Ví dụ về các phương pháp nghiên cứu tâm lý

1. Khái niệm nghiên cứu khoa học

Nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học với mục đích tìm tòi khám phá bản chất và các quy luật vận động của thế giới, tạo ra thông tin mới, nhằm ứng dụng vào sản xuất hay tạo ra những giá trị tinh thần để thỏa mãn nhu cầu của con người. Theo Vũ Cao Đàm (2007) “ nghiên cứu khoa học là sự phát hiện bản chất sự vật, phát triển nhận thức khoa học về thế giới; hoặc là sáng tạo phương pháp mới và phương tiện kỹ thuật mới để làm biến đổi sự vật phục vụ cho mục tiêu hoạt động của con người ”. Có nhiều quan niệm khác nhau về nghiên cứu khoa học, nhưng hầu hết các định nghĩa nhấn mạnh vào sản phẩm nghiên cứu khoa học là những phát hiện mới hoặc sáng tạo mới của những sự vật, hiện tượng mà khoa học chưa biết, có giá trị cho nhiệm vụ, công việc của con người. Tính mới là thuộc tính quan trọng số một của nghiên cứu khoa học. Ngoài ra, nghiên cứu khoa học còn bao gồm các đặc điểm cơ bản: kết quả nghiên cứu luôn luôn đòi hỏi phải có độ tin cậy cao, có tính thông tin, phải đảm bảo tính khách quan, tính kế thừa của mỗi vấn đề khoa học.

Để thực hiện mục đích, nghiên cứu khoa học phải sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học, các công cụ đặc biệt đo lường, kiểm định sản phẩm của nghiên cứu và các chi phí vật tư, thiết bị kỹ thuật, giá trị công sức... Phương pháp nghiên cứu khoa học là sự tổng hợp các cách thức và các quan điểm nhận thức quy luật tự nhiên và xã hội. Phương pháp nghiên cứu khoa học có ba đặc trưng quan trọng:

- Phương pháp nghiên cứu luôn gắn liền với tư tưởng cơ bản, có tính nguyên tắc, định hướng chỉ đạo hoạt động nghiên cứu, đó chính là các quan điểm tiếp cận đối tượng, là thế giới quan của người nghiên cứu.

- Phương pháp nghiên cứu là hệ thống các phương thức hoạt động nghiên cứu bao gồm các hành động, thao tác có tính kỹ thuật. Đó là các phương pháp cụ thể.

- Phương pháp nghiên cứu là hệ thống các quy trình hoạt động nghiên cứu, là trình tự các bước đi, bao gồm lôgic tiến trình và lôgic của hoạt động nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu có tính quy trình.

Như vậy, phương pháp nghiên cứu khoa học có liên quan đến ba vấn đề quan trọng là phương pháp luận nghiên cứu khoa học, phương pháp nghiên cứu cụ thể và lôgic tiến hành các công trình nghiên cứu khoa học.

Phương pháp nghiên cứu khoa học luôn cần có các công cụ hỗ trợ, cần có các phương tiện kỹ thuật hiện đại với độ chính xác cao. Các phương tiện kỹ thuật trong nghiên cứu tâm lý học như máy đo phản ứng của các giác quan, của hành động con người với sự tác động của kích thích, máy ghi âm, quay phim, chụp ảnh...Phương tiện và phương pháp là hai phạm trù khác nhau nhưng chúng gắn bó chặt chẽ với nhau, căn cứ vào đối tượng nghiên cứu mà ta chọn phương pháp nghiên cứu, theo yêu cầu của phương pháp nghiên cứu mà ta chọn phương tiện nghiên cứu phù hợp. Chính các phương tiện kỹ thuật hiện đại đảm bảo cho quá trình nghiên cứu đạt tới độ chính xác cao.

Phương pháp nghiên cứu khoa học là một hệ thống phong phú. Tùy theo mục đích sử dụng, người ta phân loại phương pháp như sau:

- Dựa vào phạm vi sử dụng người ta chia phương pháp thành: những phương pháp chung nhất dùng cho các lĩnh vực khoa học, những phương pháp chung dùng cho một số ngành và những phương pháp đặc thù dùng cho một lĩnh vực cụ thể.

- Dựa theo lý thuyết thông tin về quy trình nghiên cứu một đề tài khoa học, người ta chia phương pháp thành 3 nhóm: nhóm phương pháp thu thập thông tin, nhóm phương pháp xử lý thông tin và nhóm phương pháp trình bày thông tin.

- Dựa theo tính chất và trình độ nghiên cứu người ta chia phương pháp thành: nhóm phương pháp mô tả, nhóm phương pháp giải thích và nhóm phương pháp phát hiện.

- Dựa theo trình độ nhận thức chung của loài người người ta chia phương pháp thành hai nhóm: nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn và nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết.

- Dựa vào việc sử dụng toán học trong nghiên cứu khoa học, người ta có thêm một nhóm phương pháp mới: nhóm phương pháp toán học. Trong nghiên cứu khoa học, tùy theo mục đích, đặc điểm của đề tài khoa học, đặc điểm chuyên ngành người ta sử dụng phối hợp nhiều phương pháp để hỗ trợ và kiểm tra lẫn nhau nhằm khẳng định kết quả nghiên cứu.

Nghiên cứu khoa học đòi hỏi các nhà khoa học phải có quan điểm tiếp cận đối tượng, có một chiến lược nghiên cứu đúng đắn và nắm vững kỹ năng nghiên cứu. Kỹ năng nghiên cứu khoa học là khả năng thực hiện thành công các công trình khoa học trên cơ sở nắm vững các quan điểm phương pháp luận, sử dụng thành thạo phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu. Kỹ năng nghiên cứu khoa học có thể phân loại thành ba nhóm: nhóm kỹ năng nắm vững lý luận khoa học và phương pháp luận nghiên cứu, nhóm kỹ năng sử dụng thành thạo các phương pháp nghiên cứu cụ thể trong phạm vi chuyên môn, nhóm kỹ năng sử dụng kỹ thuật nghiên cứu như sử dụng phương tiện, công cụ kỹ thuật để thu thập, xử lý, trình bày thông tin khoa học. Kỹ năng nghiên cứu là một hệ thống nhiều thành phần. Nắm vững kỹ năng nghiên cứu là điều kiện thiết yếu để nhà khoa học thực hiện thành công các công trình nghiên cứu khoa học.

2. Khái niệm nghiên cứu tâm lý học

Tâm lý học là bộ môn khoa học nghiên cứu bản chất, quy luật về sự hình thành và phát triển tâm lý của con người. Nghiên cứu tâm lý học mang tính khoa học bởi nó sử dụng các nguyên lý, phương pháp, kỹ năng nghiên cứu khoa học để quan sát, đo lường và thực nghiệm. Nghiên cứu tâm lý học khác với việc nghiên cứu trong các lĩnh vực khoa học khác như vật lý hay hoá học. Trong các lĩnh vực khoa học này, các nhà nghiên cứu cố gắng xem xét mối quan hệ nhân quả của một biến (ví dụ, khối vật thể ) với một biến khác ( như là gia tốc của vật thể đó) trong tình huống mà biến được xem xét (ở đây là gia tốc của vật) có thể là kết quả của sự tác động của biến nguyên nhân ( khối vật thể ).

