Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức thể hiện như thế nào

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là gì?

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng mà trong đó vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức và quyết định ý thức nhưng không thụ động mà có thể tác động trở lại vật chất qua hoạt động của con người.

Theo Lê-nin thì vật chất là một phạm trù triết học để chỉ thực tại khách quan, đem đến cho con người trong cảm giác, được cảm giác của con người chép lại, chụp lại, phản ánh lại và không tồn tại lệ thuộc vào cảm giác.

Đặc điểm của vật chất:

– Vật chất tồn tại bằng vận động và thể hiện sự tồn tại thông qua vận động.

– Không có vận động ngoài vật chất và không có vật chất không có vận động;

– Vật chất vận động trong không gian và thời gian;

– Không gian và thời gian là thuộc tính chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể và là hình thức tồn tại của vật chất.

Bên cạnh vật chất, ý thức là kết quả của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử xã hội. Ý thức mang bản chất là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, chính là sự phản ánh tích cực, tự giác, chủ động thế giới khách quan và bộ não con người thông qua hoạt động thực tiễn.

Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức thể hiện như thế nào

Vật chất và ý thức là gì?

Vật chất được hiểu là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan tồn tại bên ngoài không phụ thuộc vào cảm giác, ý thức của con người đem lại cho con người trong cảm giác và được chép lại, chụp lại, phản ánh và không lệ thuộc vào cảm giác.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì ý thức là sự phản ánh một cách năng động, sáng tạo thể hiện ở việc ý thức có thể tạo ra những hiểu biết mới về sự vật, có thể hình dung ra những gì không có trong thực tế vào trong bộ óc con người, ý thức có thể dự đoán, đoán trước được tương lai, có thể tạo ra những lý thuyết khoa học và lý thuyết rất trừu tượng là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức thể hiện như thế nào

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức

Quảng cáo

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng. Trong mối quan hệ này, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, song ý thức không hoàn toàn thụ động mà nó có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.

a) Vai trò của vật chất đối với ý thức

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức vì:

Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ khi có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật chất thì con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm của thế giới vật chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự phát triển hết sức lâu dài của khoa học về giới tự nhiên; nó là một bằng chứng khoa học chứng minh quan điểm: vật chất có trước, ý thức có sau.

Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức (bộ óc người, thế giới khách quan tác động đến bộ óc gây ra các hiện tượng phản ánh, lao động, ngôn ngữ), hoặc là chính bản thân thế giới vật chất (thế giới khách quan), hoặc là những dạng tồn tại của vật chất (bộ óc người, hiện tượng phản ảnh, lao động, ngôn ngữ) đã khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý thức.

Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất nên nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác động của môi trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.

b) Vai trò của ý thức đối với vật chất

Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.

Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò của con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Muốn thay đổi hiện thực, con người phải tiến hành những hoạt động vật chất. Song, mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trò của ý thức không phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu, đề ra phương huớng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ, phương tiện, v.v. để thực hiện mục tiêu của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác động của mình đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiền của con người.

Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng, có nghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các quy luật khách quan, con người có năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của mình, thế giới được cải tạo - đó là sự tác động tích cực cúa ý thức. Còn nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất, quy luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành động của con người đã đi ngược lại các quy luật khách quan, hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực đổi với hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách quan.

Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thế quyết định hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quả.

Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò của vật chất, của ý thức có thể thấy: vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung và khả năng sáng tạo ý thức; là điều kiện tiên quyết để thực hiện ýthức; ý thức chỉ có khả năng tác động trở lại vật chất, sự tác động ấy không phải tự thân mà phải thông qua hoạt động thực tiễn (hoạt động vật chất) của con người. Sức mạnh của ý thức trong sự tác động này phụ thuộc vào trình độ phản ánh của ý thức, mức độ thâm nhập của ý thức vào những người hành động, trình độ tổ chức của con người và những điều kiện vật chất, hoàn cảnh vật chất, trong đó con người hành động theo định hướng của ý thức.

Loigiaihay.com

Bài tiếp theo

Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức thể hiện như thế nào

  • Ý thức phương pháp luận
  • Lý thuyết: Chủ nghĩa duy vật biện chứng
  • Triết học là gì? vấn đề cơ bản lớn của triết học là vấn đề nào? Vị trí của vấn đề đó đối với sự phân định các trường phái triết học chính trong lịch sử?

    - Triết học là hệ thống quan điểm lý luận chung nhất của con người về thế giới; về tự nhiên xã hội và tư duy; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó.

