Tiểu luận thực trạng kỹ năng tự học của sinh viên
Nhóm Show
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌCI.TÊN ĐỀ TÀI: Thực trạng về vấn đề tự học của sinh viên Đại học Ngân Hàng TP.HCM trong chương trình đào tạo tín chỉ hiện nayII. LÝ DO NGHIÊN CỨU:
III. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:III.1 . Vấn đề tự học tại Việt Nam:
Người Việt Nam chúng ta có tinh thần hiếu học đặc biệt là tinh thần tự học.Ở thời phong kiến, khi điều kiện đất nước còn nghèo nàn giáo dục chưa được phổ cập toàn dân việc đi học dường như là điều xa xỉ đối với người dân thường thì vẫn có rất nhiều nhân tài kiệt xuất đa phần họ đều là những tấm gương tự học nỗ lực để có kiến thức cho bản thân như: Mạc Đĩnh Chi được xem là lưỡng quốc trạng nguyên, Nguyễn Bĩnh Khiêm được Trung quốc thán phục là nhà thông thái, .Đó đều la những tấm gương sáng về tinh thần tự học nhưng nhìn chung lối giáo dục thời kỳ này vẫn có rất nhiều điểm hạn chế đó là việc người học tìm thấy sự bắt chước, đúng mà không cần độc đáo, người học học thuộc lòng Tới năm 1945 khi Cách mạng Tháng Tám thành công, những triển vọng lớn lao đã mở ra trước mắt nền giáo dục của nhân dân ta, Cửa nhà trường được mở rộng cho tất cả, và dĩ nhiên các trường đều nhanh chóng chuyển hẳn sang một nền giáo dục mới - nền giáo dục của một dân tộc độc lập thì việc học được phát triển hơn đề cao tinh thần sáng tạo không còn bắt buộc phải học thuộc lòng nữa. Tuy nhiên tự học vẫn chỉ mang tư giác của mỗi người tìm hiểu thêm kiến thức vì trước đây người thầy đóng vai trò trung tâm sẽ cung cấp tất cả những kiên thức cần thiết trong quá trình học và người học luôn thụ động trong việc học . Nhưng hiện nay khi chúng ta đang thực hiện cải cách gíao dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục của nước ta ,nghị Quyết Đại Hội đại biểu của Đảng khoá IX đã khẳng định: Đổi mới hình thức giảng dạy, học tập các chương trình giáo dục phải đổi mới để cập nhật với tri thức hiện đại, thích hợp với lứa tuổi và các điều kiện giảng dạy học tập cụ thể. Đổi mới phướng pháp giảng dạy theo hướng không chỉ để nhồi nhét kiến thức mà quan trọng hơn là chú ý việc phát triển tư duy độc lập, năng động của người học. Điều đó có thể nói bắt đầu từ hai nhân tố chính của giáo dục là người dạy (vai trò chủ đạo) và người học (vai trò chủ động ), trong đó việc chủ động học tập của người học là hết sức quan trọng, nó quyết định không nhỏ ở chất lượng giáo dục. Có nghĩa là người học phải có phương pháp học tập đúng đắn. Tích cực và phải có ý thức trao dồi tự học cho chính mình. Bên cạnh đó người dạy phải có những định hướng hoạt động học tập cho người học, phát triển tư duy tích cực, hình thành cho người học năng lực hợp tác, tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức cho bản thân góp phần nâng cao chất lượng giáo dục hiện đại. Có rất nhiều bài nghiên cứu nói về vai trò của việc tự học cũng đã khẳng định rằng tự học trở thành yếu tố không thể thiếu và cấp thiết hiện nay. 3.2. Vấn đề tự học của sinh viên Đại Học Ngân Hàng Thành Phố Hồ Chí Minh:
3.3. Các quan điểm về vấn đề tự họcỞ nước ta vấn đề tự học thực sự được phát động nghiên cứu nghiêm túc, rộng rãi từ khi nền giáo dục cách mạng ra đời (1945), mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là người khởi xướng vừa nêu tấm gương về tinh thần và phương pháp dạy học. Người từng nói: còn sống thì còn phải học, và cho rằng: về cách học phải lấy tự học làm cốt. Có thể nói tự học là một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh, về phương pháp học tập. Người cho rằng: Tự học là cách học tự động và phải biết tự động học tập. Theo Người: tự động học tập tức là tự học một cách hoàn toàn tự giác, tự chủ, không đợi ai nhắc nhở, không chờ ai giao nhiệm vụ mà tự mình chủ động vạch kế hoạch học tập cho mình, rồi tự mình triển khai, thực hiện kế hoạch đó một cách tự giác, tự mình làm chủ thời gian để học và tự mình kiểm tra đánh giá việc học của mình. Ngoài ra con có rất nhiều các nhà khoa học giáo dục đã nghiên cứu vấn đề tự học ý nghĩa của tự học dưới nhiều góc độ khác nhau và như: Nhà tâm lý học N.ARubakin coi: Tự tìm lấy kiến thức có nghĩa là tự học. Tự học là quá trình lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội, lịch sử trong thực tiễn hoạt động cá nhân bằng cách thiết lập các mối quan hệ cải tiến kinh nghiệm ban đầu, đối chiếu