Tình huống nghiên cứu này trong tâm lý học phức tạp hơn nhiều. Biến được nghiên cứu là tâm lý biểu hiện ra hành vi, trong hoạt động của con người. Hành vi của con người rõ ràng là khó đoán trước hơn vì bản chất của nó linh hoạt hơn và hay thay đổi hơn, ví dụ như một miếng ngói vỡ rơi từ mái nhà xuống sẽ luôn hướng về mặt đất; một người đang là mục tiêu của những trò đùa lại có thể phản ứng theo một loạt cách khác nhau (cười, đùa, tức giận...). Bản chất và tính chất phức tạp của hiện tượng đòi hỏi các nhà nghiên cứu khoa học lý thuyết và ứng dụng phải đưa ra những công cụ đo lường khác nhau. Các nhà tâm lý học không sử dụng kính hiển vi hoặc tia lasers để nghiên cứu mà dùng tất cả các kỹ thuật khác nhau phù hợp và thích ứng với nghiên cứu tâm lý con người. Nghiên cứu trong tâm lý học tập trung vào bốn nhóm vấn đề sau: 1) Các kích thích gây ra các phản ứng tâm lý, hành vi, quá trình nảy sinh, diễn biến chúng. 2) Cấu trúc hành vi, hoạt động, các kỹ năng, kỹ xảo gắn với một số hành động có thể dự đoán theo trình tự với một số hành động khác. 3) Các cơ chế và mối quan hệ của các hiện tượng tâm lý và sinh lý. 4) Hậu quả của hành vi, các ứng xử của con người đối với môi trường. Những lợi ích do việc hiểu biết phương pháp luận nghiên cứu tâm lý học không chỉ cho phép cải thiện suy luận về mặt phương pháp luận và thống kê mà còn cho phép người nghiên cứu ứng dụng một suy luận nào đó vào cuộc sống hàng ngày.

Phương pháp nghiên cứu tâm lý học là phương pháp nghiên cứu phát hiện bản chất,các qui luật hình thành, phát triển và cơ chế của các hiện tượng tâm lý, hành vi con người. Các hiện tượng tâm lý rất phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức và phức tạp về cấu trúc nên chúng đặt ra những thử thách to lớn trước các nhà nghiên cứu muốn đo lường chúng. Thử thách đầu tiên là tiếp cận hiện tượng tâm lý muốn tìm hiểu. Thử thách thứ hai là tìm ra đúng cách đo nhằm đánh giá bản chất của hiện tượng tâm lý đó. Trong tài liệu tâm lý học thường phân chia phương pháp nghiên cứu thành phương pháp phi thực nghiệm ( phương pháp mô tả), phương pháp thực nghiệm và phương pháp chẩn đoán tâm lý là phổ biến. Phương pháp phi thực nghiệm bao gồm các phương pháp: quan sát, điều tra bằng bảng hỏi, phỏng vấn, nghiên cứu tài liệu ( phân tích tư liệu, sản phẩm, tiểu sử...). Phương pháp thực nghiệm dựa trên việc tạo lập có định hướng các điều kiện đảm bảo cho sự phân chia yếu tố được nghiên cứu (biến số) và sự ghi chép những thay đổi gắn liền với tác động của yếu tố đó, cũng như cho phép nhà nghiên cứu có khả năng chủ động can thiệp vào hoạt động của người tham gia nghiên cứu. Phương pháp chẩn đoán tâm lý nhằm phát hiện những điểm khác biệt của cá nhân cụ thể đối với một hay một số chuẩn nào đó. Nghiên cứu tâm lý học từ sự xác định chọn mẫu đến xử lý thông tin nghiên cứu còn có sự tham gia của thống kê toán học đã làm tăng tính khách quan của các kết quả nghiên cứu và nhờ đó các kết luận có tính thuyết phục cao.

Chúng ta có thể khái quát những điều đã trình bày dưới dạng thang thứ bậc về các phương pháp nghiên cứu tâm lý học. Từ hình 1 cho thấy trên đỉnh là các nguyên tắc nghiên cứu tâm lý học. Phía dưới là các phương pháp tiếp cận nghiên cứu: phi thực nghiệm, thực nghiệm và chẩn đoán tâm lý. Ở phía dưới nữa là các phương pháp luận tương ứng với mỗi phương pháp. Ở phần thấp nhất của hình vẽ là các phương pháp cụ thể được hình thành trong phạm vi các phương pháp tiếp cận. Chẩn đoán tâm lý có các phương pháp đo lường định lượng bằng trắc nghiệm và các phương pháp nghiên cứu định tính các đặc điểm tâm lý.

Hình 1: Thang thứ bậc về hệ thống các phương pháp nghiên cứu trong tâm lý học

( Nguồn: Burlatruv, L.Ph. Psychodiagnostics, Piter Print, San-Peterburg 2005 )

3. Phương pháp luận nghiên cứu tâm lý học

Trong một cuộc nghiên cứu thì quan trọng hàng đầu là xác định phương pháp luận nghiên cứu vì phương pháp luận chỉ ra bản chất vấn đề nghiên cứu, quá trình và quan hệ của đối tượng nghiên cứu. Trong nghiên cứu khoa học không có đề tài nào lại không liên quan đến vấn đề phương pháp luận. Việc nắm vững phương pháp luận nghiên cứu khoa học là nắm vững lý luận về con đường sáng tạo. Điều này là cần thiết và có ích cho các nhà tâm lý học.

3.1. Khái niệm phương pháp luận nghiên cứu tâm lý học

Phương pháp luận nghiên cứu khoa học là lý luận về phương pháp nghiên cứu khoa học, lý thuyết về con đường nhận thức và khám phá thế giới. Về nội dung phương pháp luận như một hệ thống của các lý thuyết, các nguyên tắc, quy tắc được thay đổi tùy thuộc vào đặc tính cụ thể của khoa học sử dụng phương pháp luận đó. Đối với tâm lý học, phương pháp luận là lý luận về phương pháp nghiên cứu, là cách thức mà theo đó nhà tâm lý học xem xét, lý giải đối tượng nghiên cứu của mình. Các phương pháp cụ thể cùng với phương pháp luận được xác định cho một nghiên cứu nhất định tạo nên phương pháp nghiên cứu của một cuộc nghiên cứu tâm lý học đó. Vì vậy, ta có thể hiểu phương pháp luận chủ yếu được nhắc đến trong phạm vi này cần phải trả lời được câu hỏi: để thu thập thông tin hợp lý, đúng đắn nhất trong một nghiên cứu tâm lý học, chúng ta cần xem xét vấn đề nghiên cứu từ góc độ nào? Theo cách nào? Cần dựa vào lý thuyết nào để giải thích vấn đề thực tế đó? Lý thuyết đó trong những điều kiện cụ thể cần phải được triển khai như thế nào cho phù hợp nhất ? Cách chuyển hóa nội dung, cách xây dựng các biến số, các chỉ báo...cần được tiến hành như thế nào? Trên cơ sở nào?...

Phương pháp luận nghiên cứu tâm lý học là kết quả của quá trình khái quát lý thuyết và thực tiễn nghiên cứu tâm lý học và nó trở thành công cụ sắc bén để chỉ dẫn nhà tâm lý học thực hành nghiên cứu khoa học. Khi nghiên cứu tâm lý học đòi hỏi phải tích lũy nhiều sự kiện phong phú, đa dạng để từ đó hệ thống hóa, khái quát hóa rút ra quy luật chung. Phân tích, giải thích các hiện tượng tâm lý bao giờ cũng phải tuân theo một quan điểm phương pháp luận nhất quán. Đối với nhà tâm lý học, nhu cầu hiểu biết về phương pháp luận là nhu cầu thường xuyên, nó đi trước một bước trước khi bắt tay vào các thao tác nghiên cứu cụ thể.

3.2. Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu tâm lý học

Giải thích về nguồn gốc của các hiện tượng tâm lý con người luôn là một trong những vấn đề quan trọng nhất của tư tưởng loài người. Các luận điểm cơ bản của triết học chỉ đạo cho tâm lý học những hướng chung để giải quyết những vấn đề cụ thể của mình. Tâm lý học hoạt động dựa vào chủ nghĩa duy vật biện chứng đã giải quyết vấn đề tâm lý là gì, tâm lý do đâu mà có và dựa vào chủ nghĩa duy vật lịch sử đã giải quyết được vấn đề bản chất xã hội của tâm lý.