  • Chủ nghĩa duy vật là gì? Nó có những hình thức - trình độ phát triển nào? Vì sao nói chủ nghĩa duy vật biện chứng do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập là hình thức - trình độ phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử?
  • Phạm trù (khái niệm) “vật chất” giữ vai trò gì đối với chủ nghĩa duy vật? Các nhà triết học duy vật trước Mác đã có quan niệm thế nào về “vật chất”? Nêu ưu điểm và hạn chế lịch sử của những quan niệm đó?

    - Phạm trù “vật chất" giữ vai trò là phạm trù cơ bản và nền tảng của chủ nghĩa duy vật (nói chung) và chủ nghĩa duy vật biện chứng (nói riêng).

Quảng cáo
Báo lỗi - Góp ý

Hiểu rõ khái niệm vật chất và ý thức là gì?

Vật chất là gì?

Vật chất được hiểu là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại; chụp lại; phản ánh và không lệ thuộc vào cảm giác.

  • Lênin đòi hỏi phân biệt vật chất với với tư cách là một phạm trù triết học, nó chỉ ra tất cả những gì tác động đến ý thức của chúng ta, giúp hiểu biết các hiện tượng.
  • Vật chất là hiện thực khách quan, tồn tại bên ngoài không phụ thuộc vào cảm giác, ý thức của con người.

Ý thức là gì?

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì ý thức là sự phản ánh một cách năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

Tuy nhiên, không phải cứ thế giới khách quan tác động vào bộ não con người thì tự nhiên trở thành ý thức. Mặt khác, ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới, do nhu cầu cải tạo giới tính tự nhiên của con người quyết định và được thực hiện thông qua hoạt động lao động. Do đó, ý thức … là cái vật chất đ­ược đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó”.

Tính sáng tạo của ý thức được biểu hiện rất phong phú. Trên cơ sở những gì đã có, ý thức có thể tạo ra những hiểu biết mới về sự vật, có thể hình dung ra những gì không có trong thực tế. Ý thức có thể dự đoán, đoán trước được tương lai, có thể tạo ra những ảo tưởng, hoang đường, những lý thuyết khoa học và lý thuyết rất trừu tượng và có tính khái quát cao.

Tuy nhiên, tính sáng tạo ra ý thức là sự sáng tạo ra sự phản ánh, vì ý thức bao giờ cũng chỉ là sự phản ánh tồn tại.

Ý thức là sản phẩm lịch sử của quá trình phát triển xã hội nên mang bản chất xã hội.

Mối quan hệ giữa vật chất & ý thức là gì?

Đây là mối quan hệ biện chứng, trong đó vật chất sẽ có trước và ý thức có sau, vật chất chính là nguồn gốc của ý thức và quyết định tới ý thức. Nhưng đây không phải là mối quan hệ thụ động, mà nó có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động của con người.

Vật chất là gì?

Vật chất là khái niệm nằm trong phạm trù triết học, nó dùng để chỉ những thực tại khách quan mà con người có thể nhìn, sờ và cảm nhận được. Đây là những hiện hữu xung quanh cuộc sống mà chúng ta có thể chụp và phản ánh lại, nó đem lại cho ta cảm giác.

Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức thể hiện như thế nào
Vật chất là thứ mà con người nhìn, sờ và cảm nhận được

Hiểu một cách đơn giản thì vật chất có 3 nội dung chính:

  • Là phạm trù triết học: Là kết quả của sự trừu tượng, khái quát hóa các thuộc tính, mối liên hệ vốn có của sự vật, hiện tượng.
  • Dùng để chỉ thực tại khách quan: Đây là thuộc tính cơ bản để phân biệt được cái gì là vật chất và cái gì không phải. Con người có thể nhận được được hay không thì vật chất cũng sẽ vẫn tồn tại.
  • Đem lại cảm giác: Vật chất có thể gây nên cảm giác cho con người khi tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới giác quan của con người.

Ý thức là gì?

Ý thức được hiểu là sự phản ánh thế giới khách quan lên trí óc của con người thông qua việc lấy các hoạt động thực tiễn làm cơ sở. Và ý thức cũng là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức thể hiện như thế nào
Ý thức là suy nghĩ, cảm nhận và tư duy của bộ óc sau khi nhìn thấy sự vật, hiện tượng nào đó

Ý thức chính là suy nghĩ, cảm nhận và tư duy của bộ óc con người sau khi nhìn thấy thực tiễn hoặc một sự vật hiện tượng nào đó. Tùy thuộc vào cảm quan của mỗi người mà sẽ có người ý thức đúng hoặc sai, chân thực hoặc trừu tượng.