với các mô hình phản ánh hoàn cảnh thực tại, biến tri thức của loài người thành vốn tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng , kỹ xảo của chủ thể. Theo Gibbon Mỗi người điều phải nhận hai thứ giáo dục, một thứ do người khác truyền cho, một thứ quan trọng hơn là do chính mình tạo lấy. Việc tự học nó có một ý nghĩa hết sức to lớn, nó giúp người học có thể học tập suốt đời, học ở những môi trường và điều kiện khác nhau, học tốt ở những lĩnh vực kiến thức khác nhau, có thể tự chiếm lĩnh kiến thức, biến cái của nhân loại thành cái của riêng bản thân mình. Thầy Giản Tư Trung đã từng có một câu rất hay Ta là sản phẩm của chính mình. Vì vậy, sản phẩm có lỗi hay không là do bản thân bạn. Vì vậy mỗi người nên ý thức được chữ tự của bản thân. Tư học cũng vậy, là ý thức tự nâng cao trách nhiệm của bản thân và trau dồi một cách liên tục bằng mọi cách. Bên cạnh đó GS Cao Xuân Hạo đã nói: dù có học trường gì, thầy nào nổi tiếng đến đâu chăng nữa, thì nhân tố quan trọng nhất, quyết định kết quả mỹ mãn của quá trình đào tạo vẫn là cái công tự học của học trò. Tự học ở đây chỉ cái phần tích cực chủ động, quyết đoán của người học. Vai trò quyết định sự thành công hay thất bại của quá trình học tập là vai trò của người học, tuy vai trò của người dạy không phải không quan trọng Theo Giáo sư Tiến sỹ Nguyễn Cảnh Toàn: Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp...) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như tính trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biến khó khăn thành thuận lợi..vv...) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình. Từ các cách hiểu trên ta thấy việc học có cốt lõi là tự học, tự học là công việc chính của người học vì không thể ai học thế cho mình được. Tự học là để tự mình khẳng định mình, vượt qua hoàn cảnh, hoà nhập với cuộc sống và sống tốt. Tóm lại từ những quan điểm về tự học nêu trên, chúng ta có thể định nghĩa rằng tự học là sự nỗ lực chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng của bản thân của người học để hướng tới những mục đích học tập nhất định. nhưng một cách chung nhất có thể hiểu tự học là quá trình tự giác, độc lập, tích cực, sử dụng các năng lực trí tuệ, phẩm chất của bản thân người học để người học chiếm lĩnh được tri thức của nhân loại và những kinh nghiệm lịch sử xã hội, biến những tri thức đó thành sở hữu của mình, hình thành kỹ năng, thái độ và ngày càng hoàn thiện nhân cách của bản thân. Và tự học là yếu tố quan trọng cấp thiết hàng đầu đối với người học hiện nay. 3.4. Một số đặc điểm của hoạt động tự học trong phương thức đào tạo tín chỉ: Có thể khẳng định rằng: hoạt động tự học của sinh viên là một hoạt động không thể thiếu và đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình học tập ở bậc đại học. Tuy nhiên, trong các phương thức đào tạo khác nhau, hoạt động này lại có những nét đặc thù riêng. Sự khác biệt giữa hoạt động tự học trong học biên chế so với học chế tín chỉ được thể hiện ở một số điểm sau: Trước hết, Sinh viên phải ý thức xây dựng kế hoạch tự học, tự nghiên cứu sao cho quá trình học tập hiệu quả nhất theo phương thức tín chỉ. Thứ hai, Hoạt động tự học theo học chế tín chỉ coi tự học là một thành phần hợp pháp và bắt buộc phải có trong hoạt động học tập của sinh viên. Thứ ba, Hoạt động tự học được kiểm tra, đánh giá thường xuyên thông qua các bài kiểm tra, bài tập, các buổi thảo luận trong suốt cả quá trình học. Qua các phân tích trên đây, rõ ràng rằng trong phương thức đào tạo theo tín chỉ, hoạt động tự học của sinh viên trở thành hoạt động bắt buộc với các chế tài cụ thể qui định cho hình thức học tập này. 3.5. Định nghĩa, nguyên tắc, điều kiện và cách tự học: 3.5.1. Định nghĩa tự học. Tuy đã được nghiên cứu từ lâu và rất nhiều trên thế giới nhưng tự học (learner autonomy) lại là một thuật ngữ gây nhiều tranh luận, và đôi khi các nhà giáo dục học và ngôn ngữ học không thể thống nhất hoàn toàn với nhau về định nghĩa tự học là thế nào. Một số nhà nghiên cứu nổi tiếng định nghĩa về tự học như sau: Tự học là khả năng tự lo cho việc học của chính mình. (Henri Holec) Tự học là tình huống trong đó người học hoàn toàn chịu trách nhiệm về mọi quyết định liên quan đến việc học và thực hiện những quyết định đó. (Leslie Dickinson) Tự học là sự nhận thức về quyền của người học trong hệ thống giáo dục. (Phil Benson) Tuy có nhiều cách định nghĩa nhưng vấn đề chính là chúng ta xem tự học là phương tiện hay là mục đích cuối cùng. Hai cách nhìn này đan xen lẫn nhau và cả hai đều có thể là một phần trong quan điểm của chúng ta về việc học ngôn ngữ hay việc học nói chung. 