá trình phát triển lâu dài trải qua những thời kỳ, giai đoạn chiến lược khác nhau trong tiến trình cách mạng dân tộc, dân chủ và xã hội chủ nghĩa mà trước tiên là đấu tranh giành độc lập dân tộc. Do đó trong chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt xác định nhiệm vụ chiến lược là “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập; dựng ra chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông; thu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp vận tải, ngân hàng…) của tư bản chủ nghĩa đế quốc Pháp để giao cho chính phủ công nông quản lý; giao hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo…; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm 8 giờ; dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo công nông hóa. Sách lược vắn tắt của Đảng khẳng định:“Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”[1]. Chủ trương của Đảng là: “thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa c.m đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến”[2]. Đảng chủ trương xây dựng khối đoàn kết rộng rãi các giai cấp, các tầng lớp nhân dân yêu nước và các tổ chức cách mạng, chỉ đánh đổ những lực lượng và đảng phái phản cách mạng: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v.) để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản c.m thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản c.m (Đảng Lập hiến,v.v.) thì phải đánh đổ”[3]. Cương lĩnh chính trị của Đảng chỉ rõ giai cấp lãnh đạo và lực lượng chính, động lực chủ yếu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam là: “Trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chánh, nhưng vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được”[4]. Về phương pháp cách mạng: sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để đánh đổ đế quốc, phong kiến. Việc nêu lên phương pháp cách mạng bạo lực thể hiện sự thấm nhuần và tiếp thu tư tưởng cách mạng bạo lực và khởi nghĩa vũ trang của chủ nghĩa Mác - Lênin. Con đường phát triển chỉ có thể là cách mạng chứ không thể là cải lương, thỏa hiệp. Về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Cương lĩnh nêu rõ: “...trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng thời tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp”[5]. Đồng thời, Cương lĩnh cũng xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Cách mạng Việt Nam gắn liền với cách mạng thế giới, đề cao vấn đề đoàn kết quốc tế là sự kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, lợi ích dân tộc và lợi ích toàn nhân loại tiến bộ đang đấu tranh để giải phóng khỏi ách áp bức, bất công trên thế giới. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã xử lý đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp trong chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc, đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của lịch sử, đáp ứng khát vọng độc lập tự do của toàn đân tộc, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới mở ra sau thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga 1917. Bẩy tháng sau (tháng 10-1930), tại Hội nghị lần thứ nhất của Ban chấp hành Trung ương – thay cho Ban chấp hành Trung ương lâm thời, Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (Dự án để thảo luận trong Đảng) được thay thế cho Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, lại nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên: “một bên là thợ thuyền dân cày và các phần tử lao khổ, một bên thì địa chủ phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa”[6]. Luận cương xác định tính chất của cuộc cách mạng Đông Dương lúc đầu là cuộc “cách mạng tư sản dân quyền” cho đây là: “thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”. Luận cương cho rằng: Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải: “Tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tư bản và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và “Đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Luận cương còn xác định hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong phải được đặt ngang hàng nhau: “Có đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa mới phá được các giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi, mà có phá tan được chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”[7]… Luận cương chính trị tháng 10năm 1930 đã có những đóng góp quan trọng vào kho tàng lý luận của cách mạng Việt Nam, vạch ra con đường đi lên của cách mạng nước ta. Song, Luận cương còn một