Hiểu một cách đơn giản thì ý thức có một số nội dung sau:

  • Phản ánh thực tại khách quan dựa trên cơ sở hoạt động thực tiễn
  • Ý thức cũng cho thấy hình ảnh chủ quan thế giới khách quan, và bản chất sự vật sẽ đi vào trí óc của con người và được cải biên trong đó. Nên nội dung phản ánh sẽ mang tính khách quan và mức độ cải biên sẽ phụ thuộc vào chủ thể.
  • Là sự phản ánh tích cực, sáng tạo, chủ động và nó cũng mang kết cấu phức tạp gồm nhiều thành tố.

I. Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:

1. Vật chất:

a. Định nghĩa vật chất:

Vật chất là phạm trù rất phức tạp và có rất nhiều quan niệm khác nhau về vật chất đứng trên các giác độ khác nhau. Nhưng theo Lênin định nghĩa: ” Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.

Lênin chỉ rõ rằng, để định nghĩa vật chất, không thể làm theo cách thông thường là quy một khái niệm cần định nghĩa sang một khái niệm khác rộng hơn vì khái niệm vật chất là một khái niệm rộng nhất. Để định nghĩa vật chất, Lênin đó đối lập vật chất với ý thức, hiểu vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, vất chất tồn tại độc lập đối với cảm giác, với ý thức, còn cảm giác, ý thức phụ thuộc vào vật chất, phản ánh vật chất.

Khi định nghĩa:” Vật chất là một phạm trù triết học”, Lênin một mặt muốn chỉ rõ vật chất là một khái niệm rộng nhất, rộng vô hạn, muốn phân biệt vật chất với tư cách là một phạm trù triết học, là kết quả của sự khái quát và trừu tượng, với những dạng vật chất cụ thể, với những “hạt nhỏ” cảm tính. Vật chất với tư cách là phạm trù triết học không có những đặc tính cụ thể có thể cảm thụ được. Định nghĩa vật chất như vậy khắc phục được những quan niệm siêu hình của chủ nghĩa duy vật cũ, đồng nhất vật chất với hình thức biểu hiện cụ thể của nó.

Lênin đã cho rằng bản chất vốn nó cú tự cú, khụng do ai sinh ra, không thể tiêu diệt được, nó tồn tại bên ngoài và không lệ thuộc vào cảm giác, ý thức con người, vật chất là một thực tại khách quan, khác với quan niệm:” Ý niệm tuyệt đối”. của chủ nghĩa duy tâm khách quan” Thượng đế”của tôn giáo. “Vật tự nó không thể nắm được” của thuyết không thể biết, vật chất không phải là lực lượng siêu tự nhiên tồn tại lơ lửng ở đâu đó. Trái lại phạm trù vật chất là kết quả của sự khái quát các sự vật, hiện tượng có thật, hiện thực, và do đó các đối tượng vật chất có thật, hiện thực đó có khả năng tác động vào giác quan để gây ra cảm giác và nhờ đó mà ta có thể biết được, nắm bắt được đối tượng này. Định nghĩa vật chất của Lênin đó khẳng định được câu trả lời của chủ nghĩa duy vật về cả hai mặt cơ bản của triết học, phân biệt về chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng như thuyết không thể biết.

Xem thêm: Phát triển là gì? Nguyên lý về sự phát triển theo Triết học Mác – Lênin?

Hơn thế nữa Lênin cũn khẳng định, cảm giác chép lai chụp lại phản ánh vật chất, nhưng vật chất tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. Khẳng định như vậy một mặt Lênin muốn nhất mạnh tính thứ nhất của vật chất, vai trò quyết định của nó với ý thức, và mặt khác khẳng định phương pháp và khả năng nhận thức thế giới khách quan của con người. Điều này không chỉ phân biệt chủ nghĩa duy vật, với chủ nghĩa duy tâm, với thuyết không thể biết mà còn phân biệt chủ nghĩa duy vật với nhị nguyên luận.

Như vậy, chúng ta thấy rằng định nghĩa vật chất của Lênin là một định nghĩa toàn diện và triệt để nó giải đáp được cả hai mặt vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phân biệt về nguyên tắc với chủ nghĩa duy tâm, bất khả trị luận, nhị nguyên luận. Đồng thời nó cũn khắc phục thiếu sót, siêu hình, hẹp hòi trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ.