Tâm lý học dựa trên cơ sở duy vật biện chứng coi tâm lý là sự phản ánh thế giới khách quan vào não thông qua chủ thể, tâm lý người có bản chất xã hội, lịch sử. Các cảm giác, tri giác, biểu tượng, ý thức, tình cảm là kết quả của hoạt động của não chuyển hóa năng lượng của kích thích bên ngoài. Hoạt động của chủ thể là phương thức hình thành, phát triển và thể hiện tâm lý, ý thức. Con người vừa là một thực thể tự nhiên vừa là một thực thể xã hội. Tâm lý con người có nguồn gốc khách quan (thế giới tự nhiên và xã hội), trong đó nguồn gốc xã hội là cái quyết định bản chất tâm lý người. Các hiện tượng tâm lý người luôn vận động và phát triển quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ xung cho nhau và có sự liên hệ với các hiện tượng khác. Phương pháp luận của tâm lý học đã chỉ rõ: Muốn giải thích đời sống tâm lý con người một cách khoa học và duy vật thì cần phải hiểu biết cơ sở tự nhiên (cơ sở vật chất, cơ sở sinh lý) và cơ sở xã hội của nó.

3.2.1. Tiền đề di truyền của sự phát triển tâm lý, ý thức, nhân cách

Khi sinh ra, cá nhân đã có sẵn những điều kiện bên trong (đặc điểm di truyền, tư chất) cần thiết cho sự phát triển. Cá nhân được kế thừa những đặc điểm di truyền ở những thế hệ trước về những cấu tạo, chức năng của cơ thể, đảm bảo năng lực đáp ứng những đòi hỏi của hoàn cảnh sống theo cơ chế đã định sẵn. Tư chất là những đặc điểm giải phẫu và chức năng tâm sinh lý của não, hệ thần kinh mà cá nhân có được ngay từ khi sinh ra, là tiền đề cho sự phát triển năng lực, nhân cách. Tất cả những điều kiện bên trong của sự phát triển tâm lý luôn gắn bó mật thiết với những tác động khác nhau vào cá nhân từ bên ngoài thế giới xung quanh (những kích thích, tín hiệu, con người, vật thể v.v...).

Quan điểm về mối quan hệ giữa điều kiện bên trong và điều kiện bên ngoài trong sự phát triển nhân cách được nhiều nhà tâm lý học thừa nhận là sự phát triển tâm lý, nhân cách trong toàn bộ các giai đoạn lứa tuổi được thể hiện trên nguyên tắc: các điều kiện bên ngoài tác động thông qua những tiền đề bẩm sinh - điều kiện bên trong. Hiệu quả của hiện tượng tâm lý phụ thuộc vào sự tác động qua lại lẫn nhau giữa hai điều kiện đó. Những tiền đề bẩm sinh ảnh hưởng tới sự phát triển tâm lý, nhân cách và bị chế ước bởi những điều kiện bên ngoài, vào lịch sử của cá nhân. ở đây, những điều kiện bên ngoài là yếu tố quan trọng trong sự phát triển tâm lý con người. Vai trò của yếu tố di truyền còn được đề cập tới trong nhiều nghiên cứu về nguồn gốc năng lực, những đặc điểm, quá trình tâm lý....Yếu tố di truyền tham gia vào sự tạo thành những đặc điểm giải phẫu và sinh lý của cơ thể, trong đó có những đặc điểm giải phẫu và sinh lý của hệ thần kinh - cơ sở vật chất của các hiện tượng tâm lý. Những đặc điểm này là những tiền đề của sự phát triển tâm lý cá nhân.

Từ những năm 50 các nhà Tâm lý học Xô Viết ( X.L.Rubinxtêin, A.N. Leonchiev, B.M. Cheplov...) đã tiến hành nghiên cứu về năng lực. Cỏc tỏc giả đó khẳng định: năng lực của cá nhân có mối liên hệ trực tiếp với tư chất và chỉ được hình thành trên cơ sở hoạt động tích cực của bản thân cá nhân trong sự tác động qua lại với điều kiện bên ngoài, trong đó dạy học và giáo dục chuyên môn có ý nghĩa cơ bản.

Năng lực của mỗi người không chỉ chịu qui định của hoạt động của nó mà còn phát triển và hình thành trong chính hoạt động đó ( hoạt động vui chơi, học tập, lao động...). Trong mỗi hoạt động mới, những thành tựu tâm lý của cá nhân đạt tới mức độ phát triển cao hơn. Những thành tựu đó không chỉ làm thay đổi chính hoạt động, phát triển những tiền đề bẩm sinh bên trong mà còn làm thay đổi chính nhân cách - phát triển tính cách và năng lực.

Như vậy, sự phát triển nhân cách luôn được thực hiện trong mối liên hệ phức tạp và phong phú giữa điều kiện bên trong cơ thể và môi trường xã hội. Trong đó, có ý nghĩa cơ bản là mối quan hệ giữa tư chất và hoạt động của cá nhân được diễn ra trong hoàn cảnh xã hội - lịch sử cụ thể. Tư chất giữ vai trò đáng kể trong sự phát triển năng lực và nhân cách nói chung, là điều kiện cần thiết song chưa phải là điều kiện đầy đủ cho sự phát triển năng lực của con người.

3.2.2. Mối quan hệ giữa tâm lý và sinh lý trong sự phát triển tâm lý, ý thức, nhân cách

Hiện tượng tâm lý và sinh lý đều tham gia vào hoạt động của con người. ở đây, cần phân biệt giữa bản năng của động vật và hoạt động của con người, giữa chúng có sự khác nhau cơ bản. Bản năng của động vật được kế thừa theo con đường di truyền có cơ sở sinh lý là các phản xạ không điều kiện nhằm để thích nghi với môi trường tự nhiên. Còn ở người các hoạt động do các hiện tượng tâm lý điều khiển được hình thành trên cơ sở của mối quan hệ giữa phản xạ không điều kiện và có điều kiện trong hoàn cảnh xã hội - lịch sử nhất định. Các hiện tượng tâm lý xuất hiện trên cơ sở hoạt động của não dưới tác động của môi trường bên ngoài. Như vậy phải có hoạt động sinh lý của não mới có hiện tượng tâm lý. Các hiện tượng tâm lý định hướng, điều khiển, điều chỉnh hoạt động thông qua hoạt động sinh lý của não và hệ thần kinh. Như vậy, hiện tượng sinh lý và tâm lý nằm trong một hệ thống nhất định, tác động qua lại lẫn nhau, phụ thuộc vào nhau trong hoạt động của con người.

Tất cả các hiện tượng tâm lý ở người điều khiển hoạt động theo hai hình thức sau: thứ nhất - là động cơ thúc đẩy hoạt động; thứ hai khả năng thực hiện hoạt động. Hình thức thứ nhất bao gồm xu hướng gắn liền với các đặc điểm tính cách và hình thức thứ hai bao gồm năng lực gắn liền với ý chớ. Tư chất là tiền đề cần thiết cho sự hình thành năng lực. Tư chất thông qua hoạt động tạo ra sự khác biệt về chất của năng lực, tạo thành tính đặc thù cá biệt ở mỗi người. Tư chất- đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành năng lực - một thuộc tính của nhân cách.