số mặt hạn chế, không nêu ra được mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp, từ đó không nêu được nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu. Do vậy, chưa phát huy đầy đủ vị trí của yếu tố dân tộc, chưa nhận thức được đầy đủ vai trò của Mặt trận dân tộc thống nhất trong việc đoàn kết các lực lượng yêu nước. Luận cương chưa đánh giá đúng khả năng cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, tinh thần yêu nước của tư bản dân tộc và một bộ phận địa chủ nhỏ. Nhận thức không phù hợp với thực tiễn của xã hội thuộc địa Việt Nam và không phù hợp với chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc này kéo dài gần năm năm, cho đến Đại hội đại biểu toàn Đảng lần thứ nhất (3.1935). Từ đây cùng với sự phát triển của thực tiễn đấu tranh cách mạng, thông qua thực hành nghiêm túc nguyên tắc “tự chỉ trích” (phê bình và tự phê) với tinh thần “tự chỉ trích Bônsêvích phải có nguyên tắc có kỷ luật, theo dân chủ tập trung và phải luôn luôn đặt quyền lợi uy tín Đảng lên trên hết. Không được lợi dụng tự chỉ trích mà gây mầm bè phái chống Đảng và làm rối loạn hàng ngũ Đảng” phải thông qua tự chỉ trích để tẩy trừ: “các khuynh hướng hữu khuynh tả khuynh, lối hành động cô độc biệt phái, quan liêu hủ bại… để Đảng luôn “xứng đáng đội quân tiên phong cách mệnh, lãnh tụ chính trị của giai cấp”[8]. Ban chấp hành Trung ương có bước tiến mạnh mẽ trong tư duy lý luận cách mạng giải phóng dân tộc. Trong thư gửi các tổ chức Đảng ngày 26/7/1936, Ban Trung ương đã công khai phê phán những biểu hiện giáo điều trong phân tích đặc điểm giai cấp trong xã hội thuộc địa và cho rằng: “Ở một xứ thuộc địa như Đông Dương, trong hoàn cảnh hiện tại, nếu chỉ quan tâm đến cuộc đấu tranh giai cấp có thể sẽ nẩy sinh những khó khăn để mở rộng phong trào giải phóng dân tộc”[9]. Tháng 10.1936, Ban chỉ huy hải ngoại của Đảng ban hành văn bản: chung quanh vấn đề chính sách mới đã chỉ rõ: “cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa, nghĩa là không thể nói rằng muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa; muốn giải quyết vấn đề điền địa cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng… Nếu phát triển cuộc đấu tranh chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân (kẻ thù) chính, nguy hiểm nhất để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng”. Từ nhận thức đúng đắn về mâu thuẫn cơ bản chủ yếu trong xã hội thuộc địa, về nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa, về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc, thực dân và chống phong kiến, mối quan hệ giữa chiến lược và sách lược, về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp… nên khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Ban Trung ương Đảng, trong Hội nghị từ ngày 6, 7, 8 tháng 11 năm 1939 đã xác định: Toàn Đảng phải “đứng trên lập trường cách mệnh giải phóng dân tộc, sự điều hòa những cuộc đấu tranh của những giai cấp người bổn xứ đưa nó vào phong trào đấu tranh chung của dân tộc ta là nhiệm vụ cốt lõi.”. Hội nghị Trung ương tháng 11.1939 đã quyết định: “cuộc cách mệnh tư sản dân quyền do Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thực hiện giải quyết: 1.Đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn phản động tay sai cho đế quốc và phản bội dân tộc. 2.Đông Dương hoàn toàn độc lập (thi hành quyền dân tộc tự quyết). 3.Lập chính phủ cộng hòa dân chủ. 4. Lập quốc dân cách mệnh quân. 5.Quốc hữu hóa những nhà băng, các cơ quan vận tải, giao thông các binh xưởng, các sản vật trên rừng, dưới biển và dưới đất. 6.Tịch ký và quốc hữu hóa tất cả các xí nghiệp của tư bản ngoại quốc và bọn đế quốc thực dân và tài sản của bọn phản bội dân tộc, nhà máy giao thợ thuyền quản lý. 7.Tịch ký và quốc hữu hóa đất ruộng của đế quốc thực dân và bọn phản bội dân tộc. Lấy đất của bọn phản bội, đất công điền, đất bỏ hoang chia cho quần chúng nông dân cày cấy. 8.Thi hành luật lao động ngày 8 giờ, 7 giờ cho các hầm mỏ. 9.Bỏ hết các thứ sưu thuế. 10.Thủ tiêu tất cả các khế ước cho vay đặt nợ. 11.Ban hành các quyền tự do dân chủ, cả quyền nghiệp đoàn phổ thông đầu phiếu, những người công dân từ 18 tuổi trở lên, bất cứ đàn ông đàn bà nòi giống nào đều được quyền bầu cử, ứng cử. 12.Phổ thông giáo dục cường bách. 13.Nam nữ bình quyền về mọi phương diện xã hội, kinh tế và chính trị. 14.Mở rộng các cuộc xã hội, y tế, cứu tế, thể thao.v.v[10]. Một điểm rất đặc sắc của quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc thời kỳ 1930-1945 