Top 10 lựa chọn giả tưởng ở vòng đầu tiên năm 2022

Giải Oscar
Top 10 lựa chọn giả tưởng ở vòng đầu tiên năm 2022
Giải Oscar lần thứ 94
Top 10 lựa chọn giả tưởng ở vòng đầu tiên năm 2022
Trao choNhững thành tựu xuất sắc nhất trong điện ảnh
Quốc giaHoa Kỳ
Được trao bởiViện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh
Lần đầu tiên1929
Trang chủwww.oscars.org

Giải thưởng Viện Hàn lâm (tiếng Anh: Academy Awards), thường được biết đến với tên Giải Oscar (tiếng Anh: Oscars) là giải thưởng điện ảnh hằng năm của Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh (tiếng Anh: Academy of Motion Picture Arts and Sciences, viết tắt là AMPAS) (Hoa Kỳ) với 74 giải thưởng dành cho các diễn viên và kỹ thuật hình ảnh trong ngành điện ảnh Hoa Kỳ. Kể từ năm 1929, giải Oscar được trao hàng năm tại thành phố Los Angeles[1] để ghi nhận những thành tựu xuất sắc của điện ảnh trong năm của các đạo diễn, diễn viên, kịch bản và nhiều lĩnh vực khác qua cuộc bỏ phiếu kín của các thành viên Viện Hàn lâm.

Show

Giải Oscar lần đầu được phát thanh trên radio vào năm 1930 và phát hình lần đầu năm 1953. Hiện nay, giải thưởng được phát sóng trực tiếp trên 200 quốc gia và phát trực tiếp trên mạng. Giải Oscar là lễ trao giải lâu đời nhất thế giới trong ngành nghệ thuật.

Chịu trách nhiệm bầu chọn và trao giải Oscar là AMPAS, một tổ chức nghề nghiệp danh dự của những người làm điện ảnh Hoa Kỳ. Cho đến năm 2007, số người đủ tiêu chuẩn tham gia bầu chọn là 5830 người, trong đó có 1311 diễn viên (tỷ lệ cao nhất, chiếm 22%). Tính cho đến năm 2007, đã 72 năm quá trình bầu chọn này được thống kê bởi công ty kiểm toán PricewaterhouseCoopers và công ty tiền nhiệm của nó là Price Waterhouse[2]. Đến nay đã có 3072 tượng vàng đã được trao trong suốt 90 năm tồn tại.

Lễ trao giải Oscar gần đây nhất, Giải Oscar lần thứ 90 đã được trao vào năm 2018, tôn vinh các bộ phim hay nhất năm 2017, được tổ chức vào ngày 4 tháng 3 năm 2018 tại nhà hát Dolby, Los Angeles, California. Dẫn chương trình là Jimmy Kimmel và trực tiếp trên đài ABC của Mỹ.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Giải thưởng Viện Hàn lâm đầu tiên được trao vào ngày 16 tháng 5 năm 1929, trong một buổi dạ tiệc chiều tại Khách sạn Roosevelt Hollywood với 280 khách mời. Giá trị tấm vé vào thời đó là 5 USD (tương đương 71 USD ngày nay). 15 bức tượng vàng đã được trao cho các diễn viên, đạo diễn và tổ làm phim cho các bộ phim từ năm 1927-1928 và lễ trao giải kéo dài chỉ trong 15 phút. Người chiến thắng lúc ấy được báo trước 3 tháng để chuẩn bị. Nhưng sau đó, dịp trao giải năm 1941 về sau, kết quả được giữ kín trong phong bì và không một ai biết được kết quả ngoại trừ giám đốc và phó giám đốc công ty sản xuất Tượng vàng Oscar R. S Owen.

Tổ chức[sửa | sửa mã nguồn]

Diễn viên xuất sắc nhất lần đầu tiên của giải là Emil Jannings trong bộ phim The Last Command và The Way of All Fresh. Anh ấy phải trở về Châu Âu trước lễ trao giải và do đó Viện Hàn lâm đồng ý trao giải thưởng trước cho anh.

Vào lễ trao giải lần thứ 29 được tổ chức vào ngày 27 tháng 3 năm 1957, giải Oscar dành cho phim nước ngoài hay nhất được công bố. Tại lễ trao giải lần thứ 74 vào năm 2002, giải Oscar dành cho phim hoạt hình hay nhất được trao thưởng. Từ năm 1973, tất cả lễ trao giải đều kết thúc với giải Oscar dành cho bộ phim xuất sắc nhất.

Điều kiện đề cử và quá trình bầu chọn[sửa | sửa mã nguồn]

Từ năm 2004, kết quả đề cử được Viện Hàn lâm công bố cho cộng đồng vào cuối tháng Giêng. Trước đó, kết quả đề cử được công bố vào đầu tháng 2.

Điều kiện đề cử[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày nay, theo điều số hai và số ba trong quy định chính thức của giải Oscar, một phim muốn đủ điều kiện tranh giải phải được trình chiếu trong năm trước đó, tức là từ nửa đêm ngày 1 tháng 1 đến nửa đêm ngày 31 tháng 12, tại quận Los Angeles, California[3]. Điều số hai còn nói rõ các bộ phim nộp dự giải phải là phim dài (feature-length), tức là có độ dài ít nhất 40 phút, trừ các phim tham gia hạng mục phim ngắn, và phải sử dụng phim 35 mm hoặc phim 70 mm, tốc độ 24 hoặc 48 hình trên giây, độ phân giải không được thấp hơn 1280x720.

Quá trình bầu chọn[sửa | sửa mã nguồn]

Thành viên bầu chọn[sửa | sửa mã nguồn]

Tất cả các thành viên của AMPAS đều phải có lời mời chính thức mới được tham gia quá trình lựa chọn đề cử và bầu ra người thắng giải. Các lời mời được đưa ra bởi Hội đồng quản trị (Board of Governors) thay mặt cho các Ủy ban nhánh của Viện Hàn lâm (Academy Branch Executive Committee). Những người được mời được lựa chọn cũng qua một quá trình đề cử hoặc được xét dựa trên sự cống hiến của họ cho ngành công nghiệp điện ảnh. Tuy rằng những người từng được trao giải Oscar thường là được mời tham gia bầu chọn vào các năm sau đó, nhưng điều này không nằm trong quy định của Hội đồng.

Việc đề cử các thành viên mới cho việc tuyển chọn được tiến hành hàng năm. Tuy rằng AMPAS không chính thức công bố danh tính những người được tham gia bầu chọn, nhưng báo chí vẫn đưa ra tên tuổi của những người này, theo đó năm 2012 có 5783 người được mời tham gia quá trình xét giải[4]. Những người này nằm trong 15 nhánh của Viện Hàn lâm, việc phân chia dựa vào các quá trình và bộ phận khác nhau của việc làm phim. Những người không nằm trong nhánh nào được xếp vào nhóm Thành viên chung (Members At Large).

Các thành viên thuộc các nhánh khác nhau sẽ bầu chọn ứng cử viên cho các hạng mục thuộc nhánh mình, riêng hạng mục Phim hay nhất (Best Picture) thì tất cả đều có quyền tham gia đề cử. Những người thắng giải sẽ được lựa chọn bằng vòng bỏ phiếu thứ hai, trong đó mọi thành viên đều được phép bầu cho hầu hết các hạng mục, kể cả hạng mục Phim hay nhất[5].

Vào năm 2012, theo kết quả điều tra của tờ thời báo Los Angeles, số lượng thành viên bầu chọn của AMPAS chiếm 88%, trong đó 94% là người Caucasia, 77% là đàn ông, 54% còn lại là các thành viên bầu chọn là hơn 60 tuổi.

Giải thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Tượng vàng Oscar[sửa | sửa mã nguồn]

Phần thưởng của giải Oscar là một bức tượng nhỏ có tên chính thức là Giải thưởng của Viện Hàn lâm cho đóng góp xuất sắc (tiếng Anh: Academy Award of Merit) hay thông thường được biết đến là Tượng vàng Oscar. Bức tượng bao gồm phần gốc bằng kim loại đen được mạ vàng và britannium, cao 34.3 cm và nặng 3,856 kg có hình dáng của một hiệp sĩ được điêu khắc theo phong cách Art Deco, người hiệp sĩ này cầm gươm và đứng trên một cuộn phim có năm cánh. Năm cánh này tượng trưng cho các nhánh gốc của Viện Hàn lâm bao gồm diễn viên, biên kịch, đạo diễn, nhà sản xuất và kỹ thuật viên[6].

Hình mẫu bức tượng lấy cảm hứng từ diễn viên người México Emilio "El Endio" Fernández Người nghĩ ra ý tưởng cho bức tượng Oscar là chỉ đạo nghệ thuật của hãng MGM, Cedric Gibbons, một trong các thành viên đầu tiên của Viện Hàn lâm[7]. Những người cụ thể hóa ý tưởng của Gibbons là nhà điêu khắc George Stanley, người đã tạo ra một bản tượng bằng đất sét trước khi Alex Smith chế ra bản tượng bằng thiếc và đồng được mạ vàng 24 karat với tỉ lệ 92,5 phần trăm thiếc và 7,5 phần trăm đồng. Ngày nay, mỗi năm có khoảng 40 bức tượng Oscar được sản xuất bởi công ty R.S. Owens với sự kiểm soát chất lượng rất nghiêm ngặt, các bản tượng lỗi trong quá trình sản xuất lập tức được cắt đôi và nung chảy[8]. Tuy nhiên từ năm 1943 đến năm 1945, do lượng kim loại bị thiếu hụt cho sản xuất trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, bức tượng khi ấy bắt buộc phải dùng thạch cao thay cho và sau khi chiến tranh kết thúc thì tượng Oscar trở về chất liệu truyền thống.