3.2.3. Đặc điểm xã hội - lịch sử của tâm lý người

Quan niệm tâm lý học duy vật biện chứng đã khẳng định tâm lý người có nguồn gốc là thế giới khách quan (thế giới tự nhiên và xã hội) thông qua “lăng kính chủ quan” của mỗi người, trong đó nguồn gốc xã hội là cái quyết định. Các quan hệ kinh tế, xã hội, quan hệ đạo đức pháp quyền, các mối quan hệ con người, nền văn hóa... là thế giới xã hội quyết định bản chất tâm lý người. Trong các mối quan hệ đó, con người tác động qua lại với thế giới tự nhiên và thế giới đồ vật do con người tạo ra. Cũng giống như con vật, mối quan hệ này ở người mang tính thích nghi với môi trường nhưng khác với bản năng của con vật hoạt động của con người còn cải tạo môi trường xung quanh và cải tạo chính bản thân mình- tạo ra phương tiện để tồn tại và các cấu tạo tâm lý mới. Để cải tạo con người phải có mối quan hệ với người khác và với xã hội. Thông qua hoạt động và giao tiếp, con người nắm lấy phương tiện, năng lực, kỹ năng của thế hệ trước, biến những cái đó thành của mình. Trong quá trình hoạt động và giao tiếp con người tạo ra cho bản thõn mỡnh các đặc điểm nhân cách.

Sự phát triển tâm lý ở mỗi người là khác nhau, phản ánh toàn bộ đặc điểm xã hội tác động vào nó. Tâm lý của mỗi người có những đặc điểm riêng là do mỗi người có điều kiện sống, điều kiện giáo dục, sự hoạt động tích cực của bản thân và những tiền đề bẩm sinh riêng. Môi trường xung quanh cá nhân luôn vận động, các tiền đề bẩm sinh cũng thay đổi dưới sự tác động của môi trường. Do đó, tâm lý cá nhân phát triển, biến đổi và chịu sự chế ước của lịch sử cá nhân và môi trường xã hội. Tâm lý người là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp, là kết quả của quá trình tiếp thu vốn kinh nghiệm xã hội. Con người là một thực thể tự nhiên và là một thực thể xã hội. Phần tự nhiên ở con người (đặc điểm cơ thể, giác quan, hệ thần kinh và não) được xã hội hóa ở mức cao nhất. Là một thực thể xã hội, con người là chủ thể của nhân cách, chủ thể của hoạt động, giao tiếp với tư cách là một chủ thể hoạt động tích cực chủ động sáng tạo, tâm lý con người là sản phẩm của chủ thể xã hội. Vì thế, tâm lý người mang đầy đủ dấu ấn xã hội lịch sử của con người.

3.2.4. Mối quan hệ giữa cơ sở tự nhiên và cơ sở xã hội trong sự phát triển tâm lý người

Mối quan hệ giữa hai yếu tố này là một trong những vấn đề phức tạp luôn được quan tâm nghiên cứu trong tâm lý học. Theo quan điểm tâm lý học hoạt động thì cơ sở tự nhiên của con người là sản phẩm lịch sử có nghĩa là trong quá trình hoạt động tập thể, xã hội đã làm thay đổi và phát triển các yếu tố tự nhiên của cơ thể. Cách tiếp cận này thống nhất với quan điểm của C.Mác: con người làm thay đổi thế giới tự nhiên bên ngoài, cùng lúc đó làm thay đổi cả cái tự nhiên của bản thân. Nghiên cứu mối quan hệ giữa cái tự nhiên và cái xã hội nhằm để lý giải một vấn đề quan trọng là tính kế thừa, tính liên tục trong toàn bộ sự phát triển tâm lý.

Tính liên tục, tính kế thừa biểu hiện trong mối quan hệ giữa tâm lý và sinh lý. Các đặc điểm giải phẫu sinh lý được di truyền, kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong từng giai đoạn lứa tuổi các hiện tượng tâm lý hình thành và phát triển từ các hiện tượng tâm lý đã có giai đoạn trước đó. Những hiện tượng tâm lý mới xuất hiện không phải trên chỗ trống, mà trên cơ sở kế thừa liên tục từ những hiện tượng tâm lý của giai đoạn phát triển trước đó cựng với các tiền đề di truyền và các mối quan hệ bên trong con người.

Tâm lý là sự phản ánh đặc biệt về thế giới khách quan. Nó phản ánh những quá trình vận động của hiện tượng, sự kiện và sự thay đổi của chúng. Chính vì vậy, tâm lý con người luôn phát triển, biến đổi cùng với lịch sử cá nhân, xã hội, không mang tính di truyền, mặc dù nó xuất hiện và tồn tại trên cơ sở tiền đề di truyền. Sự phát triển, biến đổi của tâm lý con người thể hiện ở các phương diện: quá trình tiến hóa sinh vật; lịch sử loài người; lịch sử phát triển cá nhân.

3.3. Các nguyên tắc phương pháp luận nghiên cứu tâm lý học

Việc xây dựng phương pháp nghiên cứu không chỉ phụ thuộc vào đặc điểm của đối tượng, vào mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu mà còn phụ thuộc vào quan điểm phương pháp luận khoa học. Dựa trên những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tâm lý học đã định ra những nguyên tắc phương pháp luận riêng của mình. Các nguyên tắc phương pháp luận là các điều cơ bản nhất thiết phải tuân theo trong xem xét, đánh giá, nghiên cứu, lý giải các hiện tượng tâm lý người.

Các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của tâm lý học bao gồm:

3.3.1. Nguyên tắc quyết định luận duy vật các hiện tượng tâm lý

Tâm lý học đã đưa ra nguyên tắc phương pháp luận cho việc lý giải nguyên nhân quyết định nảy sinh các hiện tượng tâm lý. Đó là nguyên tắc quyết định luận duy vật các hiện tượng tâm lý.

Nội dung của nguyên tắc này nêu rõ: mọi hiện tượng tâm lý người đều phụ thuộc một cách tất yếu và có tính quy luật vào những nhân tố xác định, đó là các tác động từ bên ngoài; các điều kiện xã hội - lịch sử cụ thể. Các tác động từ bên ngoài tác động vào con người đóng vai trò quyết định thông qua các điều kiện bên trong.

Nguyên tắc này khẳng định:

- Nguyên nhân quyết định của các hiện tượng tâm lý người là từ các tác động bên ngoài - các điều kiện xã hội - lịch sử cụ thể.

- Con đường tác động: các nhõn tố bên ngoài tác động vào con người thông qua các điều kiện bên trong.

tác động bên ngoài đó từ thế giới khách quan bên ngoài con người, bao gồm tất cả những điều kiện, đặc điểm của hoàn cảnh xã hội - lịch sử cụ thể; đặc điểm của nền kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của cả loài người và của riêng mỗi nước, mỗi khu vực; đặc điểm môi trường xã hội với tất cả các mối quan hệ xã hội mà cá nhân tham gia vào đó; các điều kiện sống và làm việc của cá nhân và gia đình v.v... Các tác động từ bên ngoài cũng còn là chính các trạng thái, các quá trình sinh vật xảy ra trong cơ thể con người ở thời điểm cụ thể. ( Chẳng hạn, trạng thái sinh lý thuận lợi, khỏe mạnh hay ốm yếu của cơ thể con người ở vào một thời điểm cụ thể nào đó).

Các điều kiện bên trong (còn gọi là nhân tố bên trong) chính là những cái quy định đặc điểm tâm, sinh lý cá thể, bao gồm các đặc điểm sinh vật của cá thể (chiều cao, cân nặng, sức mạnh của cơ bắp, độ tinh của mắt, độ thính của tai v.v...); các đặc điểm hoạt động thần kinh cấp cao với các quy luật của nó (đặc trưng của các quá trình hưng phấn, ức chế, các quy luật hoạt động thần kinh...); các đặc điểm tâm lý của nhân cách biểu hiện ở trình độ hiểu biết, vốn sống, kinh nghiệm, nhu cầu, các đặc điểm về xu hướng, tính cách, khí chất, năng lực hoạt động v.v...