là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng ta đã sáng tạo một hình thức tổ chức độc đáo phù hợp với điều kiện lịch sử của Việt Nam đó là lập mặt trận dân tộc thống nhất để hiện thực hóa tư tưởng của V.Lênin vĩ đại: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng – Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân Việt Nam được Đảng tuyên truyền giác ngộ và được tập hợp tổ chức trong mặt trận dân tộc thống nhất nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Chín tháng sau ngày thành lập, ngày 18.11.1930, Ban thường vụ Trung ương đã ban hành chỉ thị về vấn đề thành lập Hội “Phản đế đồng minh”. Trên cơ sở phân tích sâu sắc tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc, bản chỉ thị đã nhận định: “Cuộc cách mệnh tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không tổ chưc được toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công (Rộng là toàn dân cùng đứng trong một mặt trận chống đế quốc và tụi phong kiến tay sai phản động, hèn hạ; Kín là đặt để công nông trong bức tranh dân tộc phản đế bao la)[11]. Bản chỉ thị cũng phê phán những biểu hiện của quan điểm hẹp hòi, “tả” khuynh trong xây dựng, mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất nên “Tổ chức cách mạng vẫn đơn thuần công nông” , “Do thiếu một tổ chức thật quảng đại quần chúng hấp thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản dân tộc, họ là tầng lớp trên hay ở vào tầng lớp giữa và cho tới cả những người địa chủ có đầu óc oán ghét đế quốc Pháp, mong muốn độc lập quốc gia để đưa tất cả những tầng lớp và cá nhân đó vào trong hàng ngũ chống đế quốc Pháp, để cần kíp động viên toàn dân nhất tề hành động.”[12]. Vào năm 1936, trước nguy cơ của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, Đại hội VII, quốc tế cộng sản chủ trương tập hợp mọi lực lượng dân chủ hòa bình chống chế độ phản động, chống chủ nghĩa phát xít. Nhiều nước trên thế giới đã hình thành mặt trận dân tộc rộng rãi. Ở Pháp, năm 1935, mặt trận bình dân Pháp được thành lập và giành được thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử và đứng ra thành lập chính phủ (5.1936). Thực hiện nghị quyết của quốc tế cộng sản, lợi dụng mặt trận bình dân Pháp giành thắng lợi ở Pháp, Đảng ta đã chủ trương mở rộng Mặt trận dân chủ thống nhất Đông Dương nhằm tập hợp các giai cấp, Đảng phái, dân tộc, tổ chức chính trị, xã hội và tôn giáo khác nhau thực hiện nhiệm vụ chung là: “Mặt trận dân chúng thống nhất phản đế phải dùng đủ phương pháp mà đánh tan ách thống trị của đế quốc Pháp, chống đế quốc chiến tranh, chống chủ nghĩa phát xít, bênh vực Xô Viết liên bang”[13]. Đến Hội nghị Trung ương tháng 11.1939, tư duy lý luận về tổ chức lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng đã hoàn toàn thống nhất với tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc: Nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật không phải chỉ của riêng giai cấp công nhân và nông dân mà là nhiệm vụ chung của toàn dân Việt Nam, khi Trung ương Đảng xác định: “Thống nhất lực lượng dân tộc là điều kiện cốt yếu để đánh đổ đế quốc Pháp”[14]. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương tháng 11.1940 đã đưa ra quan niệm về “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế là sự liên minh giữa các lực lượng cách mệnh phản đế không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, mục đích là thực hiện thống nhất hành động giữa các lực lượng ấy đặng tranh đấu tiến lên vũ trang bạo động đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và các lực lượng phản động ngoại xâm và các lực lượng phản bội quyền lợi dân tộc làm cho Đông Dương được hoàn toàn giải phóng”[15]. Tại Hội nghị này dù Trung ương đã khẳng định: “khẩu hiệu cách mệnh phản đế; cách mạng giải phóng dân tộc cao hơn và thiết dụng hơn” nhưng lại cho rằng: “cách mạng phản đế và cách mạng thổ địa phải đồng thời tiến, không thể cái làm trước cái làm sau”[16]. Ngày 28.1.1941, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước. Sau một thời gian chuẩn bị, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương 8 từ ngày 10 đến 19/5/1941. Hội nghị đã phân tích nguồn gốc, đặc điểm, tính chất của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, dự báo phe phát xít nhất định thất bại, phe Đồng minh chống phát xít chắc chắn sẽ giành thắng lợi. Chủ nghĩa đế quốc sẽ suy yếu và phong trào cách mạng thế giới sẽ phát triển mạnh mẽ. Hội nghị dự đoán rằng: “Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”[17]. Hội nghị nhận định: “Đế quốc