Tên gọi[sửa | sửa mã nguồn]

Nguồn gốc cái tên "Oscar" hiện vẫn còn gây tranh cãi. Trong cuốn tự truyện của mình, Bette Davis cho rằng chính mình là người nghĩ ra cái tên này, cô đặt nó theo tên người chồng đầu tiên, chỉ huy dàn nhạc Harmon Oscar Nelson[9]. Một người khác được coi là người khai sinh ra cái tên Oscar, đó là Margaret Herrick, một thư ký của Viện Hàn lâm, khi lần đầu tiên nhìn thấy bức tượng năm 1931, cô đã nói rằng bức tượng này trông giống "ông chú Oscar" (tên bí danh của ông là Oscar Piere), nhà bình luận báo Sidney Skolsky cũng có mặt ở đó đã lập tức chộp lấy cái tên đó để làm tựa đề cho bài báo của ông có tên: "Một nhân viên đã yêu mến đặt tên cho bức tượng nổi tiếng là 'Oscar'"[10]. Ngày nay cả hai cái tên Oscar và Giải thưởng Viện Hàn lâm (Academy Award) đều được AMPAS đăng ký tên thương mại để tránh các vụ kiện tụng hoặc tranh chấp có thể xảy ra.

Tính cho đến Giải Oscar lần thứ 79 tổ chức vào năm 2007, đã có tổng cộng 2671 bức tượng Oscar được trao[11]. Có 290 diễn viên khác nhau đã được trao giải Oscar về diễn xuất (bao gồm cả các giải Oscar danh dự và giải Oscar cho trẻ em), trong số này 144 người vẫn còn sống cho đến năm 2007.

Người sở hữu tượng vàng Oscar[sửa | sửa mã nguồn]

Kể từ năm 1950, AMPAS đã ra quy định về việc chủ nhân của các bức tượng Oscar và người thừa kế của họ không được phép bán bức tượng, trừ trường hợp bán lại cho chính Viện Hàn lâm với giá 1 USD. Nếu người được chọn trao giải từ chối vinh dự này, Viện Hàn lâm sẽ giữ lại bức tượng. Quy định này đã gây ra nhiều tranh cãi, vì nó đồng nghĩa với việc người được trao tượng vàng Oscar lại không được sở hữu hoàn toàn giải thưởng của mình[12]. Đã có trường hợp cháu trai của nhà sản xuất phim Michael Todd đã cố bán bức tượng Oscar của ông mình cho một nhà sưu tập, AMPAS đã ngăn cản được việc này bằng một lệnh của toà án. Vào tháng 12 năm 2011, Orson Welles giành được giải Oscar dành cho kịch bản gốc xuất sắc nhất cho bộ phim Citizen Kane, người thừa kế ông có được quyết định của tòa án năm 2004 cho phép bán đấu giá bức tượng này trên mạng với giá 861542 USD.

Vào năm 1992, Harold Russell cần tiền cho các chi phí y tế cho vợ ông. Trong một quyết định gây tranh cãi, ông đã đồng ý bán lại cho diễn viên phụ xuất sắc nhất năm 1946 là Herman Darvick Autograph Auctions cho bộ phim The Best Years of Our Lives và vào ngày 6 tháng 8 năm 1992 tại thành phố New York, giải Oscar được bán lại cho nhà sưu tập với giá 60500 USD. Russell đã bảo vệ quyết định của mình và nói rằng: "Tôi không biết lí do vì sao mọi người đều chỉ trích tôi. Sức khỏe của vợ tôi quan trọng hơn rất nhiều so với giải thưởng này. Bộ phim sẽ vẫn còn mãi, thậm chí là cả giải Oscar

Lễ trao giải[sửa | sửa mã nguồn]

Địa điểm tổ chức[sửa | sửa mã nguồn]

Lễ trao giải đầu tiên của AMPAS diễn ra tại khách sạn Roosevelt ở Hollywood. Trong thập niên 1930 và đầu thập niên 1940, các buổi lễ được tổ chức tại khách sạn The Ambassador Hotel hoặc Millennium Biltmore Hotel ở Los Angeles.

Từ năm 1944 đến năm 1946, Nhà hát Trung Hoa Grauman ở Hollywood là nơi tổ chức lễ trao giải trước khi nó dời về thính phòng Shrine Auditorium cho đến năm 1948. Lễ trao giải lần thứ 21 năm 1949 diễn ra tại Nhà hát Giải thưởng Viện Hàn lâm mà sau này là trụ sở chính của AMPAS trên đại lộ Melrose ở Hollywood[13].

Từ năm 1950 đến năm 1960, địa điểm được lựa chọn là Nhà hát Pantages. Từ năm 1961, đến lượt thính phòng Santa Monica Civic Auditorium ở Santa Monica, California được tổ chức lễ trao giải Oscar. Năm 1968, một lần nữa lễ trao giải trở về Los Angeles, lần này là tại rạp Dorothy Chandler Pavilion nằm trong Trung tâm Âm nhạc Los Angeles. Rạp The Dorothy Chandler Pavilion là nơi tổ chức 20 đêm trao giải liên tiếp cho đến tận năm 1988, sau đó giải Oscar lại được trao luân phiên ở Trung tâm Âm nhạc và thính phòng Shrine Auditorium. Kể từ năm 2002, Nhà hát Kodak (từ năm 2012 đổi tên là Trung tâm Hollywood và Highland, sau đó là Nhà hát Dolby) của Hollywood trở thành địa điểm tổ chức lâu dài đầu tiên của giải thưởng.

Truyền hình[sửa | sửa mã nguồn]

Tại Hoa Kỳ, lễ trao giải Oscar được truyền hình trực tiếp ở hầu hết lãnh thổ Hoa Kỳ (ngoại trừ Alaska và Hawaii), Vương quốc Anh cùng hàng triệu khán giả khắp thế giới trong khi đó lễ trao giải Emmy, Quả cầu vàng và Giải Grammy chỉ được truyền trực tiếp ở Bờ Đông và phát trễ hơn ở Bờ Tây.

Lễ trao giải Oscar lần đầu được ghi hình năm 1953 bởi hãng NBC. Đến năm 1960 thì quyền truyền hình rơi vào tay hãng ABC (trong đó có buổi truyền hình trực tiếp có màu lần đầu năm 1966) cho đến năm 1970. Năm 1970, NBC giành lại quyền phát sóng trong 5 năm nhưng rồi từ năm 1976, chỉ có ABC được ghi hình buổi lễ này, hợp đồng của ABC với AMPAS hiện kéo dài đến năm 2028[14]. Lễ trao giải lần đầu phát sóng trực tiếp trên toàn thế giới vào năm 1970 qua vệ tinh nhưng chỉ có 2 quốc gia Nam Mỹ là Chile và Brazil mua được bản quyền phát sóng. Sau đó, bản quyền phát sóng được bán cho 50 quốc gia. Một thập kỷ sau, bản quyền đã được bán cho 60 quốc gia và tiếp tục tăng, đến năm 1984, bản quyền giải Oscar được cấp phép ở 76 quốc gia. Trong buổi phát sóng trực tiếp, các hãng phim bị nghiêm cấm phát quảng cáo.

Các hạng mục chính của giải Oscar sẽ được trao trong một buổi lễ trang trọng được truyền hình trực tiếp. Sáu tuần sau khi các ứng cử viên được công bố, buổi lễ được tổ chức rất hào nhoáng theo phong cách Hollywood khi các khách mời bước trên tấm thảm đỏ với những bộ đồ thời trang nhất. Trong vài năm trở lại đây, Viện Hàn lâm thường tuyên bố lễ trao giải của họ có tới hàng tỉ người xem trực tiếp, tuy nhiên thông tin này chưa hề được kiểm chứng bởi các nguồn độc lập và bản thân AMPAS cũng không đưa ra lý do tại sao số người xem lại có thể đạt tới con số lớn như vậy.

Giải Oscar phát lần đầu năm 1953 bởi đài NBC đến năm 1960 và sau đó được phát ABC thay thế. NBC giành lại quyền trực tiếp trong 5 năm (1971-1975), và ABC lại phát sóng trở lại vào năm 1976 và sẽ tiếp tục trực tiếp hằng năm cho đến năm 2028 sau khi hết hợp đồng với Viện Hàn lâm.

Sau hơn 60 năm được tổ chức vào cuối tháng 3 hoặc đầu tháng 4, kể từ năm 2004, buổi trao giải được dịch sớm lên cuối tháng 2 hoặc đầu tháng 3 để rút ngắn quá trình vận động hành lang và quảng cáo. Việc tổ chức sớm hơn cũng đem lại thuận lợi cho hãng ABC vì tháng 2 là tháng có lượng người xem lớn và dễ đem lại lợi nhuận hơn. Một lí do khác là do sự tăng trưởng về lượt xem giải bóng rổ NCAA làm ảnh hưởng đến khán giả Viện Hàn lâm. Và việc chuyển ngày phát sóng từ thứ Ba sang thứ Hai đem lại nhiều lợi ích cho đài ABC vì đem lại tiền lãi nhiều. Một vài năm, lễ trao giải được dời thành ngày Chủ nhật đầu tiên của tháng Ba để tránh gây xung đột với Thế vận hội Mùa đông. Ngoài ra một lý do khác nữa là vì để tránh lễ trao giải quá gần với ngày lễ tôn giáo là lễ Passover và lễ Phục sinh, mà trong nhiều thập kỉ bị phản đối bởi các thành viên và công chúng. Tuy nhiên, việc dời ngày trao giải làm giảm số lượng quảng cáo. Vào năm 2010, Viện Hàn lâm còn muốn chuyển buổi lễ qua cả tháng Giêng. Tuy nhiên nếu kế hoạch tổ chức sớm như vậy thì sẽ làm ảnh hưởng đến thời gian bỏ phiếu bị rút ngắn, làm cho chất lượng đề cử giảm đi đáng kể, đồng thời, việc tổ chức sớm sẽ trùng với giải Bóng bầu dục quốc gia.