Các điều kiện bên ngoài ( nhân tố bên ngoài) là nguyên nhân quyết định việc nảy sinh các diễn biến tâm lý khác nhau của con người, nhưng chỳng muốn phát huy tác dụng phải thông qua các điều kiện bên trong của chủ thể.

Nhấn mạnh tính quyết định xã hội - lịch sử trong việc nảy sinh tâm lý người, nhưng tâm lý học hoạt động không phủ nhận vai trò của cái sinh vật trong việc nảy sinh hình thành cái tâm lý. Trong hoạt động tâm lý người, cái sinh vật, yếu tố sinh vật là tiền đề vật chất tự nhiên đầu tiên có khả năng thuận lợi hay không thuận lợi cho sự nảy sinh, hình thành và phát triển của cái tâm lý nhưng không quyết định nội dung của cái tâm lý.

Nguyên tắc quyết định luật duy vật các hiện tượng tâm lý người đòi hỏi phải thực hiện một cách nhất quán và cần được cụ thể hoá trong thực tiễn nghiên cứu:

- Khi nghiên cứu, tìm hiểu đánh giá các hiện tượng tâm lý người phải nhìn thấy những yếu tố mang tính quyết định từ trong điều kiện xã hội - lịch sử cụ thể, tức là từ các đặc điểm, môi trường hoàn cảnh xã hội cụ thể với các quan hệ xã hội mà các con người cụ thể tham gia trong đó.

- Nghiên cứu các diễn biến khác nhau của đời sống tâm lý người, cần phải xem xét mối liên hệ giữa những nhân tố sinh vật của cơ thể, các đặc điểm hoạt động thần kinh cấp cao với các quá trình, trạng thái, thuộc tính tâm lý của nhân cách. Sự kết hợp tất cả các phương diện đó mới cho phép đưa ra một cách khách quan kết quả nghiên cứu.

- Những dữ liệu và những kết luận được rút ra từ những dữ liệu phải hoàn toàn xuất phát từ hiện thực khách quan, không mang tính chủ quan, đặc biệt không mang tình cảm hoặc mong muốn cá nhân vào trong quá trình thực hiện nghiên cứu khoa học.

- Nghiên cứu cách tác động vào hoàn cảnh sống, biến đổi, cải tạo môi trường xã hội và hoạt động của con người là con đường cơ bản nhằm hình thành, biến đổi, cải tạo tâm lý, xây dựng nhân cách con người phù hợp với những đòi hỏi của điều kiện xã hội - lịch sử cụ thể.

3.3.2. Nguyên tắc thống nhất giữa tâm lý, ý thức và hoạt động

Dựa trên luận điểm của chủ nghĩa Mác: con người là sản phẩm hoạt động của chính mình tâm lý học chỉ rõ: tâm lý con người được biểu hiện trong hoạt động và là thành phần tất yếu của hoạt động, đóng vai trò định hướng và điều khiển hoạt động; đồng thời thông qua hoạt động, tâm lý, ý thức con người được nảy sinh, hình thành và phát triển. Tâm lý, ý thức và hoạt động của con người là thống nhất trong mối quan hệ biện chứng.

Nghiên cứu lao động- một dạng hoạt động cơ bản thực tiễn của con người, chúng ta nhìn thấy rõ thái độ, tình cảm, suy nghĩ của chính con người. Tâm lý con người được thể hiện trong tính cần cù, óc sáng tạo, sự nỗ lực trong công việc...Hoạt động lao động của con người không thể có nếu thiếu nhu cầu, dự định, động cơ. Bất cứ hoạt động nào đều xuất phát từ những động cơ nhất định và nhằm đạt được mục đích nhất định. Động cơ là thành phần chủ đạo trong cấu trúc tâm lý của hoạt động đóng vai trò định hướng điều khiển hoạt động của con người.

Tâm lý, ý thức con người được nảy sinh, hình thành và phát triển trong hoạt động. Trong quá trình hoạt động, con người tác động vào đối tượng, đem tinh lực của con người hóa vào sản phẩm lao động do con người làm ra và đồng thời có sự tác động trở lại từ đối tượng tới con người, làm xuất ở con người những nhận thức, cảm xúc, tình cảm mới, ý chí quyết tâm mới. Các phẩm chất tâm lý mới được nảy sinh hình thành chính trong hoạt động của con người. Như thế, tâm lý, ý thức và hoạt động của con người có sự gắn bó hữu cơ với nhau, thống nhất biện chứng không thể chia cắt. Tâm lý con người được thể hiện trong hoạt động và hoạt động của con người chính là cơ sở để hình thành tâm lý con người.

Khi nghiên cứu tâm lý con người cần đứng trên quan điểm là tâm lý, ý thức và hoạt động là sự thống nhất trong cả quá trình trong những hoàn cảnh nhất định. Cũng có các hiện tượng tâm lý bị giữ lại phần lớn ở bên trong, phần biểu hiện ra bên ngoài lại rất yếu ớt và khó quan sát thấy xem xét trong cả quá trình về cơ bản nó vẫn được bộc lộ ra bên ngoài, thống nhất với hành vi, hoạt động cụ thể của con người. Hành vi của người có sự biến đổi, có cấu trúc phức tạp, chẳng hạn trong những điều kiện, hoàn cảnh giống nhau, mỗi người lại hành động khác nhau. Các hành động hiện tại đều có liên quan đến hành động quá khứ và tương lai. Tham gia vào hành động hiện tại có kỹ năng, kỹ xảo, tri thức được hình thành trong quá khứ, những điều kiện cụ thể hiện tại ảnh hưởng đến mục đích, động cơ, thái độ, tình cảm...Bởi vậy, khi nghiên cứu tâm lý của cá nhân, cần xem xét quá trình hình thành những biểu hiện của chúng ra hành vi trong quá trình sống và hoạt động của cá nhân đó.

Nguyên tắc thống nhất giữa tâm lý, ý thức và hoạt động có ý nghĩa trong thực tiễn nghiên cứu:

- Nghiên cứu, xác định tâm lý người phải thông qua các biểu hiện trong hành vi và hoạt động cụ thể. Bởi vì tâm lý, ý thức và hoạt động là thống nhất nên các biểu hiện trong hành vi và hoạt động là những bằng chứng khách quan giúp cho chúng ta đoán biết có căn cứ khoa học những diễn biến tâm lý, tư tưởng của từng con người cụ thể.

- Sự thống nhất giữa tâm lý, ý thức và hoạt động là sự thống nhất trong cả quá trình. Bởi vậy, trong nghiên cứu các hiện tượng tâm lý cần căn cứ vào quá trình biểu hiện của chúng ra hành vi bên ngoài để thận trọng trong xem xét đi đến những kết luận chính xác, khách quan.

3.3.3. Nguyên tắc phát triển của tâm lý

Nội dung của nguyên tắc này chỉ rõ, mọi hiện tượng tâm lý đều có quá trình nảy sinh, vận động, phát triển và biến đổi chứ không phải là những cái gì cố định, bất biến. Bởi thế, nghiên cứu, đánh giá, luận giải, dự đoán tâm lý con người và nhóm người phải trong sự vận động, phát triển biến đổi, trong sự tác động qua lại của các hiện tượng cũng như các thành phần tạo thành chúng.

Khi sinh ra con người chưa phải đã là một nhân cách, chưa có sẵn ngay các phẩm chất tâm lý cần thiết mà mới chỉ có những nhu cầu bản năng của cơ thể được quy định bởi di truyền với những tiền đề sinh vật tạo khả năng để phát triển tâm lý- ý thức, nhân cách. Dưới ảnh hưởng của những điều kiện xã hội - lịch sử cụ thể, thông qua hoạt động và giao tiếp, tâm lý con người phát triển, nhân cách được hình thành và ổn định.