Pháp – Nhật chẳng những áp bức các giai cấp thợ thuyền, dân cày mà chúng còn áp bức bóc lột cả các dân tộc, không chừa một hạng nào…Quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mệnh cách mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng. Pháp – Nhật ngày nay không chỉ là kẻ thù của công nông mà là kẻ thù của cả dân tộc Đông Dương”… Do đó: “Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mệnh tư sản dân quyền, cuộc cách mệnh phải giải quyết hai vấn đề phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp dân tộc giải phóng”[18]. Hội nghị khẳng định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi lại được độc lập, tự do cho toàn dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.”. Từ quan điểm chỉ đạo này, Đảng ta đã xác định tính chất của cách mạng Việt Nam giai đoạn này là cách mạng giải phóng dân tộc, đây là nhiệm vụ cấp bách, quan trọng hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Vì thế Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng khẩu hiệu: “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất cho công bằng, giảm địa tô, giảm tức”. Hội nghị đi tới một quyết định cực kỳ quan trọng: giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước, cốt làm sao để thức tỉnh được tinh thần dân tộc của mỗi nước trên bán đảo Đông Dương. Hội nghị chủ trương thành lập ở mỗi nước một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Ở Việt Nam mặt trận này được lấy tên là: “Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt minh). Các tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc được thành lập trước đây đều thống nhất lấy tên là: Hội cứu quốc”, như Hội nông dân cứu quốc, Hội công nhân cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc, Hội thanh niên cứu quốc, Hội phụ lão cứu quốc, Hội nhi đồng cứu quốc… và tất cả các Hội cứu quốc đều tham gia là thành viên của Việt minh. Đối với Lào, Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Ai Lao độc lập đồng minh, và đối với Campuchia thì lập Mặt trận Cao Miên độc lập đồng minh. Trên cơ sở ra đời mặt trận ở mỗi nước sẽ thành lập mặt trận chung của ba nước là Đông Dương độc lập đồng minh. Các dân tộc trên bán đảo Đông Dương đều chịu ách thống trị của đế quốc Pháp, phát xít Nhật cho nên phải đoàn kết thống nhất lực lượng để đánh đuổi kẻ thù chung. Vấn đề dân tộc ở bán đảo Đông Dương lúc này là vấn đề tự do độc lập của mỗi dân tộc. Do đó Hội nghị Trung ương 8 khẳng định hết sức tôn trọng và thi hành đúng quyền dân tộc tự quyết đối với các dân tộc ở Đông Dương. Sau khi đánh đuổi được Pháp, Nhật thì: “các dân tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ tùy theo ý muốn tổ chức thành Liên Bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành dân tộc quốc gia tùy ý”. “Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng”[19]. Sau Hội nghị Trung ương 8, ngày 19-5-1941 một Đại hội gồm đại diện các Đảng phái, các tổ chức quần chúng… tuyên bố thành lập Việt Nam độc lập Đồng minh với tuyên ngôn: “Liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào; đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp, Nhật, giành quyền độc lập cho xứ sở. Việt Nam độc lập đồng minh lại còn hết sức giúp đỡ Ai Lao độc lập đồng minh và Cao Miên độc lập đồng minh để cùng thành lập Đông Dương độc lập đồng minh hay là mặt trận thống nhất dân tộc phản đế toàn Đông Dương để đánh được kẻ thù chung giành quyền độc lập cho nước nhà. Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật sẽ thành lập một Chính phủ nhân dân của Việt Nam dân chủ cộng hòa lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc. Chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra”[20]. Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, và coi đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và của nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. Hội nghị đã xác định bốn điều kiện cho khởi nghĩa vũ trang thắng lợi và xác định sáu nhiệm vụ phải thực hiện để củng cố, tăng cường, phát triển mở rộng lực lượng cách mạng trong cả nước đủ sức để thực hiện và củng cố thắng lợi của cuộc khởi nghĩa vũ trang[21]. Hội nghị Trung ương 8 đã phát triển sáng tạo phương thức khởi nghĩa vũ trang cách mạng khi đề ra chủ trương tiến hành khởi nghĩa từng phần giành chính quyền từng địa phương mở đường tiến lên tổng khởi nghĩa. Hội nghị Trung ương 8 đã đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng làm cho Đảng đủ năng lực lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đảng là người