Sau nhiều năm tổ chức vào ngày thứ Hai lúc 9 giờ tối (bờ Đông), từ năm 1999, nó được chuyển sang ngày Chủ Nhật lúc 8 giờ 30 (bờ Đông). Nguyên nhân là do nó tránh được việc kẹt xe vào giờ cao điểm ở Los Angeles và giúp cho khán giả bờ Đông có thể ngủ sớm. Trong nhiều năm, nhiều hãng phim phản đối việc phát sóng vào ngày Chủ Nhật bởi vì họ phải cắt đi giờ phim cuối tuần (thường đem lại cho họ rất nhiều lợi nhuận).

Vào lễ trao giải lần thứ 40, buổi lễ phải tạm hoãn trong 2 ngày nguyên nhân là do Martin Luther King bị ám sát. Ngày 30 tháng 3 năm 1981, buổi lễ trao giải đã bị lùi lại một ngày sau sự kiện tổng thống Ronald Reagan bị ám sát hụt.

Về chiều dài phát sóng, buổi lễ thường kéo dài ba tiếng rưỡi. Giải Oscar đầu tiên vào năm 1929 kéo dài 15 phút. Vào buổi lễ năm 2002 kéo dài 4 giờ 23 phút. Trong năm 2010, các nhà tổ chức Giải thưởng Viện hàn lâm đã công bố những bài phát biểu tạm chấp nhận của người đoạt giải thưởng không được vượt quá 45 giây. Điều này, theo nhà tổ chức Bill Mechanic, là để đảm bảo loại bỏ những gì ông gọi là "điều ghét nhất trong chương trình". Trong lễ trao giải năm 2018, dẫn chương trình Jimmy Kimmel đã thông báo rằng anh sẽ tặng một chiếc cano nước hoàn toàn mới và hiện đại nhất cho những người có bài phát biểu ngắn nhất của đêm (một phần thưởng mà Mark Bridges nhận được khi giành giải Oscar dành cho Thiết kế trang phục xuất sắc nhất của anh trong phim Phantom Thread).

Số lượng người xem[sửa | sửa mã nguồn]

Về mặt lịch sử, giải Oscar đã thu hút được một số lượng lớn người xem khi các bom tấn của phòng vé được ưa chuộng để tranh danh hiệu Giải Oscar cho Phim xuất sắc nhất. Hơn 57,25 triệu người xem đã theo dõi chương trình truyền hình cho Giải thưởng Học viện 70 năm 1998, năm Titanic thu được gần 600 triệu đô la Mỹ tại các phòng vé trước giải Oscar ở Bắc Mỹ. Lễ trao giải Academy Awards lần thứ 76, trong đó The Lord of the Rings: Sự trở lại của nhà vua (thu được 368 triệu đô la Mỹ) nhận được 11 giải thưởng bao gồm giải cho phim xuất sắc nhất đã thu hút được 43.56 triệu người xem. Tuy nhiên, lễ trao giải được đánh giá cao nhất dựa trên xếp hạng của Nielsen cho đến nay là giải thưởng của Viện Hàn lâm lần thứ 42 với rating 43,4% vào ngày 7 tháng 4 năm 1970.

Ngược lại, các buổi lễ tôn vinh các bộ phim không đạt được nhiều thành công tại các phòng vé có xu hướng tỉ lệ người xem thấp hơn. Giải thưởng Viện Hàn lâm lần thứ 78, phim Crash (với tổng doanh thu trước giải Oscar là 53,4 triệu USD) với 38,64 triệu khán giả, tỉ lệ ấy tương đương 22,91%, thấp hơn so với giải Oscar 2 năm trước đó. Trong năm 2008, giải thưởng Giải thưởng Viện hàn lâm lần thứ 80 được theo dõi bởi 31,76 triệu người xem với tỷ suất người xem 18,66%, được đánh giá là lễ trao giải được xem là tỉ lệ thấp nhất cho đến nay, mặc dù đây là buổi lễ 80 năm giải thưởng của Học viện.

Mặc dù vẫn chiếm ưu thế trong xếp hạng, lượng người xem của giải đã giảm dần qua từng năm. Sau buổi trình chiếu, Variety khuyến khích ABC đàm phán mở rộng hợp đồng với AMPAS để tìm kiếm ra sự sáng tạo hơn đối với chương trình. Hiện tại, AMPAS chịu trách nhiệm về hầu hết các phần của chương trình, bao gồm cả việc lựa chọn nhân viên sản xuất và ABC được phép có một số ý kiến ​​về quyết định của họ. [65] Vào tháng 8 năm 2016, AMPAS mở rộng hợp đồng với ABC đến năm 2028: hợp đồng không có bất kỳ thay đổi đáng chú ý nào, cũng như không cho ABC bất kỳ sự sáng tạo nào đối với buổi lễ.

Danh sách giải thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Giải thưởng cho đóng góp xuất sắc[sửa | sửa mã nguồn]

Các hạng mục hiện hành[sửa | sửa mã nguồn]

  • Phim hay nhất (Best Picture)
  • Đạo diễn xuất sắc nhất (Best Director)
  • Kịch bản gốc xuất sắc nhất (Best Writing - Original Screenplay)
  • Kịch bản chuyển thể hay nhất (Best Writing - Adapted Screenplay)
  • Nam diễn viên chính xuất sắc nhất (Best Actor)
  • Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất (Best Actress)
  • Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất (Best Supporting Actor)
  • Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất (Best Supporting Actress)
  • Quay phim xuất sắc nhất (Best Cinematography)
  • Thiết kế sản xuất xuất sắc nhất (Best Production Design) (được đổi tên từ Chỉ đạo nghệ thuật xuất sắc nhất - Best Art Direction)
  • Nhạc phim hay nhất (Best Original Score)
  • Ca khúc trong phim hay nhất (Best Original Song)
  • Thiết kế trang phục đẹp nhất (Best Costume Design)
  • Dựng phim xuất sắc nhất (Best Film Editing)
  • Hóa trang xuất sắc nhất (Best Makeup and Hairstyling)
  • Hòa âm hay nhất (Best Sound Mixing)
  • Biên tập âm thanh xuất sắc nhất (Best Sound Editing)
  • Hiệu ứng hình ảnh xuất sắc nhất (Best Visual Effects)
  • Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất (Best Foreign Language Film)
  • Phim hoạt hình hay nhất (Best Animated Feature Film) (giải Oscar mới nhất, chỉ mới được trao từ năm 2001)
  • Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film)
  • Phim tài liệu hay nhất (Best Documentary Features)
  • Phim tài liệu ngắn hay nhất (Best Documentary Short Subject)
  • Phim ngắn hay nhất (Best Live Action Short Film)

Hạng mục đã ngừng trao[sửa | sửa mã nguồn]

  • Trợ lý đạo diễn xuất sắc nhất (Best Assistant Director): trao từ năm 1932 đến năm 1937
  • Đạo diễn phim hài kịch xuất sắc nhất (Best Director, Comedy Picture): 1927, 1928
  • Đạo diễn phim chính kịch xuất sắc nhất (Best Director, Dramatic Picture): 1927, 1928
  • Chỉ đạo múa xuất sắc nhất (Best Dance Direction): trao từ 1935 đến 1937
  • Hiệu ứng kỹ thuật (Best Engineering Effects): chỉ trao năm 1928
  • Âm thanh trong phim ca nhạc hoặc hài kịch xuất sắc nhất (Best Original Musical or Comedy Score): trao từ 1995 đến 1999
  • Phim ca nhạc xuất sắc nhất (Best Original Musical): 1984
  • Phim màu ngắn hay nhất (Best Short Film - Color): trao từ 1936 đến 1937
  • Phim ngắn dài hai cuộn xuất sắc nhất (Best Short Film - Live Action - 2 Reels): trao từ 1936 đến 1956
  • Phim ngắn mới lạ (Short Film—Novelty): trao từ 1932 đến 1935
  • Truyện gốc hay nhất (Best Original Story): trao từ 1928 đến 1956
  • Chất lượng nghệ thuật độc đáo nhất (Best Unique and Artistic Quality of Production): chỉ trao năm 1928

Trong năm đầu tiên, giải Oscar đạo diễn xuất sắc nhất được chia thành hai thể loại phim chính kịch và phim hài kịch. Trong một thời gian dài, giải Oscar âm thanh cũng được chia làm hai thể loại chính kịch và hài kịch phim ca nhạc. Hiện nay chỉ có duy nhất một giải Oscar cho âm thanh. Từ thập niên 1930 đến thập niên 1960, các giải Oscar về quay phim, chỉ đạo nghệ thuật và thiết kế trang phục được chia thành hai thể loại cho phim trắng đen và phim màu.

Hạng mục được đề nghị[sửa | sửa mã nguồn]

Hàng năm Hội đồng quản trị của AMPAS đều họp lại để xem xét các đề nghị về hạng mục giải Oscar mới. Cho đến nay những hạng mục sau vẫn bị từ chối đưa vào danh sách giải thưởng chính thức:

  • Tuyển chọn diễn viên tốt nhất (Best Casting): từ chối năm 1999
  • Đóng thế xuất sắc nhất (Best Stunt Coordination): từ chối mỗi năm từ 1991 đến 2012
  • Tên phim hay nhất (Best Title Design): từ chối năm 1999

Giải thưởng đặc biệt[sửa | sửa mã nguồn]

Các giải này được bầu chọn bởi những ủy ban đặc biệt chứ không phải toàn bộ thành viên Viện Hàn lâm. Họ luôn luôn không được giới thiệu trong lễ trao giải

Hạng mục hiện hành[sửa | sửa mã nguồn]

  • Giải danh dự (Academy Honorary Award): từ năm 1929
  • Cống hiến đặc biệt (Academy Special Achievement Award): từ năm 1972 đến năm 1995 và năm 2017
  • Giải khoa học kỹ thuật (Academy Award, Scientific or Technical): từ năm 1931
  • Giải Tưởng niệm Irving G. Thalberg: từ năm 1938
  • Giải thưởng nhân đạo Jean Hersholt: từ năm 1957
  • Giải Gordon E. Sawyer: từ năm 1981

Hạng mục đã ngừng trao[sửa | sửa mã nguồn]

  • Giải cho thiếu nhi (Academy Juvenile Award): trao từ 1934 đến 1960

Quà tặng[sửa | sửa mã nguồn]

Đây đã trở thành một truyền thống, những món quà được tặng cho các diễn giả và người biểu diễn tại Oscar sau buổi lễ. Trong những năm gần đây, những món quà này cũng đã được mở rộng để trao cho những ứng cử viên và người chiến thắng. Giá trị của mỗi túi quà tặng này có thể lên đến hàng chục nghìn đô la. Vào năm 2014, giá trị được báo cáo lên đến 80.000 USD. Giá trị món quà đã tăng lên đến mức Dịch vụ Doanh thu Nội địa Hoa Kỳ đã ban hành một điều luật về quà tặng và khả năng đánh thuế họ. Các món quà tặng của Oscar bao gồm gói du lịch đến Hawaii, Mexico và Nhật Bản, bữa tiệc riêng cho người được nhận và bạn bè tại nhà hàng, điện thoại video, bốn đêm ở khách sạn sang trọng, đồng hồ, vòng tay, spa, rượu vodka, và kẹo giảm cân.