Đối với tâm lý học nguyên tắc phát triển có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi vì các hiện tượng tâm lý mà nó nghiên cứu đều có sự biến động vô cùng lớn. Trong quá trình phát triển tâm lý, tính kế thừa và sự xuất hiện cái mới, sự đồng nhất và sự khác biệt, sự dự định và sự biến đổi gắn bó với nhau một cách biện chứng. Sự phát triển tâm lý thể hiện ở chỗ trong các giai đoạn lứa tuổi khác nhau, các đặc điểm, thuộc tính tâm lý mới về chất được hình thành.

Nguyên tắc phát triển của tâm lý cũng đòi hỏi các nhà tâm lý học nghiên cứu tâm lý của cá nhân và các nhóm, tập thể trong quá trình vận động, biến đổi và phát triển để có các dự báo chuẩn xác được phát triển của chúng theo đòi hỏi của cuộc sống đa dạng, phong phú trong điều kiện mở cửa, giao lưu và hội nhập quốc tế. Ý nghĩa của nguyên tắc này đối với thực tiễn nghiên cứu ở chỗ, khi xem xét đánh giá một nhân cách cụ thể, hiện tượng tâm lý của một nhóm, một tập thể người cụ thể nào đó, cần phải nhìn nhận đối tượng nghiên cứu trong sự vận động phát triển của nó, không được chủ quan, định kiến.

3.3.4. Nguyên tắc tiếp cận nhân cách

Nội dung của nguyên tắc này chỉ rõ, khi nghiên cứu tâm lý con người phải tiếp cận với từng con người cụ thể với toàn bộ các thuộc tính, phẩm chất tâm lý của người đó cả mặt mạnh, ưu điểm lẫn mặt yếu, nhược điểm của người đó.

Nghiên cứu tâm lý con người theo quan điểm tiếp cận nhân cách đòi hỏi phải nhìn nhận mỗi một nhân cách cụ thể chính là sản phẩm của điều kiện xã hội - lịch sử, sản phẩm của giáo dục, rèn luyện và tự rèn luyện của chính mỗi người. Như thế, tiếp cận nhân cách chính là tiếp cận với những con người cụ thể, đang hoạt động bằng xương bằng thịt cụ thể. Tiếp cận với mỗi người phải tiếp cận toàn diện các mặt, các phẩm chất thuộc tính của nó từ xu hướng, tính cách, khí chất, năng lực. Phải phân tích để thấy được sự tác động qua lại của các nhân tố xã hội và nhân tố sinh vật trong hình thành và phát triển của mỗi một nhân cách cụ thể. ở đây, cần chú ý làm rõ cả những mặt ưu và cả những mặt khuyết điểm của các nhân cách.

Nguyên tắc tiếp cận nhân cách có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động thực tiễn của các cán bộ quản lý, lãnh đạo, giáo dục ở chỗ, nguyên tắc này tựa như là một chỉ dẫn, bài học kinh nghiệm thực tiễn về phương pháp công tác với con người đòi hỏi phải cụ thể với từng người và quan trọng là không chỉ nhìn vào một số thuộc tính phẩm chất nhân cách mà phải phân tích, tính đến toàn bộ các phẩm chất nhân cách của người đó, cả mặt mạnh lẫn mặt yếu.

4. Các nguyên tắc đạo đức trong nghiên cứu tâm lý học

Trong nghiên cứu tâm lý học có những vấn đề quan trọng liên quan đến con người như nghiên cứu những hậu quả stress của trẻ em gái bị buôn bán, bị lạm dụng tình dục. Để nghiên cứu những vấn đề này, nhà nghiên cứu cần phải thu được những thông tin về người bị lạm dụng hoặc người lạm dụng. Cũng theo cách như vậy, những nghiên cứu trong các lĩnh vực mà các khách thể (con người hoặc con vật) đều chịu những căng thẳng, những kích thích đau đớn hoặc những cảm xúc khó chịu. Vì vậy, khi nghiên cứu nhà tâm lý học có những khó khăn trong việc tìm hiểu xem liệu có bị vi phạm một số quyền cơ bản của con người (hoặc của con vật) không.

Đạo đức nghề nghiệp là hệ thống nguyên tắc hành vi đạo đức của nghề nghiệp, được trình bày dưới dạng các văn bản qui định hành vi của con người trong nghề nghiệp đó. Các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp để quản lý những hoạt động khoa học. Các nguyên tắc đạo đức này nhằm đáp ứng hai mục đích chính. Thứ nhất, nhà nghiên cứu phải tuân theo khi tiến hành nghiên cứu để đảm bảo sự đồng thuận và bảo vệ những cá nhân và nhóm tham gia nghiên cứu. Thứ hai, những nguyên tắc đạo đức có mục đích hướng dẫn sự suy nghĩ và hành vi của nhà nghiên cứu để đưa ra những quyết định đúng đắn nhất về mặt đạo đức khi họ đối diện với một tình huống phải lựa chọn. Phần lớn những hoạt động nghiên cứu trong tâm lý học sử dụng con người, đó là sinh viên, trẻ em, người lớn hoặc người già. Sự tham gia của con người trong nghiên cứu đòi hỏi một sự cân nhắc kỹ về khái niệm đạo đức, trong đó những khái niệm quan trọng nhất là sự đồng thuận, sự tôn trọng, sự không trung thực và những nguy cơ của nghiên cứu. Ở các trung tâm khoa học hàng đầu thế giới, vấn đề đạo đức được xem xét cẩn thận trước khi cho tiến hành một nghiên cứu tâm lý học.

Các nguyên tắc đạo đức cơ bản khi nghiên cứu tâm lý con người bao gồm những điểm chính sau:

- Thông báo cho người tham gia nghiên cứu môc đích cơ bản của cuộc nghiên cứu để họ tự quyết định tham gia. Nhà nghiên cứu phải đạt được sự đồng thuận hoặc sự đồng ý của những người tham gia vào nghiên cứu. Sự đồng thuận có ý nghĩa là cá nhân chấp nhận hoặc không chấp nhận tham gia vào thực nghiệm khi được thông báo về bản chất, những nguy cơ và những thuận lợi của một nghiên cứu. Nhà nghiên cứu cam kết cung cấp tất cả những thông tin bằng một ngôn ngữ đơn giản và dễ hiểu cho người tham gia. Điều này, giúp nhà nghiên cứu đảm bảo về sự đồng ý của người tham gia được ý thức đầy đủ. Trong các nghiên cứu, các thông tin rất đa dạng và khác nhau. Vì vậy, nhà nghiên cứu phải thông báo những thông tin thực sự chính đáng cho những người tham gia theo trình tự như sau: a) thông báo những mục đích của dự án nghiên cứu; b) những phương pháp và kỹ thuật sẽ sử dụng để thực hiện dự án; c) những thuận lợi cũng như những nguy cơ hoặc những khó khăn gắn liền với dự án, đối với những người tham gia và môi trường xã hội nói chung; d) cách thức đảm bảo sự bí mật các kết quả nghiên cứu và tính vô danh; e) giải thích với những người tham gia rằng họ có quyền tự do rút ra khỏi thực nghiệm bất cứ lúc nào, điều này không gây ra thiệt hại cho thực nghiệm. Cuối cùng, f) nhà nghiên cứu để lại họ tên và số điện thoại để những người tham gia có thể liên lạc với anh ta nếu họ có những câu hỏi cần hỏi hoặc họ muốn trình bày điều gì đó. Tất cả những thông tin này trước tiên phải được phổ biến bằng lời nói cho những người tham gia. Sau đó, nếu ai đó chấp nhận tham gia vào thực nghiệm, họ sẽ ký vào bản hợp đồng thoả thuận hợp tác tham gia nghiên cứu với nhà nghiên cứu. Bản thỏa thuận này được soạn thảo phù hợp với các nội dung đã thông báo cho những người tham gia.