Định nghĩa vật chất của Lênin cũn giúp chúng ta nhân tố vật chất trong đời sống xã hội, đó là tồn tại xã hội, và nó cũn có ý nghĩa trực tiếp định hướng trong nghiên cứu khoa học tự nhiên, giúp khoa học tự nhiên ngày càng đi sâu vào nghiên cứu dạng cụ thể của vật chất trong giới vĩ mô. Nó cũng giúp chúng ta có thái độ khách quan và đòi hỏi chúng ta phải xuất phát từ thực tế khách quan trong suy nghĩ và hành động.

b. Các đặc tính của vật chất:

Vận động là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố hữu của vật chất.

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng vận động là mọi sự biến đổi nói chung chứ không phải là sự chuyển định vị trí trong không gian, Anghen cho rằng vận động là một phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất nó bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy.

Vận động có nhiều hình thức trong đó có 5 hình thức vận động cơ bản: Thứ nhất vận động cơ học( Di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian); thứ hai: vận động vật lớ(vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử, các quá trình điện nhiệt…); thứ ba:vận động hoá học(vận động của các nguyên tử, các quá trình hoá hợp và phân giải các chất); thứ tư: vận động sinh học (trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường); thứ năm: vận động xã hội (Sự biến đổi thay thế của các hình thái kinh tế xã hội).

Các hình thức vận động đều quan hệ chặt chẽ với nhau. Một hình thức vận động nào đó được thực hiện là do sự tác động qua lại với các hình thức vận động khác trong đó những hình thức vận động cao bao giờ cũng bao hàm những hình thức vận động thấp hơn, nhưng cũng không thể coi hình thức vận động cao là tổng số đơn giản các hình thức vận động thấp. Mỗi sự vật, hiện tượng có thể gắn với nhiều hình thức vận động nhưng bao giờ cũng được đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ bản.

Xem thêm: Bản chất là gì? Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng?

Thế giới vật chất bao giờ cũng ở trong quá trình vận động không ngừng. Không thể có vật chất không vận động, tức là vật chất tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Hay nói cách khác vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Anghen nhận định rằng và các rạng khác nhau của vật chất chỉ có thể tồn tại thông qua vận động chỉ thông qua vận động mới có thể thấy được thuộc tính của vật thể.

Trong thế giới vật chất từ các hạt cơ bản đến thế giới vi mô đến các hệ thống hành tinh khổng lồ trong thế giới vĩ mô từ vô cơ đến hữu cơ, đến xã hội loài người, tất cả luôn ở trạng thái vận động. Bất cứ một dạng vật chất nào cũng là một thể thống nhất có kết cấu xác định gồm những nhân tố, những bộ phận, những xu hướng khác nhau, cùng tồn tại, ảnh hưởng và tác động lẫn nhau. Sự tác động qua lại đó gây ra biến đổi. Nguồn gốc của vận động là do những nguyên nhân bên trong, vận động của vật chất là tự thân vận động.

Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, không thể có vận động bên ngoài vật chất, vận động không do ai sáng tạo ra và không thể tiêu diệt được do đó vận động được bảo toàn cả về số lượng lẫn chất lượng. Khoa học đã chứng minh rằng nếu một hình thức vận động nao đó của sự vật nhất định mất đi thì tất yếu nó nảy sinh ra một hình thức vận động khác thay thế nó. Các hình thức vận động chuyển hoá lẫn nhau, còn vận động của vật chất nói chung thì vĩnh viễn tồn tai với sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất.

Mặc dù vật chất luôn ở trong quá trình vận động không ngừng nhưng điều đó không loại trừ mà còn bao hàm cả hiện tượng đứng im tương đối không có hiện tượng đứng im tương đối thì không có sự phân hóa thế giới vật chất thành các sự vật và hiện tượng phong phú và đa dạng. Anghen khẳng định rằng khả năng đứng im tương đối của các vật thể, khả năng cân bằng tạm thời là những điều kiện chủ yếu của sự phân hóa vật chất.

Nếu vận động là sự biến đổi của các sự vật, hiện tượng thì sự đứng im là sự ổn định, là sự bảo toàn tính qui định của các sự vật hiện tượng. Đứng Im chỉ biểu hiện của một trạng thái vận động, vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối. Trạng thái đứng im còn được biểu hiện như là một quá trình vận động trong phạm vi của sự ổn định, chưa biến đổi. Đứng im chỉ là tạm thời vỡ nó chỉ xảy ra trong một thời gian nhất định. Vận động riêng biệt có xu hướng chuyển thành cân bằng nhưng vận động toàn thể lại phân loại sự cân bằng riêng biệt thành các sự vật, hiện tượng luôn thay đổi chuyển hoá cho nhau.

Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất. Không gian phản ánh thuộc tính của các đối tượng vật chất có vị trí, có hình hình thức kết cấu, có độ dài, ngắn, cao, thấp. Không gian biểu hiện sự cùng tồn tại và tách biệt của các sự vật với nhau, biểu hiện khoảng tính của chúng, trật tự phân bố chúng. Còn thời gian phản ánh thuộc tính của các quá trình vật chất diễn ra nhanh hay chậm, kế tiếp nhau theo một trật tự nhất định. Thời gian biểu hiện tốc độ và trình tự diễn biến của các quá trình vật chất, tính cách biệt giữa các giai đoạn khác nhau của các quá trình đó, sự xuất hiện và mất đi của các sự vật hiên tượng.

Không gian và thời gian là hình cơ bản của vật chất đang vận động. Lênin đó chỉ ra trong thế giới, không có gì ngoài vật chất đang vận động, và vật chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian. Không gian và thời gian là tồn tại khách quan. Nó không phải là hình thức chủ quan để xếp chặt các cảm giác mà ta thu nhận một cách lộn xộn như chủ nghĩa duy tâm quan niệm, cũng như nó không thể đứng ngoài vật chất. Không có không gian trống rỗng. Không gian và thời gian không phải là bất biến, tuyệt đối, mà trái lại không gian và thời gian có sự biến đổi phụ thuộc vật chất vận động.

* Tính thống nhất vật chất của thế giới

Xem thêm: Lực lượng sản xuất là gì? Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay

Chủ nghĩa duy tâm coi ý thức, tinh thần có trước, quyết định vật chất, do đó cũng cho rằng thế giới thống nhất ở tinh thần. Còn chủ nghĩa duy vật biện chứng lại khẳng định rằng, tính thống nhất chân chính của thế giới là ở tính vật chất của nó. Triết học Mác- Lênin khẳng định chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, không có thế giới tinh thần. Thế giới thần ninh ma quỷ tồn tại ở đâu đó bên trên, bên dưới ở trong hay ở ngoài thế giới vật chất.

Đồng thời còn khẳng định rằng các bộ phận thế giới đều là những dạng cụ thể của vật chất, có liên hệ vật chất thống nhất với nhau như liên hệ về cơ cấu tổ chức, liên hệ về lịch sử phát triển và đều phải luôn tuân thủ theo những qui luật khách quan của thế giới vật chất. Do đó thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn, vô tận không do ai sinh ra và cũng không mất đi trong thế giới đó không có cái gì khác ngoài những quá trình vật chất đang biến đổi và chuyển hoá lẫn nhau, là nguyên nhân và là kết quả của nhau.

2. Ý thức:

a. Kết cấu của ý thức

Cũng như vật chất có rất nhiều các quan niệm về ý thức theo các trường phái khác nhau. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật ở đây khẳng định rằng ý thức là đặc tính là sản phẩm của vật chất, ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc của con người thông qua lao động và ngôn ngữ. Mác nhấn mạnh rằng tinh thần, ý thức chẳng qua là cái vật chất được di chuyển vào bộ óc của con người và được cải biến ở trong đó.

Ý thức là một hiện tõm lớ xã hội có kết cấu phức tạp bao gồm ý thức, tri thức, tìm cảm, ý chí trong đó tri thức là quan trong nhất là phương thức tồn tại của ý thức.

Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức vì sự hình thành và phát triển của ý thức có liên quan mật thiết với nhau trong quá trình nhận thức của con người và cải biến thế giới tự nhiên. Tri thức càng được tích luỹ con người ngày càng đi sâu vào bản chất sự vật và cải tạo sự vật có hiệu quả hơn, tính năng động của ý thức cũng nhờ đó mà tăng hơn. Việc nhấn mạnh tri thức là yếu tố cơ bản, quan trọng nhất của ý thức có ý nghĩa chống quan điểm giản đơn coi ý thức chỉ là tình cảm niềm tin, ý chí. Quan điểm đó chính là biểu hiện của bệnh chủ quan duy ý chí, của niềm tin mù quáng, của sự tưởng tượng chủ quan. Tuy nhiên việc nhấn mạnh yếu tố tri thức cũng không đồng nghĩa với việc phủ nhận và coi nhẹ vai trò của các nhân tố tình cảm ý chí.

Tự ý thức cũng là một yếu tố quan trọng của ý thức. Chủ nghĩa duy tâm coi tự ý thức là một thực thể độc lập, tự nó, có sẵn trong các cá nhân, biểu hiện quan hệ xã hội. Trái lại chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình thông qua quan hệ thế giới bên ngoài. Khi phản ánh thế giới khách quan, con người tự phân biệt mình, đối lập mình với thế giới đó và tự nhận thức minh như là một thực thể hoạt động, có cảm giác, có tư duy, có các hành vi đạo đức và có vị trí xã hội. Mặt khác sự giao tiếp xã hội và hoạt động thực tiễn xã hội đòi hỏi con người phải nhận rõ bản thân mình và tự điều chỉnh bản thân mình theo các qui tắc, các tiêu chuẩn mà xã hội đề ra. Ngoài ra văn hoá cũng đóng vai trò “Cái gương soi” giúp cho con người tự ý thức được bản thân.

