Chổ đuờng tiểu có 1 nhỏ là gì

Bí tiểu là tình trạng bàng quang căng đầy nước tiểu nhưng không thể làm rỗng hoàn toàn khi đi tiểu và tạo cảm giác buồn tiểu thường xuyên.

Bí tiểu được chia làm 2 loại: bí tiểu cấp tính và bí tiểu mãn tính.

Triệu chứng

  • Bí tiểu cấp tính: Tình trạng bí tiểu xảy ra đột ngột. Người bệnh cảm thấy buồn tiểu nhưng không thể đi tiểu được, từ đó gây tức bụng và đau vùng bụng dưới. Nếu không được cấp cứu kịp thời, tình trạng bí tiểu có thể gây nguy hiểm đến tính mạng.
  • Bí tiểu mãn tính: Tình trạng bí tiểu xảy ra trong thời gian dài. Người bệnh có thể đi tiểu, nhưng bàng quang không thể làm rỗng hoàn toàn. Ở giai đoạn đầu, bí tiểu mãn tính không có biểu hiện rõ ràng. Tuy nhiên, tình trạng bí tiểu kéo dài có thể dẫn đến các biến chứng nguy hiểm.

Hãy đến ngay cơ sở y tế gần nhất để được bác sĩ tư vấn nếu bạn có một hoặc nhiều triệu chứng sau:

  • Phải đi tiểu thường xuyên (trên 8 lần/ngày).
  • Rất khó để nước tiểu thoát ra. Khởi sự đi tiểu khó khăn.
  • Dòng nước tiểu yếu hoặc vừa bắt đầu thì dừng lại.
  • Có cảm giác cần đi tiểu lại ngay sau khi đi tiểu xong.
  • Đi tiểu nhiều lần trong đêm.
  • Nước tiểu rò rỉ suốt cả ngày.
  • Tiểu gấp không tự chủ hoặc cảm giác muốn đi tiểu ngay lập tức, không có khả năng nhịn tiểu.
  • Không nhận biết được khi nào bàng quang đầy.
  • Cảm giác khó chịu hoặc căng ở vùng xương chậu/ bụng dưới.

Nguyên nhân

Đường tiểu dưới bao gồm bàng quang (nơi lưu trữ nước tiểu) và niệu đạo (ống dẫn nước tiểu từ bàng quang ra ngoài).

Bên cạnh đó là hai bộ cơ, được gọi là cơ vòng:

  • Cơ vòng bên trong là nơi niệu đạo kết nối với bàng quang (lối ra bàng quang).
  • Cơ vòng bên ngoài, nằm ở phía dưới niệu đạo, đóng mở để kiểm soát thời điểm nước tiểu có thể ra khỏi bàng quang.

Ở nam giới, tuyến tiền liệt cũng là một phần của hệ thống này. Tuyến tiền liệt bao quanh dọc theo niệu đạo, qua khung chậu giữa hai cơ vòng.

Khi đi tiểu, các cơ trong bàng quang co bóp để đẩy nước tiểu ra ngoài. Đồng thời, hệ thống thần kinh ra lệnh cho các cơ vòng mở ra và nước tiểu đi qua niệu đạo, sau đó ra khỏi cơ thể. Hai cơ vòng được tạo thành từ các loại cơ khác nhau, vì vậy không thể kiểm soát cơ vòng bên trong mà chỉ có thể kiểm soát cơ vòng bên ngoài.

Bất kỳ trục trặc nào xảy ra tại các cấu trúc trên hoặc thần kinh chi phối đều có thể là nguyên nhân gây bí tiểu.

Bệnh được điều trị như thế nào?

  • Bí tiểu cấp tính: Đây là tình trạng cấp cứu, bác sĩ sẽ nhanh chóng đặt một ống thông tiểu vào bàng quang để giúp bệnh nhân thải nước tiểu ra ngoài.
  • Bí tiểu mãn tính: Bệnh nhân sẽ được điều trị nếu xuất hiện các triệu chứng ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống hoặc các biến chứng về đường tiết niệu.