Lượng người theo dõi và tiền quảng cáo[sửa | sửa mã nguồn]

Từ năm 2006 trở đi, thông tin về lượng người xem và tiền quảng cáo sẽ được cập nhật.

Năm Lượng người xem

(triệu người)

Tiền quảng cáo

(triệu USD)

2018 26.5 Không có số liệu
2017 32.9 Không có số liệu
2016 34.3 Không có số liệu
2015 37.26 1.95
2014 43.74 1.8 - 1.9
2013 40.376 1.65 - 1.8
2012 39.46 1.61
2011 37.919 1.3684
2010 41.699 1.1267
2009 36.31 1.3
2008 32.006 1.82
2007 40.172 1.6658
2005 38.939 1.6468
2004 43.531 1.5031
2003 33.043 1.3458
2002 41.782 1.29
2001 42.944 1.45
2000 46.333 1.305
1999 45.615 1
1998 55.249 0.95
1997 40.075 0.85
1996 44.867 0.795
1995 48.279 0.7
1994 45.083 0.6435
1993 45.735 0.6078
1992 44.406 Không có số liệu
1991 44.727 Không có số liệu
1990 40.375 0.45
1989 42.619 0.375
1988 42.227 0.36
1987 37.190 0.335
1986 37.757 0.32
1985 38.855 0.315
1984 42.051 0.275
1983 53.235 0.245
1982 46.245 Không có số liệu
1981 39.919 Không có số liệu
1980 48.878 Không có số liệu
1979 46.301 Không có số liệu
1978 48.501 Không có số liệu
1977 39.719 Không có số liệu
1976 46.751 Không có số liệu
1975 48.127 Không có số liệu
1974 44.712 Không có số liệu

Thống kê[sửa | sửa mã nguồn]

Phim xếp theo số đề cử[sửa | sửa mã nguồn]

  • 14 đề cử
    • All about Eve, 20th Century Fox, 1950 (đoạt 6 giải)
    • Titanic, 20th Century Fox và Paramount Pictures, 1997 (đoạt 11 giải)
    • La La Land, 2017 (đoạt 6 giải)
  • 13 đề cử
    • Cuốn theo chiều gió, Metro-Goldwyn-Mayer, 1939 (đoạt 8 giải, thêm 1 giải đặc biệt và 1 giải kỹ thuật)
    • From Here to Eternity, Columbia Pictures, 1953 (đoạt 8 giải)
    • Mary Poppins, Buena Vista Distribution Company, 1964 (đoạt 5 giải)
    • Who's Afraid of Virginia Woolf?, Warner Bros., 1966 (đoạt 5 giải)
    • Forrest Gump, Paramount Pictures, 1994 (đoạt 6 giải)
    • Shakespeare đang yêu, Miramax Films, 1998 (đoạt 7 giải)
    • Chúa tể của những chiếc nhẫn: Hiệp hội Nhẫn thần, New Line, 2001 (đoạt 4 giải)
    • Chicago, Miramax Films, 2002 (đoạt 6 giải)
  • 12 đề cử
    • Mrs. Miniver, Metro-Goldwyn-Mayer, 1942 (đoạt 6 giải)
    • The Song of Bernadette, 20th Century Fox, 1943 (đoạt 4 giải)
    • Johnny Belinda, Warner Bros., 1948 (đoạt 1 giải)
    • Chuyến tàu mang tên dục vọng, Warner Bros., 1951 (đoạt 4 giải)
    • On the Waterfront, Columbia Pictures, 1954 (đoạt 8 giải)
    • Ben-Hur (phim 1959), Metro-Goldwyn-Mayer, 1959 (đoạt 11 giải)
    • Becket, Paramount Pictures, 1964 (đoạt 1 giải)
    • My Fair Lady, Warner Bros., 1964 (đoạt 8 giải)
    • Reds, Paramount Pictures, 1981 (đoạt 3 giải)
    • Khiêu vũ với bầy sói, Orion Pictures, 1990 (đoạt 7 giải)
    • Bản danh sách của Schindler, Universal Studios, 1993 (đoạt 7 giải)
    • Bệnh nhân người Anh, Miramax Films, 1996 (đoạt 9 giải)
    • Võ sĩ giác đấu, DreamWorks và Universal Studios, 2000 (đoạt 5 giải)
  • 11 đề cử
    • Mr. Smith Goes to Washington, Columbia Pictures, 1939 (đoạt 1 giải)
    • Rebecca, United Artists, 1940 (đoạt 2 giải)
    • Sergeant York, Warner Bros., 1941 (đoạt 2 giải)
    • The Pride of the Yankees, RKO Radio, 1942 (đoạt 1 giải)
    • Sunset Boulevard, Paramount Pictures, 1950 (đoạt 3 giải)
    • Judgment at Nuremberg, United Artists, 1961 (đoạt 2 giải)
    • Câu chuyện phía tây, United Artists, 1961 (đoạt 10 giải)
    • Oliver!, Columbia Pictures, 1968 (đoạt 5 giải, thêm 1 giải danh dự)
    • Chinatown, Paramount Pictures, 1974 (đoạt 1 giải)
    • Bố già phần II, Paramount Pictures, 1974 (đoạt 6 giải)
    • Julia, 20th Century Fox, 1977 (đoạt 3 giải)
    • The Turning Point, 20th Century Fox, 1977 (không đoạt giải nào)
    • Gandhi, Columbia Pictures, 1982 (đoạt 8 giải)
    • Terms of Endearment, Paramount Pictures, 1983 (đoạt 5 giải)
    • Amadeus, Orion Pictures, 1984 (đoạt 8 giải)
    • A Passage to India, Columbia Pictures, 1984 (đoạt 2 giải)
    • The Color Purple, Warner Bros., 1985 (không đoạt giải nào)
    • Out of Africa, Universal Studios, 1985 (đoạt 7 giải)
    • Giải cứu binh nhì Ryan, DreamWorks/Paramount Pictures, 1998 (đoạt 5 giải)
    • Chúa tể của những chiếc nhẫn: Sự trở lại của nhà vua, New Line, 2003 (đoạt 11 giải)
    • The Aviator, Miramax Films, Initial Entertainment Group và Warner Bros., 2004 (đoạt 5 giải)

Phim xếp theo số giải giành được[sửa | sửa mã nguồn]

  • 11 giải
    • Ben-Hur (phim 1959), Metro-Goldwyn-Mayer, 1959 (12 đề cử)
    • Titanic, 20th Century Fox và Paramount, 1997 (14 đề cử)
    • Chúa tể của những chiếc nhẫn: Sự trở lại của nhà vua, New Line, 2003 (11 đề cử)
  • 10 giải
    • Câu chuyện phía tây, United Artists, 1961 (11 đề cử)
  • 9 giải
    • Cuốn theo chiều gió, Metro-Goldwyn-Mayer, 1939 (13 đề cử)
    • Hoàng đế cuối cùng, 1987 (9 đề cử)
    • Bệnh nhân người Anh, Miramax Films, 1996 (12 đề cử)
    • Gigi, Metro-Goldwyn-Mayer, 1958 (9 đề cử)
  • 8 giải
    • From Here to Eternity, Columbia Pictures, 1953 (13 đề cử)
    • On the Waterfront, Columbia Pictures, 1954 (12 đề cử)
    • My Fair Lady, Warner Bros., 1964 (12 đề cử)
    • Cabaret, Metro-Goldwyn-Mayer, 1972 (10 đề cử)
    • Gandhi, Columbia Pictures, 1982 (11 đề cử)
    • Amadeus, Orion Pictures và Warner Bros., 1984 (11 đề cử)
    • Slumdog Millionaire, Fox Searchlight Pictures, 2008 (10 đề cử)

Phim đoạt 5 giải quan trọng[sửa | sửa mã nguồn]

  • It Happened One Night, 1934
Đạo diễn: Frank CapraNam diễn viên chính: Clark GableNữ diễn viên chính: Claudette ColbertKịch bản: Robert Riskin
  • Bay trên tổ chim cúc cu (One Flew over the Cuckoo's Nest), 1975
Đạo diễn: Milos FormanNam diễn viên chính: Jack NicholsonNữ diễn viên chính: Louise FletcherKịch bản: Lawrence Hauben và Bo Goldman
  • Sự im lặng của bầy cừu (The Silence of the Lambs), 1991
Đạo diễn: Jonathan DemmeNam diễn viên chính: Anthony HopkinsNữ diễn viên chính: Jodie FosterKịch bản: Ted Tally

Chỉ trích[sửa | sửa mã nguồn]

Các bộ phim[sửa | sửa mã nguồn]

