Tiêu chảy nhiễm trùng uống thuốc gì

Phân từ 60 đến 90% là nước. Trong xã hội phương Tây, lượng phân từ 100 đến 200 g/ngày ở người lớn khỏe mạnh và 10 g/kg/ngày ở trẻ nhỏ, phụ thuộc vào lượng chất xơ không hấp thu được trong khẩu phần ăn (chủ yếu là carbohydrate). Tiêu chảy được định nghĩa là trọng lượng phân > 200 g/ngày. Tuy nhiên, nhiều người coi tăng bất kỳ lượng nước nào trong phân đều là tiêu chảy. Một cách khác, nhiều người ăn phải một lượng chất xơ để tạo khối phân nhiều hơn nhưng thành khuôn nhưng không nghĩ rằng họ bị tiêu chảy.

Tiền sử của bệnh hiện tại cần phải xác định thời gian và mức độ nặng của tiêu chảy, hoàn cảnh xuất hiện (bao gồm cả những chuyến đi, thức ăn, nguồn nước đã tiêu thụ gần đây), thuốc đã dùng (bao gồm bất cứ loại thuốc kháng sinh nào trong vòng 3 tháng trước), đau bụng hoặc nôn, tần suất và thời gian đại tiện, thay đổi tính chất phân (ví dụ: có máu, mủ, hoặc nhầy, thay đổi màu sắc hoặc độ đặc, bằng chứng đi ngoài phân mỡ), những thay đổi liên quan đến cân nặng hoặc cảm giác thèm ăn và tình trạng mót đại tiện hoặc cảm giác buốt mót cần phải được chú ý. Sự xuất hiện đồng thời của tiêu chảy trong những lần tiếp xúc gần cần phải được xác định chắc chắn. Các bác sĩ cần phải hỏi cụ thể về bất kỳ thay đổi nào về các loại thuốc có thể gây ra tiêu chảy.

Xem xét các hệ thống cần phải tìm kiếm các triệu chứng có thể gợi ý nguyên nhân, bao gồm đau khớp (viêm ruột, bệnh celiac); đỏ bừng mặt (tế bào ưa bạc, u tiết hoóc-môn peptied ruột vận mạch, bệnh tế bào mast); đau bụng mạn tính (ruột kích thích, bệnh viêm ruột, gastrinoma); và chảy máu đường tiêu hóa (viêm đại tràng thể loét, khối u).

Bệnh sử nên xác định được các yếu tố nguy cơ đã biết về bệnh tiêu chảy, bao gồm bệnh viêm ruột, hội chứng ruột kích thích, nhiễm HIV và các thủ thuật trước đây ở đường tiêu hóa (ví dụ: bắc cầu hoặc cắt ruột hoặc dạ dày hoặc cắt tụy). Tiền sử gia đình và xã hội cần phài tìm hiểu về sự xuất hiện đồng thời của tiêu chảy trong những lần tiếp xúc gần.

Tình trạng dịch và dịch cần được đánh giá. Thăm khám toàn diện, chú ý đến khám bụng và trực tràng bằng ngón tay để kiểm tra mức độ co thắt của cơ thắt và xét nghiệm tìm máu ẩn trong phân có vai trò quan trọng.

Một số dấu hiệu nhất định cho nghi ngờ về nguyên nhân gây tiêu chảy là một cơ quan hoặc trầm trọng hơn:

Tiêu chảy cấp tính, toàn nước trên một người khoẻ mạnh có thể có căn nguyên nhiễm khuẩn, đặc biệt là khi đi du lịch, có thể bị ngộ độc thức ăn, hoặc một ổ dịch có một nguồn điểm có liên quan.

Tiêu chảy cấp tính có hoặc không có sự bất ổn về huyết động ở một người khỏe mạnh gợi ý nhiễm trùng xâm lấn ở ruột. Chảy máu túi thừa và viêm đại tràng do thiếu máu cục bộ cũng có biểu hiện tiêu chảy toàn máu cấp tính. Các đợt tiêu chảy toàn máu tái phát ở một người trẻ tuổi gợi ý bệnh viêm ruột Tổng quan về bệnh viêm ruột .

Khi không sử dụng thuốc nhuận tràng, tiêu chảy với khối lượng phân lớn (ví dụ: khối lượng phân hàng ngày > 1 L/ngày) gợi ý nguyên nhân do u nội tiết trên bệnh nhân có giải phẫu tiêu hóa bình thường. Tiền sử có các giọt dầu trong phân, đặc biệt là nếu liên quan đến sụt cân, cho thấy kém hấp thu Tổng quan về kém hấp thu .

