Xác suất để con trai được di truyền từ bố alen lặn liên kết X là bao nhiêu
Giới tính, chiều cao, màu mắt, răng, nguy cơ bệnh tâm lý của con phụ thuộc gene cha; trí thông minh, bệnh máu khó đông di truyền từ gene mẹ. Con người, đặc biệt là con gái giống cha hơn. Trẻ nhận được 50% gene từ cha và phần còn lại từ mẹ. Tuy nhiên, gene của nam mạnh hơn nên thường nổi bật hơn, thông thường sẽ có 40% gene nữ hoạt động và 60% gene nam hoạt động. Có lý thuyết cho rằng lối sống của người cha trước khi thụ thai em bé, bao gồm cả thức ăn và cảm xúc, là nền tảng cho sức khỏe tương lai của con. Hình thể và các đường nét được pha trộn giữa cả hai bộ gene bố và mẹ. Từng đường nét sẽ phụ thuộc vào việc gene đó trội hay lặn. Giới tính cũng mang tính di truyền.Giới tính của trẻ phụ thuộc vào người cha. Nếu cha có nhiều anh em trai sẽ sinh nhiều con trai hơn và ngược lại. Một số đàn ông có lượng nhiễm sắc thể X và Y tương đối bằng nhau trong tinh trùng có khả năng sinh con trai hoặc con gái như nhau. Sức khỏe răng của con được di truyền từ cha mẹ.Hình dạng và kích thước của răng được di truyền từ cha hay mẹ, trong đó gene của cha vẫn chiếm ưu thế. Vì vậy, nếu cha có hàm răng xấu, đứa trẻ cũng nhiều khả năng gặp vấn đề tương tự. Trí thông minh của con được di truyền một phần từ cha mẹ.Các gene chịu trách nhiệm về trí thông minh được chứa trong nhiễm sắc thể X nên con trai thừa hưởng trí thông minh từ mẹ, con gái nhận của mẹ và cha. Tuy nhiên, trí tuệ nhận được từ bố mẹ chỉ chiếm 40% thôi, phần còn lại sẽ được hấp thụ trong quá trình phát triển, học tập và làm việc sau này. Cha mẹ thừa cân thì con cũng có thể thừa cân.Một số nghiên cứu cho rằng vòng eo, cân nặng liên quan đến gene khoảng 25%. Con cái thừa hưởng gene này như nhau từ cha mẹ. Tuy nhiên thường trẻ sẽ nhận di truyền thừa cân nhiều hơn so với xu hướng cân đối. Chế độ ăn uống và hoạt động thể chất hợp lý sẽ khắc phục được vấn đề này. Chiều cao của con được di truyền 1 phần từ cha mẹ.Gene là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến chiều cao của một người, chiếm 60 đến 80%, phần còn lại là kết quả của chế độ ăn uống, lối sống và sức khỏe. Thông thường, người cha tác động đến chiều cao của con cái nhiều hơn các mẹ. Những đứa trẻ trong cùng một gia đình chưa chắc đã có chiều cao như nhau. Chất lượng tinh trùng giảm theo tuổi nên người lớn tuổi có thể truyền gene đột biến cho con cái. Điều này làm tăng nguy cơ phát triển các bệnh tâm thần, tự kỷ, tăng động hoặc rối loạn lưỡng cực. Ngoài ra, những đứa trẻ sinh ra khi cha từ 45 tuổi trở lên sẽ khó tiếp thu kiến thức hơn. Màu mắt nâu là gene trội, nếu cha mẹ, đặc biệt là cha mắt đen và mẹ mắt xanh lam hoặc xanh lá cây, trẻ có nhiều khả năng sở hữu mắt nâu. Con mắt xanh khi một trong hai bố mẹ có gene mắt xanh. Tuy nhiên, vẫn có khả năng cả cha mẹ mắt xanh lại sinh con mắt nâu. Nếu ít nhất một trong hai cha mẹ có lúm đồng tiền, thì đứa trẻ cũng sẽ có lúm đồng tiền. Máu khó đông truyền từ mẹ sang con trai khi mẹ có nhiễm sắc thể X với gene bệnh. Bé trai chỉ có một nhiễm sắc thể X, không có gì để bù đắp gene đột biến nên sẽ phát triển bệnh. Nếu cả bố và mẹ đều có tóc xoăn, trẻ cũng sẽ có tóc xoăn. Bố và mẹ tóc thẳng, con sẽ có tóc thẳng. Một trong cha mẹ tóc xoăn và người còn lại tóc thẳng, đứa trẻ sinh ra có mái tóc gợn sóng. Nếu cả hai cha mẹ đều tóc xoăn và ai đó trong gia đình tóc thẳng, đứa trẻ có thể có mái tóc thẳng.
Nói chung, áp dụng các quy luật di truyền dưới đây:
Họ hàng có nhiều khả năng mang cùng một alen đột biến, vì vậy việc giao phối gần làm tăng khả năng có con bị ảnh hưởng. Trong các cuộc hôn thú giữa bố/mẹ với con cái và giữa anh chị e ruột (loạn luân), nguy cơ con bất thường tăng lên bởi vì rất nhiều vật chất di truyền của chúng là giống nhau. Ở một số quần thể, tỷ lệ dị hợp tử (người lành mang gen bệnh) cao vì ảnh hường từ tổ tiên (ví dụ, khởi đầu với vài thành viên và một ít trong số đó là người lành mang gen bệnh) hoặc do những người lành mang gen bệnh có lợi thế trong chọn lọc tự nhiên (ví dụ như dị hợp tử trong bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm chống lại bệnh sốt rét).
Nếu tính trạng dẫn đến thiếu hụt một protein xác định (ví dụ như một enzyme), các hợp tử thường giảm sản xuất lượng protein đó. Các kỹ thuật di truyền phân tử có thể xác định những người bình thường mang gen dị hợp tử ở nhưng đột biến đã biết rõ (ví dụ, những người bị xơ nang). |