Cũng như nhiều giải thưởng danh giá khác, giải Oscar thường xuyên gặp phải chỉ trích. Những người chỉ trích cho rằng có nhiều bộ phim giành giải Phim hay nhất trong quá khứ không còn nhiều giá trị theo thời gian. Một số phim như 80 ngày vòng quanh Thế giới, Grand Hotel hay The Greatest Show on Earth thường được coi là có tuổi thọ ngắn ngủi và ít có ảnh hưởng trong lần trình chiếu ra mắt[15][16][17]. Trong khi đó một số phim khác được coi là rất xứng đáng để trao giải thì lại chưa bao giờ vươn tới được danh hiệu Phim hay nhất[18]. Ví dụ tiêu biểu nhất phải kể tới bộ phim kinh điển Công dân Kane vốn được giới phê bình ủng hộ nhiệt liệt, được đề cử tới 9 giải Oscar nhưng chỉ mang về duy nhất một giải cho Kịch bản gốc xuất sắc nhất. Sau này Công dân Kane được coi là một trong những bộ phim xuất sắc nhất trong lịch sử Điện ảnh Hoa Kỳ. Một bộ phim xuất sắc khác là The Shawshank Redemption được đề cử 7 giải Oscar nhưng thậm chí còn không giành được giải nào, mặc dù nó vẫn luôn được xếp vào hàng những bộ phim hay nhất của mọi thời đại trên trang web uy tín IMDb. Để cạnh tranh trong hạng mục danh giá nhất này, các hãng phim cũng tiến hành rất nhiều cuộc vận động hành lang, và nhiều người cho rằng đôi khi những đề cử cho hạng mục Phim hay nhất lại là kết quả của những cuộc vận động hành lang hơn là chất lượng thực sự của những bộ phim đó[19].

Nhiều chỉ trích còn nhằm vào một sự thật là các đề cử hầu như chỉ dành cho các bộ phim nói tiếng Anh, trừ đề cử cho hạng mục Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất. Cho đến năm 2013, mới chỉ có 9 bộ phim nói tiếng nước ngoài được đề cử cho hạng mục Phim hay nhất, đó là các phim Grand Illusion (tiếng Pháp, 1938), Z (tiếng Pháp, 1969), The Emigrants (tiếng Thụy Điển, 1972), Cries and Whispers (tiếng Thụy Điển, 1973), Il Postino (tiếng Ý và tiếng Tây Ban Nha, 1995), Cuộc sống tươi đẹp (tiếng Ý, 1998), Ngọa hổ tàng long (tiếng Quan thoại, 2000), Letters from Iwo Jima (tiếng Nhật Bản, 2006) và Amour (tiếng Pháp, 2012). Cho đến thời điểm hiện tại, Ký sinh trùng là bộ phim nước ngoài duy nhất đạt giải thưởng này.

Trong số ít các phim sản xuất tại nước ngoài giành giải Phim hay nhất, gần đây nhất có Slumdog Millionaire (Anh và Ấn Độ, 2008), The King's Speech (Anh, 2010) và The Artist (Pháp, 2011).

Quảng cáo thương mại[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi nhận được đề cử các bộ phim, các xưởng phim dành hàng triệu USD và thuê chuyên gia quảng cáo đặc biệt để giới thiệu cho bộ phim của mình trong thời gian được gọi là "mùa giải Oscar". Điều này đã gây ra cáo buộc Viện Hàn lâm bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi tiếp thị nhiều hơn là chất lượng phim. William Friedkin, đạo diễn bộ phim từng đoạt giải Oscar và là cựu nhà sản xuất của buổi lễ, đã phát biểu tại một hội nghị ở New York vào năm 2009, mô tả nó như là "kế hoạch quảng bá lớn nhất mà bất kỳ ngành công nghiệp nào đã từng thực hiện".

Sự thiên vị[sửa | sửa mã nguồn]

Những lời chỉ trích điển hình của Giải Oscar cho phim xuất sắc nhất, những người đoạt giải và đề cử có sự thiên vị trong ban bầu chọn.

Phân biệt chủng tộc[sửa | sửa mã nguồn]

Viện Hàn lâm đã nhận được nhiều lời chỉ trích về việc phân biệt chủng tộc trong số những người được đề cử. Lễ trao giải lần thứ 88 đã trở thành đỉnh điểm của một cuộc tẩy chay, dựa trên việc bầu chọn của các nhà phê bình rằng danh sách các ứng cử viên toàn là người da trắng. Đáp lại, Viện Hàn lâm đã khởi xướng những thay đổi trong lịch sử "có tính lịch sử" vào năm 2020.

Từ chối giải thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Một số người chiến thắng của Giải Oscar đã tẩy chay các buổi lễ và do đó từ chối nhận giải Oscar của họ.

Người đầu tiên làm như vậy là nhà biên kịch Dudley Nichols (cho giải Oscar dành cho Kịch bản gốc xuất sắc nhất năm 1935 của phim The Informer). Nichols tẩy chay lễ trao giải Academy Awards lần thứ 8 vì cuộc xung đột giữa Học viện và Hiệp hội Nhà văn [89] Nichols cuối cùng đã chấp nhận giải thưởng năm 1935 ba năm sau đó, tại lễ 1938. Nichols đã được đề cử ba giải Academy Awards khác trong sự nghiệp của mình.

George C. Scott đã trở thành người thứ hai từ chối nhận giải cho Nam diễn viên xuất sắc nhất vào năm 1970 trong phim Patton) tại lễ trao giải lần thứ 43.

Người thứ ba từ chối nhận giải là Marlon Brando cho Nam diễn viên xuất sắc nhất trong phim Bố già năm 1972), ông nói rằng có sự phân biệt đối xử và ngược đãi của người Mỹ bản địa trong ngành công nghiệp điện ảnh Hoa Kỳ. Tại lễ trao giải Oscar lần thứ 45 đó, Brando đã gửi một nữ diễn viên và nhà hoạt động vì quyền công dân Sacheen Littlefeather đọc bài phát biểu gồm 15 trang chỉ rõ những lời chỉ trích của ông.

Thương hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

Thuật ngữ "Oscar" là một nhãn hiệu đã đăng kí tên thương mại bởi AMPAS; tuy nhiênvới tiếng Ý, nó được sử dụng rộng rãi để tham khảo bất kỳ giải thưởng hoặc lễ trao giải, bất kể trường hợp nào.

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Danh sách bình chọn của Viện phim Mỹ

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • K. Gail & J. Piazza, The Academy Awards the Complete History of Oscar, Black Dog & Leventhal Publishers, Inc., 2002.
  • Jon Wright, The Lunacy of Oscar; The Problems with Hollywood's Biggest Night, Thomas Publishing, Inc, 2007.

  1. ^ “Về Giải thưởng Viện Hàn lâm, Academy of Motion Picture Arts and Sciences”. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2007.
  2. ^ The men who are counting on Oscar, BBC News
  3. ^ Điều 2:Điều kiện tranh giải, Academy of Motion Picture Arts and Sciences
  4. ^ Academy Invites 115 to Become Members, Academy of Motion Picture Arts and Sciences
  5. ^ “Điều 5: Việc bỏ phiếu và đề cử, Academy of Motion Picture Arts and Sciences”. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 5 năm 2007. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2007.
  6. ^ Oscar Statuette: Legacy, Academy of Motion Picture Arts and Sciences
  7. ^ Academy to Commemorate Oscar Designer Cedric Gibbons, Academy of Motion Picture Arts and Sciences
  8. ^ Oscar Statuette: Manufacturing, Shipping and Repairs, Academy of Motion Picture Arts and Sciences
  9. ^ Tự truyện Bette Davis, The Internet Movie Database
  10. ^ Emanuel Levy, All About Oscar: The History and Politics of the Academy Awards, Continuum, New York, ISBN 0-8264-1452-4
  11. ^ A Brief History of Oscar, Academy of Motion Picture Arts and Sciences
  12. ^ “Psst! Wanna Buy An Oscar?, Lacey Rose, Forbes”. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2012.
  13. ^ “Oscars Award Venues, Academy of Motion Picture Arts and Sciences”. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 12 năm 2006. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2007.
  14. ^ ABC and Academy Extend Oscar Telecast Agreement, Academy of Motion Picture Arts and Sciences
  15. ^ “Reviewed: Around the World in 80 Days, Movie City News”. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2007.
  16. ^ The Greatest Show on Earth, Rottentomatoes
  17. ^ “Reviewed: The Poseidon Adventure, Roger Ebert”. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2007.
  18. ^ Academy Awards Mistakes and Omissions, Tim Dirks
  19. ^ Rebecca Thomason, How Bafta moved with the times, BBC News

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Top 10 lựa chọn giả tưởng ở vòng đầu tiên năm 2022
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Giải Oscar.
Top 10 lựa chọn giả tưởng ở vòng đầu tiên năm 2022
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Giải Oscar.
  • Giải Oscar lần thứ 83, 2011
  • Giải Oscar trên Internet Movie Database
  • Trang web chính thức của Giải Oscar
  • Dữ liệu về các giải Oscar Lưu trữ 2008-09-13 tại Wayback Machine
  • Oscar 2006 - Một Oscar chia đều các giải

Aug 27, 2022

  • Tristan H. Cockcroft

There are few worries during fantasy football draft season that unnecessarily weigh on managers' minds more than the annual selection of your draft position.

We fret this chore to a degree we shouldn't, perhaps because of the perceived importance of that precious first-round pick. It's important, and we certainly want to be sure to make the right one while avoiding costly mistakes. Additionally, draft order drawn in close proximity to the draft itself provides the added frustration of managers hoping to build around Jonathan Taylor having zero chance at getting him, if they don't draw the requisite draft slot.

Well, fret no longer. It is in this space annually that I provide you a handy roadmap to the first two rounds of your fantasy football draft, outlining the best options and showing how things might play out in subsequent rounds depending upon your picks. This helps show the twists and turns you'll experience in a 10- or 12-team, standard PPR fantasy draft, giving you the best chance at making the wisest pick.

As always, I've provided my own recommended selections for each of the first 20 picks in a 10-team league, and 24 picks in a 12-team league.