Vô thức là một hiện tượng tõm lớ nhưng có liên quan đến những hoạt động xảy ra ở ngoài phạm vi của ý thức. Có hai loai vô thức: Loại thứ nhất liên quan đến hành vi chưa được con người ý thức; loai thứ hai liên quan đến các hành vi trước kia đã được ý thức nhưng do lặp lại nờn đó trở thành thói quen, có thể diễn ra “Tự động” bên ngoài sư chỉ đạo của ý thức. Vô thức ảnh hưởng đến nhiều phạm vi hoạt động của con người. Trong những hoàn cảnh nào đó nó có thể giúp con người bớt sự căng thẳng trong hoạt động. Việc tăng cương rèn luyện để biến những hành vi tích cực thành thói quen và có vai trò rất quan trong đời sống của con người. Trong con người ý thức vẫn là cái chủ đạo cái quyết định trong hành vi cá nhân.

Xem thêm: Nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập

b. Các đặc tính của vật chất.

*Nguồn gốc tự nhiên:

Ý thức ra đời là kết quả của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên cho tới khi xuất hiện con người và bộ óc con người. Khoa học đã chứng minh rằng thế giới vất chất nói chung và trái đất nói riêng đã từng tồn tại rất lâu trước khi xuất hiện con người, rằng hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lí thần kinh của của bộ não con người. Không thể tách rời ý thức ra khỏi bộ não và ý thức là chức năng của bộ não, bộ não là khí quan của ý thức. Sự phụ thuộc của ý thức vào sự hoạt động của bộ não thể hiện ở chỗ khi bộ não bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ bị rối loạn. Tuy nhiên, không thể qui một cách đơn giản ý thức về các quá trình sinh lí bởi vì óc chỉ là cơ quan phản ánh. Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người. Sự xuất hiện của ý thức gắn liền với sự phát triển đặc tính của phản ánh, đặc tính này phát triển cùng với sự phát triển của thế giới tự nhiên. Sự xuất hiện của con người và xã hội loài người đưa lại hình thức của sự phản ánh, đó là sự phản ánh ý thức.

Sự phản ánh ý thức luôn gắn liền với việc làm cho tự nhiên thích nghi với nhu cầu phát triển của xã hội.

*Nguồn gốc xã hội:

Sự ra đời của ý thức gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của bộ óc con người dưới ảnh hưởng của lao động, của giao tiếp và các quan hệ xã hội.

Lao động của con người là nguồn gốc vật chất có tính chất xã hội nhằm cải tạo tự nhiên, thoả mãn nhu cầu và phục vụ mục đích của bản thân con người. Chính nhờ lao động, con người và xã hội mới hình thành và phát triển. Lao động là phương thức tồn tại đầu tiên của con người, lao động đồng thời ngay từ đầu đã liên kết những con người với nhau trong những quan hệ khách quan, tất yếu, mối quan hệ này đến lượt nó lại làm nảy sinh nhu cầu trao đổi kinh nghiệm và tổ chức lao động, nhu cầu ” Cần phải có với nhau một cái gì”. Và kết quả là ngôn ngữ ra đời. Ngôn ngữ được coi là cái vỏ vật chất của tư duy. Với sự xuất hiện ngôn ngữ, tư tưởng của con người có khả năng biểu hiện thành hiện thực trực tiếp, trở thành tính hiệu vật chất tác động đến giác quan con người và gây ra cảm giác. Nhờ có ngôn ngữ con người có thể giao tiếp, trao đổi tư tưởng, tình cảm lẫn nhau truyền đạt kinh nghiệm cho nhau. Thông qua đó mà ý thức cá nhân trở thành ý thức xã hội và ngược lai, ý thức xã hội thâm nhập vào ý thức cá nhân. Ngôn ngữ đã trở thành một phương tiện vật chất không thể thiếu được của sự trừu tượng hoá, tức là quá trình hình thành, thực hiện ý thức và chính nhờ trừu tượng hoá và khái quát hoá mà con người có thể đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng, đồng thời tổng kết được hoạt động của mình trong toàn bộ quá trình phát triển lịch sử.

c. Bản chất của ý thức

Xem thêm: Quy luật giá trị là gì? Nội dung và tác động của quy luật giá trị?