Tiêu chảy với phân màu xanh lá cây hoặc màu cam gợi ý kém hấp thu muối mật.

Các triệu chứng có thể giúp xác định đoạn ruột bị ảnh hưởng. Nói chung, trong bệnh lý ruột non, phân số lượng nhiều và toàn nước hoặc toàn chất béo. Trong các bệnh ở đại tràng, phân thường xuyên, đôi khi khối lượng ít, có thể kèm theo máu, nhầy, mủ và cảm giác khó chịu ở bụng.

Tiêu chảy cấp (< 4 ngày) thường không cần phải làm xét nghiệm. Trừ trường hợp bệnh nhân có dấu hiệu mất nước, phân toàn máu, sốt, đau dữ dội, hạ huyết áp, hoặc có các biểu hiện của ngộ độc - đặc biệt là những người rất trẻ hoặc rất già. Những bệnh nhân này cần phải được làm công thức máu và đo các chất điện giải, nitơ urê máu và creatinine. Cần phải lấy mẫu phân để soi trên kính hiển vi, nuôi cấy và nếu đã dùng kháng sinh, xét nghiệm tìm độc tố C. difficile.

Tiêu chảy mạn tính (> 4 tuần) cần phải có đánh giá, cũng như xuất hiện đợt tiêu chảy ngắn hơn (1 đến 3 tuần) ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch hoặc những người bị bệnh nặng. Đánh giá chẩn đoán cần phải được hướng theo tiền sử và khám thực thể khi có thể. Nếu phương pháp này không đưa ra chẩn đoán hoặc hướng chẩn đoán thì cần phải có cách tiếp cận rộng hơn. Xét nghiệm ban đầu cần phải bao gồm xét nghiệm phân để tìm máu ẩn trong phân, chất béo (bằng cách nhuộm Sudan hoặc elastase trong phân), điện giải đồ (để tính khoảng trống áp lực thẩm thấu của phân) và xét nghiệm kháng nguyên Giardia hoặc phản ứng chuỗi polymerase; công thức máu toàn có công thức bạch cầu; huyết thanh học celiac (IgA mô transglutaminase); hoóc-môn kích thích tuyến giáp (TSH) và thyroxine tự do (T4); và calprotectin trong phân hoặc lactoferrin trong phân (để sàng lọc bệnh viêm ruột [inflammatory bowel disease, IBD]). Hướng dẫn của Hiệp hội Tiêu hóa Hoa Kỳ 2019 về đánh giá xét nghiệm tiêu chảy cơ năng và hội chứng ruột kích thích chủ yếu có tiêu chảy (IBS-D) khuyến nghị giá trị ngưỡng là 50 mcg/g đối với calprotectin trong phân hoặc trong khoảng từ 4,0 đến 7,25 mcg/g đối với lactoferrin trong phân để tối ưu hóa độ nhạy với IBD. Kiểm tra bằng kính hiển vi để tìm trứng và ký sinh trùng cần phải được thực hiện cho những bệnh nhân có tiền sử đi du lịch gần đây hoặc nhập cư gần đây từ các khu vực có nguy cơ cao. Xét nghiệm phân kiểm tra C. difficile cần phải được thực hiện trên những bệnh nhân có phơi nhiễm với kháng sinh hoặc nghi ngờ nhiễm C. difficile. Nội soi đại tràng sigma hoặc nội soi đại tràng có sinh thiết cần phải được làm tiếp theo để tìm nguyên nhân viêm.

Khoảng trống thẩm thấu trong phân, được tính toán 290 2 × (natri phân + kali phân) cho biết tiêu là xuất tiết hay thẩm thấu. Khoảng trống thẩm thấu < 50 mEq/L cho biết tiêu chảy xuất tiết; khoảng trống lớn hơn gợi ý tiêu chảy thẩm thấu. Bệnh nhân bị tiêu chảy thẩm thấu có thể giấu việc uống thuốc nhuận tràng có magiê (có thể phát hiện được bằng cách đo nồng độ magiê trong phân) hoặc kém hấp thu carbohydrate (được chẩn đoán bằng kiểm tra hơi thở hydro, xét nghiệm lactase và xem xét chế độ ăn uống).

Tiêu chảy xuất tiết chưa được chẩn đoán cần phải làm xét nghiệm (ví dụ: nồng độ gastrin, calcitonin, peptide ruột vận mạch trong huyết tương, histamin, axit axetic 5-hydroxyindole nước tiểu [5-HIAA]) với các nguyên nhân liên quan đến nội tiết. Cần phải xem xét các triệu chứng suy thượng thận. Phải xem xét việc lén lút lạm dụng thuốc nhuận tràng; có thể loại trừ việc này bằng cách xét nghiệm thuốc nhuận tràng trong phân.