Draft slot 1

Round 1 (Pick 1 overall): Any arguments supporting Christian McCaffrey or one of the top two wide receivers with the No. 1 overall pick are long shots, as Jonathan Taylor very clearly stands a step ahead of the rest of the player pool in any single-QB fantasy format (Josh Allen is a better choice in any two-quarterback or superflex league). Taylor is 23 years old, led his position by nearly 40 points, and is likely to repeat his 66.5% backfield share. There's no wiser choice.

Round 2 (Pick 20 in 10-team, Pick 24 in 12-team): With the safety and middle-of-his-prime of Taylor in tow, fantasy teams have flexibility with their next two picks (counting the Round 3/Pick 21 or 25 selections), one of which should almost assuredly be a wide receiver or tight end. It's conceivable that a CeeDee Lamb, Tyreek Hill, Keenan Allen or Mark Andrews (in that order of my drafting preference) lasts to this position, especially in a 10-teamer, but embrace the gift RB2 handed to you if there's an early run on the receiving spots. Javonte Williams, Leonard Fournette and Aaron Jones have been known to make it to this pick in early drafts. Saquon Barkley, too, is an out-there, contrast pick to Taylor.

Tristan's picks: Taylor/Jones (10-team league), Taylor/Barkley (12-team league).


Draft slot 2

Round 1 (Pick 2): McCaffrey is the grand wild card of the entire 2022 fantasy football draft. In the past four seasons, his 25.6 PPR fantasy points per game is by far the most by any player at any position (minimum 40 games), and he has scored at least 20 points in 32 of 38 games in which he played 30-plus snaps. You're not going to find much richer reward from a No. 2 overall pick, though the case for those top wide receivers rings much more loudly here once Taylor is off the board. You wouldn't be wrong to pick Cooper Kupp or Justin Jefferson, and in fact, Jefferson would be my sneaky-bold pick at the No. 2 overall spot.

Round 2 (Pick 19 in 10-team, Pick 23 in 12-team): McCaffrey's risk, however, should not be ignored, especially with the importance of the return on your first-round investment. He has, after all, missed 23 of the Carolina Panthers' 33 games the past two seasons. Taking McCaffrey almost assures the need for a high-floor second-rounder, with the difficult decision being whether to draft the historically safer wide receiver position or a RB2 with greater reliability. Seeing the picks laid out in this way, your decision ultimately comes down to which you prefer: McCaffrey and, say, Hill; or Kupp and perhaps Jones? Bear in mind that, in a 10-team league, a fantasy manager has a very real chance at a McCaffrey-Williams-Hill start, which is a dream first three picks.

Tristan's picks: McCaffrey/Hill (10-team league), McCaffrey/Allen (12-team league).


Draft slot 3

Round 1 (Pick 3): If Kupp and Jefferson were close in value to McCaffrey at the No. 2 spot, one of that trio will presumably go here. I'm working under the assumption that McCaffrey will be the most common No. 2 overall pick, in which case I see picks 3 through 5 as Kupp, Jefferson and best-remaining-running-back Austin Ekeler, in your order of preference. For me, they're almost entirely a toss-up.

Round 2 (Pick 18 in 10-team, Pick 22 in 12-team): This is where getting Kupp or Jefferson pays potentially huge dividends. At pick 18, a fantasy manager in a 10-team league has an outside chance at Joe Mixon, D'Andre Swift or Williams lasting this far, which would be one heck of a start to your draft. Even if not, settling for a Fournette or Jones is hardly shabby. Frankly, one of the reasons I love the Nos. 3-5 draft slots is the heightened likelihood I'll have a good chance at Jefferson and Williams, two of my favorite picks in the first two rounds. It's also not a bad idea, especially in a 12-team league, to snatch up Andrews here. Tight end has been notoriously described as "easy to fill" in the late rounds, but what's often overlooked is the statistical advantage that the position's two best provide over the rest of the position. Not everyone does, but I have Travis Kelce and Andrews as very clear top-two-rounds picks in 12-teamers.

Các lựa chọn của Tristan: Kupp/Williams (giải đấu 10 đội), Kupp/Andrew (giải đấu 12 đội). Kupp/Williams (10-team league), Kupp/Andrews (12-team league).


Dự thảo khe 4

Vòng 1 (Chọn 4): Đây là địa điểm đầu tiên mà tôi đi chệch hướng tùy thuộc vào độ sâu của giải đấu. Ekeler và Jefferson, cho đến nay, hai cầu thủ hay nhất còn lại trong bảng dự thảo của tôi, là những loại tầng cao, trở lại vào đầu tư, nhưng vì những người nhận rộng thường phù hợp với mô tả sau đó, tôi nghiêng về đó giải đấu sâu hơn. Đây có lẽ là vị trí dự thảo có khả năng nhất mà bạn sẽ ra mắt với Jefferson-Williams và với chiến thắng tiềm năng lớn hơn, các nhà quản lý ở vị trí này trong một giải đấu 12 đội có cơ hội rất thực tế để có được Michael Pittman Jr. Hoặc Kyle Pitts trong vòng 3, đó là một chiến thắng tiềm năng khác. This is the first spot where I'd deviate in picks depending upon the depth of the league. Ekeler and Jefferson, by far the best two players remaining on my draft board, are high-floor, return-on-investment types, but as wide receivers typically fit that latter description best, I'm leaning there the deeper the league. This is probably the most likely draft slot from which you'd come out with Jefferson-Williams, and for an even bigger prospective win, managers in this spot in a 12-team league have a very real chance at getting either Michael Pittman Jr. or Kyle Pitts in Round 3, which is another potential win.

Vòng 2 (chọn 17 trong 10 đội, chọn 21 trong 12 đội): Đây có lẽ là vị trí sớm nhất mà người quản lý 10 đội nên xem xét số 2 kết thúc chặt chẽ của Andrew, và điều đó có lẽ quan trọng hơn trong một giải đấu có Chỉ được phác thảo nhẹ chạy trở lại, đảm bảo bạn vẫn có thể nhận được một Jones, Barkley hoặc Nick Chubb ở Vòng 3. Tôi khuyên bạn nên đi RB-WR hoặc WR-RB từ vị trí này, xem xét những gì có khả năng ở đó cho bạn trong vòng 2. This is probably the earliest position from which a 10-team manager should consider No. 2 tight end Andrews, and that's probably more important in a league that has only lightly drafted running backs, ensuring you could still get a Jones, Barkley or Nick Chubb in Round 3. I'd advise going RB-WR or WR-RB from this spot, considering what's likely to be there for you in Round 2.

Tristan's Picks: Ekeler/Debo Samuel (giải đấu 10 đội), Jefferson/Fournette (giải đấu 12 đội) Ekeler/Deebo Samuel (10-team league), Jefferson/Fournette (12-team league)


Dự thảo khe 5

Vòng 1 (Chọn 5): Tôi muốn nói rằng tôi thuộc thiểu số về điều này, nhưng nhìn thấy Jefferson đã không vượt qua được 7 trong hơn 300 bản nháp NFFC trong tháng này, tôi sẽ nhấn mạnh rằng bạn không nên cho phép Anh ta lẻn qua lựa chọn tổng thể thứ năm của một bản nháp PPR. Giả sử Ekeler đã biến mất, việc chạy lại có sẵn để bạn mang, chỉ cần đặt, quá nhiều câu hỏi liên quan đến sức khỏe hoặc hỗ trợ nhóm để đảm bảo chọn một trong những người nhận hàng đầu của trò chơi. Ekeler mang đến sự ổn định khá nhiều vai trò và đội ngũ của đội so với Derrick Henry, Najee Harris hoặc Dalvin Cook. I'd say I'm in the minority on this, but seeing as Jefferson hasn't made it past Pick 7 in more than 300 NFFC drafts this month, I'll stress that you should not allow him to sneak past the fifth overall pick of a PPR draft. Assuming Ekeler is already gone, the running backs available to you bring, simply put, too much health-related or team-support questions to warrant selecting over one of the game's premier wide receivers. Ekeler brings quite a bit more role and team stability than Derrick Henry, Najee Harris or Dalvin Cook.

Vòng 2 (chọn 16 trong 10 đội, chọn 20 trong 12 đội): năm điểm có lẽ là vị trí dự thảo yêu thích của tôi là năm 2022 vì tôi đã bỏ qua tài năng ngay sau đó và ghi được một Jefferson hoặc Ekeler, bất kể của giải đấu 10 hoặc 12 đội, đưa ra các tùy chọn trong vòng thứ hai. Không có gì sai khi đi RB-RB, đặc biệt là nếu ghi được một Williams, Alvin Kamara, Fournette hoặc Jones. Cũng không có gì sai khi đi WR-WR, và Jefferson-Lamb sẽ là một trong những cặp đôi thống trị. Ngẫu nhiên, trong một giải đấu 10 đội, đây là lần mới nhất tuyệt đối mà tôi sẽ để Kelce trượt dựa trên các dự đoán của tôi. The five-spot is probably my favorite draft position of 2022 because of my projected drop-off in talent directly afterward, and scoring a Jefferson or Ekeler, regardless of 10- or 12-team league, gives options in the second round. There's nothing wrong with going RB-RB, especially if scoring a Williams, Alvin Kamara, Fournette or Jones. There's also nothing wrong with going WR-WR, and Jefferson-Lamb would be one heck of a dominating pairing. Incidentally, in a 10-team league, this is the absolute latest I would let Kelce slip based on my projections.