- Các nghiệm thể có quyền từ chối không tham gia vào cuộc nghiên cứu (đặc biệt là trong cuộc thực nghiệm), họ có thể ngừng tham gia bất kỳ lúc nào: các quy chuẩn đạo đức nghiên cứu trong tâm lý học quy định rằng tất cả cá nhân đều tự do tham gia hoặc không vào một dự án nghiên cứu. Cá nhân không chỉ tự do tham gia hoặc không vào một thực nghiệm, mà cá nhân lúc nào cũng có thể, sau khi đã đồng ý tham gia, rút khỏi thực nghiệm. Một nhà nghiên cứu bị coi là vi phạm nguyên tắc đạo đức nếu gây sức ép lên một cá nhân, hoặc giữ họ tiếp tục tham gia vào nghiên cứu hoặc để yêu cầu sự tham gia mà không được sự đồng thuận của họ.

- Bảo vệ mọi người khỏi bị tổn hại: những yếu tố có thể tạo nên những nguy cơ gây tác hại tiêu cực của nghiên cứu đối với những người tham gia như sự mệt mỏi về thể chất, một vài sự khó chịu, sự không tiện nghi, một loạt những nhiễu tâm hoặc có khi giảm niềm tin vào bản thân. Sự ảnh hưởng sâu rộng và đặc điểm lâu dài của những nguy cơ là rất khác nhau. Trong nhiều nghiên cứu tâm lý học ít có phương pháp nào can thiệp sâu vào sức khoẻ thể chất của người tham gia. Tuy nhiên, ngay cả trong những nghiên cứu có ảnh hưởng tích cực, nhà nghiên cứu cũng cần bảo vệ những người tham gia trong và sau khi tham gia vào nghiên cứu theo các nguyên tắc. Thứ nhất, nhà nghiên cứu phải chỉ cho những người tham gia thấy những nguy cơ và những thuận lợi khi tham gia vào nghiên cứu. Chẳng hạn, những nghiên cứu có tác động tiêu cực đến thể chất và tâm lý như nghiên cứu sự ảnh hưởng của sự phục tùng gây ra stress ở cá nhân hoặc những nguy cơ lớn như sự mất mát phẩm chất, tình cảm tội lỗi, sợ hãi, cảm giác huỷ hoại hoặc bị nhục, nỗi đau hoặc tổn thương. Những nguyên tắc đạo đức phải hướng hành vi của nhà nghiên cứu giảm tối đa hoặc loại bỏ những nguy cơ này. Những hội đồng đánh giá thẩm định mặt đạo đức cần phải thận trọng khi cho phép tiến hành nghiên cứu như vậy. Thứ hai, nếu nhà nghiên cứu sử dụng một phương pháp nó chứa một nguy cơ, nhà nghiên cứu phải trình bản giám định của phương pháp này. Chẳng hạn, họ có thể phải xác nhận rằng phương pháp này không gây ra tác hại tiêu cực cho những người tham gia. Thứ ba, nhà nghiên cứu phải cam kết trong một thực nghiệm không gây ra một sự thay đổi kéo dài về tâm lý và những hành vi của cá nhân, ngoại trừ nghiên cứu trị liệu. Tóm lại, một số nguy cơ có thể xảy ra trong một nghiên cứu tâm lý học. Vì vậy, không sử dụng những phương pháp, kĩ thuật làm tổn hại đến sức khoẻ (cả về sức khoẻ thể chất và tâm lý), xúc phạm đến danh dự, uy tín và phẩm giá nhân cách của người tham gia nghiên cứu. Phải có những biện pháp bảo vệ kịp thời trong trường hợp phát hiện thấy những dấu hiệu đe doạ sự an toàn của người tham gia nghiên cứu cũng như của người khác. Ví dụ, phát hiện thấy nghiệm thể có những dấu hiệu bị lạm dụng hoặc có ý định tự sát thì phải cung cấp thông tin cho cơ quan hữu quan, cho người thân của họ. Các phương pháp nghiên cứu của tâm lý học cần được kiểm soát để bảo vệ lợi ích của những người tham gia trong và sau quá trình nghiên cứu.

- Tôn trọng những người tham gia nghiên cứu: sự tôn trọng mà một nhà nghiên cứu dành cho những người tham gia nghiên cứu biểu hiện dưới nhiều hình thức như nhà nghiên cứu tôn trọng những cam kết, quan tâm và đến đúng giờ trong những cuộc gặp, giải thích rõ ràng với những người tham gia về nội dung, về những hậu quả có thể đến với những người tham gia ứng xử với mỗi người mà họ liên hệ một cách tế nhị...Trong công việc, nhà nghiên cứu cũng phải có nghĩa vụ tôn trọng và khuyến khích quyền tự quyết định, sự tự do cá nhân và quyền chủ động của các cá nhân. Việc đảm bảo sự đồng thuận tự do cho những người tham gia là một trong những hình thức quan trọng thỏa mãn nguyên tắc đạo đức này. Tôn trọng sự riêng tư của mọi người là không tiết lộ cho người khác một số điều trong cuộc sống của họ, trạng thái tâm thần hoặc thể chất, hoàn cảnh riêng, các mối quan hệ xã hội của họ. Nói chung, trong những nghiên cứu tâm lý học, sự vi phạm đời sống riêng tư có thể diễn ra theo hai hình thức cụ thể sau. Thứ nhất, không tôn trọng sự riêng tư khi những đặc điểm cá nhân của người tham gia (chẳng hạn, mong muốn của họ, quan điểm, thói quen, các hành vi kỳ cục, nghi ngờ, sợ hãi) bị khai thác mà những người này không biết. Thứ hai, cũng có những vi phạm đời sống riêng tư khi cuộc sống riêng của cá nhân được xem xét mà không có sự đồng ý của họ hoặc không được thông báo. Nếu muốn thăm dò cuộc sống riêng và nhân cách của một số người nào đó, đầu tiên cần phải được sự đồng ý của họ. Cần lưu ý rằng, khi nghiên cứu đời sống riêng của mọi người, điều quan trọng là phải tôn trọng tính bảo mật của những thông tin thu được. Thí dụ, nghiên cứu về những chủ đề tế nhị như bệnh tâm thần, người tham gia có ý tưởng tự sát, là nạn nhân của sự lạm dụng tình dục trong quá khứ, họ cũng có thể hiện là nạn nhân của sự bạo hành. Không thảo luận những vấn đề của người tham gia nghiên cứu trước mặt họ. Trong các tài liệu được công bố (bài báo, luận án, luận văn, đề tài nghiên cứu...), tên của người tham gia nghiên cứu phải được viết tắt. Không được công khai địa chỉ cụ thể. Những số liệu này chỉ được lưu trong hồ sơ và được bảo quản theo những nguyên tắc chung. Khi đưa ra bất kỳ một kiến nghị, đề xuất nào dựa trên kết quả nghiên cứu, nhà tâm lý đều phải có trách nhiệm đạo đức với những kiến nghị, đề xuất đó.