3.5.2. Nguyên tắc tự học Theo David Little, có 3 nguyên tắc sư phạm cơ bản trong việc phát triển khả năng tự học: (1) Sự tham gia của người học người học chia sẻ trách nhiệm trong quá trình học; (2) Sự phản ánh của người học giúp người học biết suy nghĩ manh tính phê phán khi lên kế hoạch, giám sát và đánh giá việc học của mình. (3)Sử dụng ngôn ngữ mục tiêu một cách phù hợp. Ngoài ra, chúng ta nên lưu ý rằng tự học là một quá trình không phải là một sản phẩm, và sẽ phải mất rất nhiều thời gian để phát triển khả năng này. Như vậy, không thể trông đợi người học có thể trong một thời gian ngắn chuyển sang cách học tự học mà không cần thời gian hay không gặp một khó khăn nào. 3.5.3 Điều kiện và cách tự học Dimitrios Thanasoulas cho rằng việc tự học chỉ có thể đạt được khi có những điều kiện sau: chiến lược về nhận thức của người học, thái độ, động cơ và kiến thức. Theo OMalley và Chamot (1990), chiến lược nhận thức tác động trực tiếp lên thông tin tiếp nhận, đồng thời điều khiển thông tin theo cách thức hỗ trợ việc học. Hai thái độ quan trọng trong tự học là thái độ của người học về vai trò của họ trong quá trình học và thái độ về khả năng học của mình. Động cơ là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tốc độ và sự thành công khi học. Thái độ và động cơ của người học có liên quan mật thiết với nhau. Thái độ tích cực sẽ dẫn đến động cơ học tập được nâng cao và ngược lại. Về cách tự học, Quang Huy trong bài viết Tự học ở bậc Đại học (theo Dạy và Học Ngày Nay, số 10, 2008) phân tích: Có nhiều cách tự học như: tự mình mò mẫm (người học không có điều kiện đi học, các tri thức họ tìm được là do sự tìm tòi trải nghiệm của chính bản thân họ trong cuộc sống), tự học không cần thầy hướng dẫn (người học đã có một trình độ học vấn nhất định, đã có một thời gian dài học với thầy), tự học với sự hướng dẫn của thầy (hoạt động tự học này gắn với quá trình dạy học). Đối với sinh viên, hoạt động tự học gắn liền với sự hướng dẫn của thầy. Hoạt động này sẽ diễn ra ở hai phạm vi: tự học trên lớp và tự học ngoài giờ trên lớp. Như vậy, giáo viên khi hướng dẫn sinh viên tự học cần phải xét đến các điều kiện tự học nêu trên và chọn những hoạt động phù hợp để sinh viên có thể tự học trên lớp và tự học ngoài giờ một cách có hiệu quả. 3.6. Liệt kê danh mục các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài đã nêu trong phần tổng quan này (tên công trình, tác giả, nơi và năm công bố) : IV. MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
4.1. Mục tiêu nghiên cứu: Có rất nhiều sự khác biệt trong cách giảng dạy và học tập ở cấp Phổ Thông và cấp Đại Học. Mô hình đào tạo theo tín chỉ cũng còn khá mới mẻ đối với sinh viên Việt Nam nói chung và sinh viên Đại Học Ngân Hàng nói riêng. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về thực trạng tự học và tìm ra giải pháp khắc phục khó khăn là một vấn đề nmang tính cấp thiết. Đề tài đi sâu tìm hiểu cơ sở lý luận về vấn đề tự học trong sinh viên. Bên cạnh đó khảo sát thực trạng tự học của các bạn sinh viên trường Đại Học Ngân Hàng TP HCM, tìm hiểu những khó khăn mà các bạn đang gặp phải, những vướng mắc chưa thể giải quyết trong quá trình tìm kiếm nguồn tri thức. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm giúp sinh viên chủ động hơn trong việc học, tự tìm kiếm cho mình phương pháp học tập tốt nhất nhằm đạt được kết quả học tập đỉnh cao 4.2. Đối tượng nghiên cứu: Khách thể nghiên cứu: thực trạng về vấn đề tự học của của sinh viên Đại học Ngân Hàng TP.HCM trong chương trình đào tạo tín chỉ hiện nay Đối tượng khảo sát: Sinh viên trường Đại học Ngân Hàng TP.HCM 4.3. Phạm vi nghiên cứu: Đối tượng: Đánh giá khả năng tự học của sinh viên trường Đại học Ngân Hàng TP.HCM hiện nay Thời gian: nghiên cứu từ năm 2012 đến thời điểm nghiên cứu thực hiện Nội dung: thực trạng vấn đề tự học của của sinh viên Đại học Ngân Hàng TP.HCM trong chương trình đào tạo tín chỉ hiện nay V. CÁC PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG TRONG NGHIÊN CỨU:
VI. Ý NGHĨA NGHIÊN CỨU:
VII. KẾT CẤU NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
null |