Tristan's Picks: Jefferson/Kamara (giải đấu 10 đội), Ekeler/Jones (League 12 đội) Jefferson/Kamara (10-team league), Ekeler/Jones (12-team league)


DRAFT SLOT 6

Vòng 1 (Chọn 6): Bây giờ nó trở nên thú vị. Các nhà quản lý tưởng tượng có một số hướng khác nhau để đi, và đánh giá bởi hầu hết các khoản hoàn trả đầu tiên (đặc biệt là ADP), Harris sẽ là lựa chọn phổ biến nhất nếu chưa ra khỏi hội đồng quản trị. Tôi nghĩ về anh ấy là một trong những người chạy trên tầng cao nhất-do vai trò bị khóa của anh ấy-nhưng câu hỏi nếu trần của anh ấy mở rộng cao như của McCaffrey, Henry hay Cook. Ngoài ra, Ja'Marr Chase, tân binh tấn công năm 2021 của năm, trở thành một lựa chọn hoàn toàn hợp pháp ở đây. Đó là một câu hỏi triết học mà bạn cần để tự hỏi mình trước dự thảo, để được chuẩn bị đúng cách có nên đưa Harris đến đây hay hai điểm sau khi tôi có anh ta bị đánh dấu. Henry là lựa chọn ưa thích của tôi, một lựa chọn rủi ro/phần thưởng giống như McCaffrey, trong tám tuần năm 2021, có điểm giả tưởng PPR thứ ba (193.3) của bất kỳ ai trong bóng đá, và hơn 40 người khác. Now it gets interesting. Fantasy managers have several different directions to go, and judging by most early draft returns (ADPs, especially), Harris will be the most common pick if not already off the board. I think of him as one of the highest-floor running backs -- due to his locked-in role -- but question if his ceiling expands as high as that of McCaffrey, Henry or Cook. Additionally, Ja'Marr Chase, the 2021 Offensive Rookie of the Year, becomes an entirely legitimate choice here. It's a philosophical question you need to ask yourself in advance of the draft, to be properly prepared whether to take Harris here or two spots later as I have him slotted. Henry is my preferred choice, a McCaffrey-like risk/reward pick who, through eight weeks of 2021, had the third-most PPR fantasy points (193.3) of anyone in football, and 40-plus more than any other running back.

Vòng 2 (chọn 15 trong 10 đội, chọn 19 trong 12 đội): Đội chọn Henry gần như chắc chắn sẽ mong muốn một số an toàn từ lựa chọn vòng hai của nó, và điều đó có thể có nghĩa là hy vọng về Lamb, Samuel hoặc Hill giữa những người nhận rộng . Tuy nhiên, nếu Joe Mixon hoặc Travis Kelce bằng cách nào đó trượt, hãy coi đó là một món quà. The team that selects Henry almost assuredly will desire some safety from its second-round pick, and that probably means hoping for Lamb, Samuel or Hill among wide receivers. If Joe Mixon or Travis Kelce somehow slips, however, consider it a gift.

Tristan's Picks: Henry/Lamb (giải đấu 10 đội), Henry/Hill (giải đấu 12 đội) Henry/Lamb (10-team league), Henry/Hill (12-team league)


Dự thảo khe 7

Vòng 1 (Chọn 7): Nửa sau của vòng đầu tiên là nơi các vị trí chạy trên những cạm bẫy tiềm năng, và trong các giải đấu, nơi có năm lần chạy trở lại đã biến mất, việc tiếp tục chạy theo ấn tượng sai lầm rằng họ 'thường rất hấp dẫn khi họ' sẽ nhanh chóng khô. Đối với tôi, Chase là một tài năng hàng đầu rõ ràng, và anh ấy phù hợp với mô tả tầng cao hơn mà các máy thu rộng thường làm, điều mà tôi đã viết trước đây không nên được đánh giá thấp trong các vòng mở đầu quan trọng này. Không có gì sai khi chạy trở lại với lựa chọn thứ bảy, với Henry (nếu vẫn có sẵn), Harris, Cook và Mixon cho đến nay là những ứng cử viên logic nhất, nhưng tôi đã đuổi theo giá trị của Kupp và Jefferson hơn là Davante Adams và Stefon Diggs. The latter half of the first round is where positional runs present potential pitfalls, and in leagues where as many as five running backs have already gone, it's often tempting to continue the run under the mistaken impression that they'll quickly dry up. For me, Chase is a clear top-eight-overall talent, and he fits the higher-floor description that wide receivers typically do, something I've written previously shouldn't be understated in these critical opening rounds. There's nothing wrong with going running back with the seventh pick, with Henry (if still available), Harris, Cook and Mixon by far the most logical candidates, but I grade Chase as closer in value to Kupp and Jefferson than to Davante Adams and Stefon Diggs.

Vòng 2 (chọn 14 trong 10 đội, chọn 18 trong 12 đội): Một lý do khác khiến tôi phải ủng hộ ở vị trí thứ bảy là khả năng nâng cao rằng việc chạy trở lại sẽ là người chơi tốt nhất hợp lý nhất có sẵn tại Vòng dự thảo của Vòng này 2 Chọn. Adams và Diggs hầu như sẽ luôn luôn biến mất, có nghĩa là một số ngắt ngón tay mà Kelce, Lamb hoặc Samuel vẫn còn ở ngoài đó. Những người chọn Chase nên thích chạy lại ở đây, vì rất có khả năng mỗi một trong số 15 vị trí sẽ được đưa ra khỏi bảng bởi lựa chọn vòng 3 của đội này, và trong khi chạy lại thứ 16 của tôi, Cam Akers, là một Lựa chọn vòng ba tốt cho đội này, bất cứ ai bên dưới anh ta sẽ đại diện cho một phạm vi. Another reason I'm pro-Chase at seventh overall is the enhanced likelihood that a running back will be the most logical best player available at this draft slot's Round 2 pick. Adams and Diggs will almost always be gone, meaning some finger-crossing that Kelce, Lamb or Samuel is still out there. Those who pick Chase should prefer the running back here anyway, as it's pretty likely that every one of the positional top 15 will be off the board by this team's Round 3 pick, and while my 16th-ranked running back, Cam Akers, is a fine third-round pick for this team, anyone beneath him would represent a reach.

Tristan's Picks: Chase/Swift (giải đấu 10 đội), Chase/Williams (giải đấu 12 đội) Chase/Swift (10-team league), Chase/Williams (12-team league)


Kickoff sắp ra mắt! Đăng ký cho bóng đá giả tưởng ESPN ngày hôm nay. Chơi miễn phí


DRAFT SLOT 8

Vòng 1 (Chọn 8): Chạy trở lại có vẻ như là cách để đến đây, giả sử tất cả các máy thu rộng hàng đầu là ra khỏi bảng, và các nhà quản lý tưởng tượng thường nên có một lựa chọn tốt từ tầng vị trí Harris, Cook và Mixon. Lựa chọn tổng thể thứ tám, ít nhất là theo số liệu của tôi, là lần đầu tiên mà Kelce nên đi vào tâm trí bạn. Không phải chỉ một năm trước mà Kelce là một tài năng vòng một rõ ràng? Chắc chắn, việc sản xuất giả tưởng của anh giảm dần, trong khi mức độ thay thế của vị trí tăng lên, nhưng đó không phải là do lợi nhuận kịch tính nhận thấy. Trên thực tế, Kelce chỉ mất bốn điểm trên mức trung bình trên mỗi trận đấu của mình, với vai trò năm 2022 của anh ấy có khả năng mở rộng sau giao dịch của Hill. Trong khi đó, số 11 và 13 kết thúc chặt chẽ chỉ đạt được trung bình khoảng ba phần tư điểm, với những điểm bên ngoài 20 hằng số còn lại. Running back seems like the way to go here, assuming all top-three wide receivers are off the board, and fantasy managers should generally have a fine choice from the Harris, Cook and Mixon positional tier. The eighth overall pick, at least according to my metrics, is the first at which Kelce should enter your mind. Wasn't it only a year ago that Kelce was a clear first-round talent? Sure, his fantasy production dipped, while the position's replacement level rose, but it wasn't by the dramatic margins perceived. In reality, Kelce lost only four points on his per-game average, with his 2022 role potentially expanding following Hill's trade. Meanwhile the Nos. 11 and 13 tight ends gained by only about three-quarters of a point on average, with those outside the top 20 remaining constant.

Vòng 2 (chọn 13 trong 10 đội, chọn 17 trong 12 đội): Nói về Kelce, nó không thể tưởng tượng được-và trên thực tế, rất có thể-rằng anh ấy sẽ kéo dài cho đến khi lựa chọn này trong các giải đấu 10 đội, một cái gì đó để bỏ đi. Xem xét các mối quan tâm (thừa nhận nhẹ) được đặt ra trước đó với bộ ba Harris/Cook/Mixon, một người nhận rộng là mục tiêu hợp lý nhất cho các nhà quản lý tưởng tượng ở đây, đặc biệt là với cơ hội thực tế tại Adams hoặc Diggs trong một đội 10 hoặc Lamb hoặc Lamb hoặc Lamb Samuel trong một giải đấu 12 đội. Speaking of Kelce, it's not inconceivable -- and in fact, it's pretty likely -- that he'd last until this pick in 10-team leagues, something to tuck away. Considering the (admittedly mild) concerns laid out earlier with the Harris/Cook/Mixon trio, a wide receiver is the most logical target for fantasy managers here, especially with the realistic chance at an Adams or Diggs in a 10-team or Lamb or Samuel in a 12-team league.

Tristan's Picks: Harris/Diggs (giải đấu 10 đội), Harris/Samuel (giải đấu 12 đội) Harris/Diggs (10-team league), Harris/Samuel (12-team league)


DRAFT SLOT 9

Vòng 1 (Chọn 9): Trong một giải đấu 10 đội, chiến lược xung quanh đội 10 trận đi vào phương trình ở đây, vì việc chọn một người nhận rộng ở đây có thể có nghĩa là xem Cook và Mixon đi thứ 10 và 11. Chắc chắn, Kelce sẽ ở đó ở vị trí thứ 12, nhưng nếu bạn không sẵn sàng đưa anh ấy vào thứ chín, bạn sẽ thực sự cảm thấy tốt hơn khi làm như vậy trên backswing nếu những người chạy trở lại được phân loại lần cuối cùng đi 10 và 11? Một trường hợp có thể được thực hiện cho tám người chơi khác nhau, đưa Chase và Harris từ những đề cập trước đó và nhanh chóng từ những cân nhắc sau này vào cuộc cạnh tranh. In a 10-team league, strategizing around the 10-slot team comes into the equation here, as picking a wide receiver here might mean watching Cook and Mixon go 10th and 11th. Sure, Kelce would be there at No. 12 overall, but if you weren't willing to take him ninth, are you really going to feel better about doing so on the backswing if those final first-round-graded running backs go 10 and 11? A case can be made for as many as eight different players, bringing Chase and Harris from the earlier mentions and Swift from later considerations into the fray.