lãnh đạo người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đến Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5.1941) Đảng ta đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng được nêu ra từ Hội nghị Trung ương 6 tháng 11.1939. Đó là sự chuyển hướng chiến lược tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong sang thực hiện chiến lược giải phóng dân tộc, chỉ tập trung lực lượng toàn dân tộc giải quyết cho được một vấn đề cấp bách và quan trọng hàng đầu là đánh đổ ách thống trị của đế quốc Pháp-Nhật, giành độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc. Từ xác định đúng mâu thuẫn cơ bản chủ yếu, đến chỉ rõ kẻ thù chủ yếu là đế quốc Pháp – Nhật, Hội nghị đã xác định rõ tính chất của cuộc cách mạng là cách mạng giải phóng dân tộc, lực lượng tiến hành cuộc cách mạng này là toàn dân Việt Nam bao gồm mọi tầng lớp, mọi tổ chức chính trị, mọi giai cấp, mọi tôn giáo, dân tộc, mọi lứa tuổi được tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất phản đế với tên gọi Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng Minh. Đảng cộng sản Đông Dương là thành viên của Việt Minh và là hạt nhân chính trị lãnh đạo Việt Minh. Hội nghị Trung ương 8 đã quyết định phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc là khởi nghĩa vũ trang, từ khởi nghĩa vũ trang từng phần. Giành chính quyền ở từng địa phương chuẩn bị lực lượng đón thời cơ tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5.1941) là sự khẳng định kế thừa, tiếp thu và phát triển sáng tạo tư tưởng cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra trong tác phẩm “Đường Cách Mệnh” (1927) và cương lĩnh cách mạng đầu tiên (chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, chương trình vắn tắt) của Đảng do chính Người dự thảo và được Hội nghị thành lập Đảng 3/2/1930 thông qua. Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 là sự khẳng định bước trưởng thành vượt bậc của Đảng ta trong lãnh đạo chính trị, trong đổi mới tư duy về xây dựng đường lối cứu nước, trong việc mài sắc vũ khí tự chỉ trích Bônsêvích để vượt qua bệnh ấu trĩ “tả” khuynh, bệnh giáo điều dập khuôn máy móc… Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5-1941) là ngọn đèn pha soi sáng, là ngọn cờ dẫn đường chỉ lối cho toàn dân ta giành thắng lợi vĩ đại trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. PGS.TS Đào Duy Quát Nguyên Phó Trưởng ban thường trực Ban Tư tưởng – Văn hóa TW [1] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 3 [2] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 4 [3] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 4 [4] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 4 [5] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 4 [6] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 90 [7] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 90 [8] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 567 [9] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 74 [10] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 544-545 [11] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 231 [12] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 232 [13] Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội năm 2000. Tập 6. Trang 21 [14] Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội năm 2000. Tập 6. Trang 544 [15] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 77 [16] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 68 [17] Lịch sử cách mạng tháng 8 -1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội.1995. Trang 38-40 [18] Lịch sử cách mạng tháng 8 -1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội.1995. Trang 38-40 [19] Lịch sử Cách mạng Tháng 8.1945. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 1995. Trang 41, 42 [20] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 466-467 [21] Cách mạng tháng 8.1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội 1995. Trang 42-43 BÀI 2: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - NGƯỜI TỔ CHỨC, LÃNH ĐẠO MỌI THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAMThứ ba - 21/07/2020 08:30 139.876 0