- Sự không trung thực trong nghiên cứu: như chúng ta đã xem ở phần trước, nhà nghiên cứu phải trung thực, thẳng thắn trong mối quan hệ với những người tham gia nghiên cứu phù hợp với những nguyên tắc đạo đức cơ bản trong nghiên cứu tâm lý học. Đôi khi sự “lừa dối” được sử dụng trong nghiên cứu, đặc biệt trong một số lĩnh vực nghiên cứu tâm lý học xã hội, nhằm xem xét những hành vi được thực hiện trong hoàn cảnh khó xử. Khi nghiên cứu hành vi con người trong các tình trạng khẩn cấp như thiên tai, bão lụt, hỏa hoạn... nhà nghiên cứu không thể tạo ra các tình huống có thật rồi đưa nghiệm thể vào đó để làm thực nghiệm. Hay như nghiên cứu về tâm lý con người trong tình huống rối loạn cảm xúc, không thể yêu cầu nghiệm thể ly hôn rồi nghiên cứu... Những nghiên cứu như vậy người nghiên cứu thường tìm cách dấu kín để đảm bảo tính tự nhiên trong phòng thí nghiệm. Sự lừa dối như vậy trong nghiên cứu chỉ được sử dụng khi không còn sự lựa chọn nào khác. Hiện nay, các quy chuẩn đạo đức nghề chỉ cho phép sử dụng sự không trung thực với hai điều kiện sau đây. Thứ nhất, giá trị của nghiên cứu về khoa học, giáo dục hoặc ứng dụng phải được thể hiện một cách rõ ràng. Thứ hai, nhà nghiên cứu phải chứng tỏ rằng không còn sự lựa chọn nào khác, không một phương pháp nào khác có thể sử dụng được. Lưu ý là người nghiên cứu chọn thời gian thích hợp trước khi nghiên cứu phải giải thích đầy đủ cho nghiệm thể về sự bắt buộc lừa dối. Điều này nhằm bảo vệ sự ưng thuận tham gia của những người tham gia nghiên cứu. Nhà nghiên cứu phải thông báo, nhanh nhất có thể, cho những người tham gia về sự không trung thực này trong một buổi trao đổi thông tin. Trong buổi thông báo này, nhà nghiên cứu trình bày cho mỗi người tham gia nhằm làm sáng tỏ mục đích thực của nghiên cứu cũng như giải thích những lý do của việc lựa chọn việc không trung thực. Mục đích của việc này nhằm loại bỏ sự hiểu lầm mà việc sử dụng sự lừa dối đã mang đến cũng như khôi phục lại niềm tin và đảm bảo với những người tham gia rằng sự không trung thực ấy không tuỳ tiện, không mang lại một kết quả tiêu cực. Nhà tâm lý học, chỉ sử dụng sự không trung thực trong nghiên cứu ở mức độ thấp nhất khi cần thiết.

Hiệp hội tâm lý học trên thế giới ( Mỹ, Canada, Pháp, Nga...) đưa ra các nguyên tắc đạo đức nghề tâm lý học, trong đó có thể kể đến 6 nguyên tắc đạo đức cơ bản như sau ( C. James Goodwin 2002) :

- Thông thạo nghề nghiệp: nhà tâm lý học phải có trình độ chuyên môn cao, kỹ năng nghề nghiệp tốt về lĩnh vực nghiên cứu và phải không ngừng nâng cao năng lực nghề nghiệp của bản thân.

- Trung thực: nhà tâm lý học phải trung thực, thanh khiết trong nghiên cứu khoa học, giảng dạy và thực hành Tâm lý học, chính trực và tôn trọng con người.

- Trách nhiệm trong nghề nghiệp và khoa học: nhà tâm lý học phải làm việc khoa học và nghiên cứu tâm lý học. Trong công việc phải giữ vững chuẩn mực hành vi nghề nghiệp .

- Tôn trọng quyền con người: nhà tâm lý học phải tôn trọng nhân phẩm, sự độc lập, cuộc sống riêng tư và quyền được bảo vệ an toàn của cá nhân, phải yêu thương, quý trọng con người.

- Làm việc vì lợi ích người khác: nhà tâm lý học làm việc phải hướng tới lợi ích của người tham gia nghiên cứu, giảm thiểu tối đa những điều có hại cho họ.

- Trách nhiệm xã hội: nhà tâm lý học làm việc, ứng dụng tri thức, thành quả nghiên cứu với mục đích nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, phục vụ cho lợi ích của xã hội.

Sau đây là một ví dụ về bản mẫu hợp đồng thỏa thuận tham gia nghiên cứu sự hài lòng với cuộc sống hôn nhân.

Mẫu hợp đồng tham gia nghiên cứu

Dự án nghiên cứu này nhằm mục đích tìm hiểu những yếu tố tạo ra sự hài lòng với cuộc sống hôn nhân ( như nhân cách, giao tiếp, sự thích nghi).

2. Sự tham gia vào dự án nghiên cứu này bao gồm việc đến dự một cuộc gặp gỡ đầu tiên kéo dài khoảng 90 phút. Ở cuộc gặp gỡ này, cần trả lời một số câu hỏi liên quan đến cuộc sống hôn nhân và cá nhân. Sau đó, sẽ tham gia vào một cuộc trao đổi kéo dài 15 phút, được ghi hình lại về đời sống vợ chồng người tham gia.

3. Nếu người tham gia muốn, sẽ có buổi gặp gỡ thứ hai kéo dài khoảng một giờ với một nhà tâm lý học. Cuộc gặp gỡ này sẽ là một cơ hội để thảo luận về một số khía cạnh trong cuộc sống hôn nhân. Sau đó sẽ nhận được một bản tóm tắt những câu trả lời trong bảng hỏi. Hai cuộc gặp gỡ này sẽ diễn ra ở trường đại học X.

4. Sự tham gia vào dự án nghiên cứu này là một hình thức để hiểu rõ những thuận lợi, những điểm quan trọng trong cuộc sống hôn nhân của chúng tôi. Tuy nhiên, có thể sẽ cảm thấy đôi khi không thoải mái. Qua đó có thể giúp tôi ý thức được những khó khăn xuất hiện trong mối quan hệ vợ chồng.

5. Có thể rút khỏi dự án bất cứ lúc nào và không bị ép buộc tiếp tục tham gia. Tất cả những thông tin thu được trong dự án này sẽ giữ gìn hoàn toàn bảo mật. Tên của Các nhà nghiên cứu cũng sẽ có thể để tôi rút ra khỏi dự án nghiên cứu khi thông báo với tôi về những vấn đề của họsẽ được rút và thay vào đó một mã số được sử dụng để thay thế. Những báo cáo của nghiên cứu chỉ là hiện trạng của các kết quả của các nhóm.

6. Chỉ những người có trách nhiệm về dự án nghiên cứu mới có quyền tiếp cận những đoạn phim ghi lại cuộc thảo luận của vợ chồng người tham gia. Đoạn phim được ghi này sẽ chỉ phục vụ vào mục đích nghiên cứu, sau đó, có thể được huỷ bỏ.

7. Những câu trả lời không được trao đổi với chồng (vợ) người tham gia.

8. Nếu có những câu hỏi liên quan đến người tham gia trong dự án này, có thể gọi cho XXX theo số điện thoại sau: xxx-xxx và yên tâm thảo luận về tất cả các vấn đề mà người hỏi quan tâm.

Người tham gia ký tên Ngày tháng năm

Cam kết của người chủ trì dự án

Với tư cách là người chủ trì nghiên cứu, tôi cam kết thực hiện hợp đồng thỏa thuận nghiên cứu này, cam kết bảo vệ sự toàn vẹn về thể chất và tâm lý, xã hội của những người tham gia trong suốt thời gian nghiên cứu và đảm bảo giữ bí mật những thông tin thu được. Tôi cũng cam kết cung cấp mọi sự trợ giúp cho những người tham gia để làm giảm bớt những tác động tiêu cực có thể xảy ra khi tham gia nghiên cứu này.

Chủ trì nghiên cứu ký tên Ngày tháng năm