Vòng 2 (chọn 12 trong 10 đội, chọn 16 trong 12 đội): Trong một giải đấu 12 đội, tôi sẽ không ngại đi RB-RB theo đúng cặp, trong đó tôi nói Williams là thấp nhất trong bảng xếp hạng của tôi đáng để chọn. Đó là một lý do khác khiến tôi thích chạy trở lại trong vòng 1 bất kể độ sâu giải đấu, vì đây là một điểm có khả năng mà bạn tìm thấy Kelce hay Lamb trên backswing. In a 12-team league, I wouldn't be afraid to go RB-RB in the right pairing, of which I'd say Williams is the lowest in my rankings worth picking. It's another reason I prefer the running back in Round 1 regardless of league depth, since this is a likely spot where you'd find Kelce or Lamb on the backswing.

Tristan's Picks: Cook/Adams (giải đấu 10 đội), Cook/Kamara (giải đấu 12 đội) Cook/Adams (10-team league), Cook/Kamara (12-team league)


Dự thảo khe 10

Vòng 1 (Chọn 10): Trong các mùa trước, một chiến lược WR-WR có ý nghĩa một chút từ vị trí dự thảo củaT. Mùa này, đó là một quyết định của WR-te-To-Kelce-or-Not-Kelce-và đếm tôi trong số những người ủng hộ Kelce. Thật thú vị, Cook đã trượt tốt ngoài lựa chọn tổng thể số 10 trong một số lượng tốt các giải đấu NFFC; Bạn không nên cho phép nó xảy ra, mặc dù. Người nhận rộng Adams và Diggs cũng là những lựa chọn khả thi từ 10 điểm. In seasons past, a WR-WR strategy made a bit of sense from this oft-dreaded draft slot. This season, it's more of a WR-TE decision -- to-Kelce-or-not-to-Kelce -- and count me among those who are pro-Kelce. Interestingly, Cook has been slipping well beyond the No. 10 overall pick in a good number of NFFC leagues; you should not allow it to happen, though. Wide receivers Adams and Diggs are also plenty viable selections from the 10-spot.

Vòng 2 (chọn 11 trong 10 đội, chọn 15 trong 12 đội): Tôi khá lớn về kết hợp Mixon/Lamb trong một giải đấu 12 đội, nếu bạn hoàn toàn có cơ hội để có được nó, nhưng Adams/ Swift là một khởi đầu rất mong muốn ở định dạng đó. Như đã đề cập với lựa chọn vòng hai của bảy điểm, việc chạy lại chạy trở lại vòng 3 sẽ đi vào việc ra quyết định ở đây, gần như buộc phải có ít nhất một người có 10 hoặc 15 tổng thể. I'm pretty big on the Mixon/Lamb pairing in a 12-team league, if you at all have a chance to get it, but Adams/Swift is a plenty desirable start in that format as well. As mentioned with the seven-spot's second-round pick, the tapering off of running backs come Round 3 should come into the decision-making here, almost forcing the need for at least one with picks 10 or 15 overall.

Tristan's Picks: Kelce/Mixon (giải đấu 10 đội), Mixon/Lamb (giải đấu 12 đội) Kelce/Mixon (10-team league), Mixon/Lamb (12-team league)


DRAFT SLOT 11 (Giải đấu 12 đội)

Vòng 1 (Chọn 11): Nếu các máy thu rộng và Kelce kết thúc chặt chẽ là tất cả những gì một cách hợp lý cho điều này và vị trí dự thảo tiếp theo trong Vòng 1, thì không, vì bạn sẽ nhận được nhiều người chơi tốt trong quá trình này. Chắc chắn, sẽ rất khó để xây dựng sự ổn định của bạn, nhưng không có gì lạ khi thấy David Montgomery, Ezekiel Elliott, Josh Jacobs và Breece Hall ở đó để tham gia vòng 3 và 4 trong giải đấu 12 đội với lựa chọn này. Điều đó hoàn toàn tốt khi hai lựa chọn đầu tiên của bạn, nói, Adams và Kelce. If wide receivers and top tight end Kelce are all that logically remain for this and the next draft slot in Round 1, fret not, as you'll be getting plenty-good players in the process. Sure, it'll be difficult to build your running back stable, but it's not uncommon to see David Montgomery, Ezekiel Elliott, Josh Jacobs and Breece Hall there for the taking in Rounds 3 and 4 in a 12-team league with this selection. That's perfectly fine when your first two selections are, say, Adams and Kelce.

Vòng 2 (Chọn 14): Như đã đề cập, Pick 16 là lần mới nhất tôi cho Kelce trượt trong một giải đấu 10 đội và đây là điểm mới nhất mà tôi cho phép anh ấy trượt trong 12 đội. Tính toán điều đó vào kế hoạch của bạn cho hai vòng đầu tiên, bởi vì nếu một chiếc bảy chạy trở lại là điều tối quan trọng, có lẽ bạn sẽ cần phải đưa anh ta vào vòng 1. As mentioned, Pick 16 is the latest I'd let Kelce slide in a 10-team league and this is the latest spot I'd let him slip in a 12-teamer. Compute that into your planning for the first two rounds, because if a top-seven running back is paramount, you're probably going to need to get him in Round 1.

Tristan's Picks: Kelce/Diggs Kelce/Diggs


DRAFT SLOT 12 (Giải đấu 12 đội)

Vòng 1-2 (Picks 12-13): Đây không ở gần trận hòa thô lỗ mà nó đã từng có trong quá khứ, như các dự đoán của tôi, lần giảm đáng chú ý đầu tiên về mặt tài năng xảy ra sau lựa chọn tổng thể thứ 13. Đối với tôi, đó là sau khi Diggs, và trong khi tôi không gặp vấn đề gì khi hoán đổi Diggs và nhanh chóng giữa điều này và "Tristan's Picks" của 11 điểm nhặt. Tôi thậm chí sẽ không xem xét bất kỳ cầu thủ nào tôi đã liệt kê cho một bản nháp 12 đội trở lên từ 14 người trở lên. This is nowhere near the rough draw it has been in the past, as by my projections, the first noticeable drop-off in terms of talent occurs after the 13th overall selection. For me, that's after Diggs, and while I'd have no problem swapping Diggs and Swift between this and the 11-spot's "Tristan's picks," I put Swift here simply considering the concern about running backs dropping off steeply by the draft's 36th overall pick. I wouldn't even consider any of the players I have listed for a 12-team draft's Picks 14 or later.

Picks của Tristan: Adams/Swift. Adams/Swift.

Tôi nên chọn ai đầu tiên trong Fantasy Football 2022?

Mục tiêu có thể: Jonathan Taylor, Cooper Kupp, Justin Jefferson. Kế hoạch cho vòng đầu tiên chỉ đơn giản là đưa người chơi hàng đầu lên bảng và xây dựng xung quanh anh ta. Jonathan Taylor là cầu thủ hàng đầu đồng thuận bất kể định dạng giải đấu và nên được thực hiện nếu anh ấy ở trên bảng. Nếu không, chuyển sang một máy thu rộng.Jonathan Taylor, Cooper Kupp, Justin Jefferson. The plan for the first round is simply to take the top player on the board and build around him. Jonathan Taylor is the consensus top player regardless of league format and should be taken if he's on the board. If not, switch to a wide receiver.

Ai là người lựa chọn vòng đầu tiên tốt nhất cho bóng đá giả tưởng?

Vòng 1 (Chọn 2): McCaffrey là thẻ hoang dã lớn của toàn bộ dự thảo bóng đá giả tưởng 2022. Trong bốn mùa vừa qua, điểm tưởng tượng 25,6 ppr của anh ấy cho mỗi trận đấu là nhiều nhất bởi bất kỳ người chơi nào ở bất kỳ vị trí nào (tối thiểu 40 trận) và anh ấy đã ghi được ít nhất 20 điểm trong 32 trên 38 trận đấu trong đó anh ấy đã chơi hơn 30 trận snaps.McCaffrey is the grand wild card of the entire 2022 fantasy football draft. In the past four seasons, his 25.6 PPR fantasy points per game is by far the most by any player at any position (minimum 40 games), and he has scored at least 20 points in 32 of 38 games in which he played 30-plus snaps.

Ai là người lựa chọn đầu tiên tốt nhất trong bóng rổ tưởng tượng?

Bóng rổ tưởng tượng 2022-23: Người chơi phải dự thảo theo vòng..
Tác giả Gabe Allen, Rotowire.....
(1) James Harden, Philadelphia 76ers (tổng thể ADP 8.3) ....
(2) Paul George, Los Angeles Clippers (tổng thể ADP 20,7) ....
(3) Zion Williamson, New Orleans Pelicans (tổng thể ADP 37.3) ....
(4) Ngày lễ Jrue, Milwaukee Bucks (tổng thể ADP 43,7).

Bạn nên chọn vị trí nào đầu tiên trong tưởng tượng?

Lựa chọn vòng 1: 1: RB, Lựa chọn thứ 2: WR Một tiền vệ thường là người chơi đó, nhưng có lý do sâu sắc hơn về lý do tại sao tôi khuyên bạn nên quay lại vòng đầu tiên.Chạy trở lại là vị trí đáng thèm muốn nhất trong bóng đá giả tưởng vì thường chỉ có một trở lại chính cho mỗi đội.running back in the first round. Running back is the most coveted position in fantasy football because there is usually only one primary back per team.