Từ việc xem xét nguồn gốc của ý thức, có thể thấy rõ ý thức có bản tính phản ánh, sáng tạo và bản tính xã hội.

Bản tính phản ánh thể hiện thông tin về thế giới bên ngoài là biểu thị nội dung nhân được từ vật gây ra tác động và được truyền đi trong quá trình phản ánh. Bản tính của phản ánh qui định mặt khách quan của ý thức, tức là ý thức phải lấy cái khách quan làm tiền đề, bị cái khách quan qui định và có nội dung phản ánh là thế giới khách quan.

Ý thức ngay từ đầu đã gắn liền lao động, với hoạt động sáng tạo cải biến và thống trị tự nhiên của con người và đã trở thành mặt không thể thiếu được của hoạt động đú. Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ở chỗ nó khụng chụp lại một cách thụ động, nguyên xi sự vật mà phản ánh gắn liền với cải biến, quá trình thu thập thông tin gắn liền với xử lí thông tin. Tính sáng tạo của ý thức còn thể hiện ở khả năng gián tiếp khái quát thế giới khách quan, ở quá trình chủ động tác động vào thế giới để phản ánh thế giới đó.

Phản ánh và sáng tạo liên quan chặt chẽ với nhau không thể tách rời. Không cú phản ánh thì không có sáng tạo vì phản ánh là điểm xuất phát là cơ sở sáng tạo. Ngược lại không có sự sáng tạo thì không phải là phản ánh ý thức. Đó là mối quan hệ biện chứng giữa hai quá trình thu nhập và xử lí thông tin, là sự thống nhất giữa mặt khách quan và chủ quan trong ý thức.

Ý thức chỉ được nảy sinh trong lao động, trong hoạt động cải tạo thế giới của con người. Hoạt động đó không phải là hoạt động đơn lẻ mà là hoạt động xã hội. Do ý thức ngay từ đầu đã là sản phẩm của xã hội. Ý thức trước hết là tri thức của con người về xã hội và hoàn cảnh, về những gì đang diễn ra ở thế giới khách quan, về mối liên hệ giữa người và người trong xã hội. Do đó ý thức xã hội hình thành và bị chi phối bởi tồn tại xã hội cùng các quy luật tồn tại của xã hội đú…Và ý thức của mỗi cá nhân mang trong lòng của ý thức xã hội. Bản thống nhất nó thể hiện ở tính năng động chủ quan của ý thức, ở mối quan hệ giữa nhân tố vật chất và nhân tố ý thức trong hoạt động cải tao thế giới của con người.

3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:

Lênin đã chỉ ra rằng, sự đối lập giữa vật chất và ý thức có nghĩa tuyệt đối trong phạm vi hết sức hạn chế: Trong trường hợp này, chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì có trước và cái gì có sau. Ngoài giới hạn đó thì không còn nghi ngờ gì nữa sự đối lập đó chỉ là tương đối. Như vậy, để phân ranh giới chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, để xác định bản tính và thống nhất của thế giới, cần có sự đối lập tuyệt đối giữa vật chất và ý thức trong khi trả lời câu hỏi cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào. Không như vậy sẽ lẫn lộn hai đường lối cơ bản trong triết học, lẫn lộn vật chất với ý thức và cuối cùng sẽ xa dời quan điểm duy vật. Song sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ là tương đối nếu như chúng là những nguyên tố, những mặt không thể thiếu được trong hoạt động của con người, đặc biệt là hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới của con người. Bởi vì, ý thức tự nó không thể cải biến được sự vật, không có khả năng tự biến thành hiện thực.

Nhưng thông qua hoạt động thực tiễn của con người, ý thức có thể cải biết được tự nhiên, thâm nhập vào sự vật, hiện thực hoá những mục đích mà nó đề ra cho hoạt động của mình. Điều này bắt nguồn từ chính ngay bản tính phản ánh sáng tạo và xã hội của ý thức và chính nhờ bản tính đó mà chỉ có con người có ý thức mới có khả năng cải biến và thống trị tự nhiên, biến tự nhiên xa lạ, hoang dã, thanh tự nhiên trù phú, sinh động, tự nhiên của con người.