1.1. Sự khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc Việt Nam Từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh phát triển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, đẩy mạnh xâm chiếm các nước thuộc địa. Hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân ra đời. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc ngày càng gay gắt. Trước tình hình đó, phong trào đấu tranh đòi độc lập dân tộc ở các nước thuộc địa phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến Việt Nam. Đặc biệt, thắng lợi của cuộccách mạngtháng Mười Nga (năm 1917) và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III năm 1919) làm biến đổi sâu sắc tình hình thế giới, mở đầu thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đối với Việt Nam, ngày01-9-1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Năm 1884, triều đình nhà Nguyễn ký với Chính phủ Pháp bản Hiệp ước Pa-tơ-nốt thừa nhận sự thống trị của thực dân Pháp trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Thực dân Pháp xác lập chế độ cai trị và khai thác thuộc địa ở Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực: Về chính trị: thực dân Pháp thực thi chính sách “chia để trị”. Về kinh tế: thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914), lần thứ hai (1919-1929). Về văn hoá: thi hành triệt để chính sách văn hoá nô dịch, ngăn chặn mọi ảnh hưởng của nền văn hoá tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam. Dưới tác động của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam đã có những biến chuyển sâu sắc: Về tính chất xã hội: từ xã hội phong kiến thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Về mâu thuẫn cơ bản trong xã hội: nổi lên hai mâu thuẫn cơ bản:mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai;mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến. Về cơ cấu giai cấp trong xã hội:giai cấp cũ bị phân hoá (địa chủ phong kiến và nông dân); đồng thời, xuất hiện những giai cấp và tầng lớp mới (công nhân, tư sản và tiểu tư sản). Thực tiễn lịch sử Việt Nam đặt ra những yêu cầu cơ bản cần phải giải quyết, đó là: đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc, tự do cho Nhân dân và xoá bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho Nhân dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ trước mắt và nổi lên hàng đầu. Trước yêu cầu của lịch sử, phong trào đấu tranh chống Pháp đã diễn ra mạnh mẽ: - Phong trào Cần Vương (1885 - 1896): điển hình là các cuộc khởi nghĩa Ba Đình (Thanh Hoá), Bãi Sậy (Hưng Yên), Hương Khê (Hà Tĩnh)…, với những sĩ phu phong kiến yêu nước như: Phan Đình Phùng, Tống Duy Tân, Nguyễn Thiện Thuật, Đinh Công Tráng... - Khởi nghĩa nông dân Yên Thế (Bắc Giang) dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh nông dân Hoàng Hoa Thám, là cuộc đấu tranh anh dũng của nông dân Việt Nam kéo dài gần 30 năm (1884 - 1913). -Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản với xu hướng bạo động của Phan Bội Châu và xu hướng cải cách của Phan Chu Trinh. Phan Bội Châu chủ trương bạo động để giành độc lập dân tộc nhưng dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài (dựa vào Nhật để đánh Pháp), thiết lập một nhà nước theo mô hình quân chủ lập hiến như của Nhật (1905) và sau đó theo chế độ cộng hoà tư sản như ở Trung Quốc (1912). Phan Chu Trinh chủ trương bất bạo động, tiến hành cải cách văn hóa, mở mang dân trí, làm cho dân giàu, nước mạnh, nhưng lại dựa vào nhà nước “bảo hộ Pháp”. + Phong trào Quốc gia cải lương của bộ phận tư sản và địa chủ lớp trên (1919-1923). + Phong tràoYêu nước dân chủ công khai của tiểu tư sản thành thị và tư sản lớp dưới (1925 - 1926). + Phong trào Cách mạng quốc gia tư sản củaViệt Nam Quốc dân Đảng do Nguyễn Thái Học đứng đầu (1927 - 1930) và cuộc khởi nghĩa Yên Bái (tháng 02-1930). Như vậy, vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tiếp tục truyền thống yêu nước, bất khuất kiên cường chống ngoại xâm, các phong trào chống thực dân Pháp theo ý thức hệ phong kiến, tư sản của Nhân dân ta diễn ra rất sôi nổi và liên tục, nhưng tất cả đều không thành công. Sự thất bại đó do nguyên nhân các giai cấp lãnh đạo đã lạc hậu, non yếu; không nhận thức đúng yêu cầu khách quan của lịch sử gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng con người; không tập hợp và tổ chức được đông đảo các giai tầng yêu nước; những hạn chế trong phương pháp đấu tranh… Việt Nam lâm vào khủng hoảng bế tắc về đường lối cứu nước, nhiệm vụ lịch sử đặt ra cho các thế hệ yêu nước đương thời là cần phải có một tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc. 1.2. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam Trong hoàn cảnh Việt Nam đang rơi vào khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc,với nhiệt huyết cứu nước, với thiên tài trí tuệ, nhãn quan chính trị sắc bén và được kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, ngày 05-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Nguyễn Tất Thành sang Pháp, Mỹ, Anh và nhiều nước thuộc địa của đế quốc, thực dân. Trải qua nhiều nghề lao động khác nhau, Người đã rút ra một kết luận quan trọng: ở đâu bọn đế quốc thực dân cũng tàn bạo độc ác, ở đâu người lao động cũng bị bóc lột dã man. Đầu năm 1919, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng tiến bộ ở Pháp lúc đó. Tháng 6-1919, các nước thắng trận họp Hội nghị Hoà bình ở Vécxây (Pháp), Nguyễn Ái Quốcthay mặt Hộinhững người Việt Nam yêu nước ở Phápgửi tới hội nghị bản yêu sách tám điểm[1]. Những yêu sách của Người không được Hội nghị đáp ứng. Sự kiện này đã giúp Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ: “Chủ nghĩa Uynxơn chỉ là một trò bịp bợm lớn”. Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địacủa V.I.Lênin đăng trên báo L'Humanite (Nhân đạo), số ra ngày 16 và 17-7-1920. Những luận điểm cách mạng của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã giải đáp những vấn đề cơ bản và chỉ dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc mà sau gần mười năm tìm kiếm (1911 - 1920) Nguyễn Ái Quốc mới bắt gặp. Tại Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp (tháng 12 - 1920), Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ ba (Quốc tế Cộng sản do Lênin thành lập). Đây cũng là sự kiện Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc, từ lập trường yêu nước chuyển sang lập trường cộng sản. Từ đây, Người tiếp tục học tập để bổ sung hoàn thiện tư tưởng cứu nước, đồng thời tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam nhằm chuẩn bị các tiền đề vềtư tưởng, chính trị và tổ chức, cán bộ cho sự ra đời chính đảng tiên phong ở Việt Nam. Về tư tưởng:Người tích cực tố cáo, lên án bản chất bóc lột của chủ nghĩa thực dân đối với Nhân dân các nước thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh Nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng. Về chính trị:thông qua những tác phẩm lý luận tiêu biểu, Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức “chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”. Mặt khác, cách mạng giải phóng dân tộc có thể thành công trước cách mạng chính quốc, góp phần thúc đẩy cách mạng chính quốc. Cách mạng muốn giành được thắng lợi thì “trước hết phải có Đảng cách mệnh”. Về tổ chức:tháng 6-1925, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên được thành lập tại Quảng Châu (Trung Quốc), từ đó đã có tác dụng thúc đẩy phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng vô sản, nâng cao ý thức giác ngộ và lập trường cách mạng của giai cấp công nhân. Tháng 3-1929, tại số nhà 5D, phố Hàm Long, Hà Nội, Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam ra đời. Tiếp đó, các tổ chức cộng sản liên tiếp được thành lập: Đông Dương Cộng sản Đảng tại Bắc Kỳ (tháng 6-1929), An Nam Cộng sản Đảng tại Nam Kỳ (tháng 11-1929) và Đông Dương Cộng sản liên đoàn tại Trung Kỳ (tháng 01-1930). Sự ra đời của các tổ chức cộng sản phản ánh sự phát triển nhảy vọt của phong trào cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên,sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia là nguy cơ dẫn đến chia rẽ trong phong trào cách mạng. Yêu cầu bức thiết lúc đó là thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào cách mạng của giai cấp công nhân vàNhân dân Việt Nam. Với sự nhạy bén về chính trị, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ ngày06-01 đến ngày07-02-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại bán đảo Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chỉ trì của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập một đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời, Hội nghị thông qua Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam, Điều lệ tóm tắt của các hội quần chúng. Trong đó, nội dung của Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt thể hiện rõ đường lối của cách mạng Việt Nam, với chủ trương “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã phản ánh sự kết hợp giữa đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; đồng thời,là sản phẩm của sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đó là một mốc lớn, bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước. Sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Lãnh tụNguyễnÁi Quốc - Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta. II. QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TỪ NĂM 1930 ĐẾN NAY |