Khi dùng dung dịch bù nước và điện giải, bạn cần pha lượng nước đúng theo chỉ dẫn trên bao bì. Bởi sẽ có loại cần pha với 200ml nước, 500ml nước hoặc 1 lít nước. Việc pha đúng liều lượng sẽ giúp bù nước hiệu quả và ít gặp phải tác dụng phụ.

  • Dùng khoảng 10ml/kg trọng lượng cơ thể sau mỗi lần đi ngoài phân lỏng để phòng ngừa. Nếu trên 10 tuổi thì uống theo nhu cầu.
  • Uống 75ml/kg trong 4 giờ đầu để bù nước ở mức độ nhẹ và vừa. Nếu không còn dấu hiệu mất nước thì chuyển sang liều phòng ngừa, còn nếu vẫn còn thì uống lặp lại, uống theo nhu cầu.
  • Uống hết dung dịch trong 24 giờ và không dùng nữa
  • Dùng nước nguội để pha, tránh dùng nước khoáng vì nước khoáng có sẵn ion điện giải sẽ làm sai lệch tỉ lệ các chất.

2. Thuốc hấp phụ, bao phủ niêm mạc ruột diosmectite (Smecta)

Thuốc trị tiêu chảy này có thành phần chính là đất sét hoạt tính tự nhiên gồm nhôm kép và magiê silicat. Khi được hấp thụ vào cơ thể, các chất này sẽ tạo thành một lớp mỏng bao phủ và bảo vệ niêm mạc.

Không những vậy, nó còn có tác dụng hấp thụ nước, hơi và ngăn không cho các tác nhân gây tiêu chảy như các chất độc, vi khuẩn, virus bám tiếp vào niêm mạc ống tiêu hóa. Nhờ đó, giúp đẩy nhanh quá trình hồi phục, cải thiện khuôn phân, giảm lượng phân thải ra và rút ngắn thời gian tiêu chảy.

Liều dùng thông thường ở nhóm thuốc này là 3 gói mỗi ngày (1 gói tương đương 3g diosmectite) pha với khoảng ½ ly nước ấm. Với trẻ nhỏ, bạn sẽ cần hỏi kỹ bác sĩ về liều lượng sử dụng.

3. Thuốc cầm tiêu chảy Loperamide (Imodium)

Loperamide là thuốc trị tiêu chảy thường được sử dụng trong các trường hợp tiêu chảy cấp, tiêu chảy du lịch. Thuốc có tác dụng làm giảm nhu động ruột, giảm tiết dịch ở đường tiêu hóa, giảm nước trong phân. Từ đó, giúp tăng kích thước cho phân thành khuôn và giảm số lần đi ngoài.

Nhìn chung, thuốc trị tiêu chảy Loperamide chỉ tập trung điều trị triệu chứng, không giải quyết được nguyên nhân gây tiêu chảy, chẳng hạn như nhiễm trùng và không thể thay thế các liệu pháp bù nước bằng đường uống.

Thuốc Loperamide chỉ dùng cho người lớn và trẻ nhỏ trên 12 tuổi để điều trị tiêu chảy. Ở dạng viên nén, viên nang, dùng 4mg sau lần đi phân lỏng đầu tiên, sau đó uống thêm 2mg sau mỗi lần đi phân lỏng. Không uống quá 16mg trong 24 tiếng.

4. Thuốc trị đau bụng tiêu chảy bismuth subsalicylate (Pepto-Bismol)

Thuốc bismuth subsalicylate thường được sử dụng trong điều trị các bệnh lý về tiêu hóa. Thuốc có tác dụng giảm các triệu chứng khó chịu ở dạ dày do ợ nóng, buồn nôn, ợ chua, khó tiêu. Đặc biệt, đây còn là thuốc trị tiêu chảy cấp, tiêu chảy du lịch.

Về liều dùng, đối với chứng tiêu chảy cấp và tiêu chảy du lịch, người lớn nên uống 524mg khi cần, không dùng quá 8 liều trong 24 tiếng. Không nên dùng cho trẻ dưới 12 tuổi.

Nếu có vấn đề về chảy máu như tiêu chảy đi kèm với sốt, phân có lẫn máu hoặc dịch nhầy; loét dạ dày; dị ứng aspirin hoặc các salicylat khác, bạn không nên dùng thuốc này mà nên đi khám để được chẩn đoán và điều trị tốt nhất. Thuốc cũng chống chỉ định đối với trẻ em hoặc thanh thiếu niên bị sốt, có các triệu chứng cúm hoặc bị thủy đậu.