Như vậy, tính tương đối trong sự đối lập giữa vật chất và ý thức thể hiện ở tính độc lập tương đối, tính năng động của ý thức. Mặt khác, đời sống con người là sự thống nhất không thể tách rời giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần trong đó những nhu cầu tinh thần ngày càng phong phú và đa dạng và những nhu cầu vật chất cũng bị tinh thần hoá. Khẳng định tính tương đối của sự đối lập giữa vật chất và ý thức không có ý nghĩa là khẳng định rằng cả hai nhân tố có vai trò như nhau trong đời sống và hoạt động của con người. Trái lại, triết học Mác-Lênin khẳng định rằng, trong hoạt động của con người, những nhân tố vật chất và ý thức có tác động qua lại, song sự tác động đó diễn ra trên cơ sở tính thứ nhất của nhân tố vật chất so với tính thứ hai của nhân tố ý thức.

Xem thêm: Những vấn đề lý luận của Quy luật chuyển hóa Lượng – Chất

Trong hoạt động của con người, những nhu cầu vật chất xét đến cùng bao giờ cũng giữ vai trò quyết định, chi phối và qui định hoạt động của con người vì nhân tố vật chất qui định khả năng các nhân tố tinh thần có thể tham gia vào hoạt động của con người, tạo điều kiện cho nhân tố tinh thần hoặc nhân tố tinh thần khác biến thành hiện thực và qua đó qui định mục đích chủ trương biện pháp mà con người đề ra cho hoạt động của mình bằng cách chọn lọc, sửa chữa bổ sung, cụ thể hoá mục đích, chủ trương, biện pháp đó. Hoạt động nhận thức của con người bao giờ cũng hướng đến mục tiêu để biến tự nhiên nhằm thoả mãn nhu cầu cuộc sống, hơn nữa, cuộc sống tinh thần của con người xét đến cùng bị chi phối và phụ thuộc vào việc thoả mãn nhu cầu vật chất và vào những điều kiện vật chất hiện có.

Khẳng định vai trò cơ sở, quyết định trực tiếp của nhân tố vật chất, triết học Mác- Lênin đồng thời cũng không coi nhẹ vai trò của nhân tố tinh thần, của tính năng động chủ quan. Nhân tố ý thức có tác dụng trở lại quan trọng đối với nhân tố vật chất. Hơn nữa, trong hoạt động của mình con người không thể để cho thế giới khách quan, quy luật khách quan chi phối mà chủ động hướng nó đi theo con đường có lợi của mình. Ý thức con người không thể tạo ra các đối tượng vật chất, cũng không thể thay đổi qui luật vận động của nó. D đó, trong quá trình hoạt động của mình, con người phải tuân theo qui luật khách quan và chỉ có thể đề ra những mục đích, chủ trương trong phạm vi hoàn cảnh vật chất cho phép.

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là gì?

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thứclà quan hệ hai chiều, qua lại và tác động lẫn nhau, trong đó vật chấtquyết định ý thức, song ý thức thì không hoàn toàn thụ động mà tác động trở lại thực tiễn thông qua những hoạt động nhận thức của con người. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức chính là mối quan hệ biện chứng.

Vật chất là gì?

Vật chất là một khái niệm thuộc phạm trùtriết họcdùng để chỉ những thực tại khách quan mà con người có thể thấy được, cảm nhận, sờ thấy. Đó là những hiện hữu trong cuộc sống xung quanh chúng ta, có thể chụp lại, phản ánh, nó cho ta cảm giác.

Vật chất có hai nội dung chính như sau:

  • Là phạm trù thuộc triết học thể hiện thực tại khách quan và con người nhận thức được qua cảm giác.
  • Đó là cảm giác phản ánh, là sự chụp lại không phụ thuộc cảm giác, là cái mà con người hoàn toàn nhận thức được.

Ý thức là gì?

Ý thức được biết đến là sự phản ánh thế giới khách quan lên trí óc của con người với việc lấy các hoạt động thực tiễn làm cơ sở. Ý thức cũng là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức chính là cảm nhận và suy nghĩ, tư duy của bộ óc con người sau khi nhìn thấy thực tiễn hay sự vật hiện tượng nào đó. Có người ý thức đúng hoặc sai, trừu tượng hoặc chân thực, đó là vấn đề cảm quan của từng người.

Ý thức có những nội dung chính như sau:

  • Sự phản ánh thực tại khách quan trên cơ sở hoạt động thực tiễn chính là bản chất của ý thức. Như vậy thì ý thức không phải là huyền bí.
  • Ý thức cho thấy hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Như vậy, bản thân sự vật đi vào trí óc của con người và được cải biên trong đó. Chính bởi thế mà nội dung phản ánh mang tính khách quan và mức độ cải biên như nào sẽ phụ thuộc vào chủ thể.
  • Ý thức là sự phản ánh tích cực, chủ động, sáng tạo. Bên cạnh đó, ý thức cũng mang kết cấu phức tạp với nhiều thành tố