Các phương pháp điều trị bao gồm:

1. Thông tiểu

Ống thông tiểu cần được đặt để giải thoát nước tiểu ra khỏi bàng quang nếu không giải quyết ngay được nguyên nhân gây bí tiểu.

2. Nong niệu đạo

Thủ thuật này được sử dụng để nong rộng nơi hẹp niệu đạo, giúp lưu thông nước tiểu dễ dàng hơn.

Loại ống được sử dụng thường có đường kính tăng dần hoặc loại ống có bóng được đưa vào niệu đạo, sau đó bơm căng bong bóng dẫn.

3. Nội soi bàng quang

Ống nội soi bàng quang mềm được đưa qua niệu đạo vào bàng quang. Bác sĩ có thể tìm và lấy sỏi hoặc các vật thể lạ ra khỏi bàng quang, cổ bàng quang hoặc niệu đạo.

4. Thuốc

Một số loại thuốc cải thiện tình trạng bí tiểu có thể được sử dụng dưới sự chỉ định và kê đơn của bác sĩ chuyên khoa.

5. Thay đổi thói quen

Bạn có thể kiểm soát bàng quang bằng cách:

  • Kiểm soát lượng nước uống và thời gian uống trong ngày.
  • Tập luyện các bài tập cơ vùng chậu
  • Áp dụng các bài tập và kỹ thuật phục hồi bàng quang.

6. Phẫu thuật

Nếu thuốc và các biện pháp điều trị khác không hiệu quả, có thể tiến hành phẫu thuật. Ở nam giới, hầu hết các thủ thuật phẫu thuật được thực hiện bằng cách đưa dụng cụ chuyên dụng qua niệu đạo và tiến hành phẫu thuật bằng tia laser hoặc các công cụ khác.

Tóm lại, cả bí tiểu cấp tính và mãn tính thường dễ chẩn đoán và có thể kết hợp các phương pháp điều trị để tránh các biến chứng lâu dài. Trong trường hợp không thể điều trị khỏi hoàn toàn, người bệnh có thể cần đặt ống thông tiểu cách quãng nhưng không ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống hoặc sinh hoạt hàng ngày.

Tiểu không tự chủ hoặc tiểu són là tình trạng mất hoạt động tự chủ của việc tiểu tiện; một số chuyên gia cho rằng nó chỉ tồn tại khi một bệnh nhân nghĩ rằng đó là một vấn đề. Rối loạn này được ghi nhận và báo cáo không đầy đủ. Nhiều bệnh nhân không báo cáo vấn đề với bác sĩ của họ, và nhiều bác sĩ không hỏi cụ thể về chứng són tiểu. Nhiều bệnh nhân không báo vấn đề với bác sĩ của họ, và nhiều bác sĩ không hỏi về tiểu không tự chủ của bệnh nhân Chứng mất kiểm soát có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng phổ biến hơn ở người lớn tuổi và phụ nữ, ảnh hưởng đến khoảng 30% phụ nữ lớn tuổi và 15% đàn ông lớn tuổi.

Tiểu són làm giảm chất lượng cuộc sống vì gây xấu hổ, kỳ thị, cô lập, và trầm cảm. Nhiều bệnh nhân lớn tuổi mất tính độc lập vì sự tiểu không kiềm chế được là gánh nặng cho người chăm sóc. Ở bệnh nhân nằm liệt giường, nước tiểu gây kích ứng và làm thấm ướt da, góp phần với áp lực lên xương cùng cụt gây loét tì đè. Người cao tuổi với triệu chứng tiểu gấp có nguy cơ bị ngã và gãy xương.

Tiểu không tự chủ có thể biểu hiện tiểu nhỏ giọt gần như liên tục hoặc tiểu ngắt quãng có hoặc không ý thức được sự cần phải đi tiểu. Một số bệnh nhân có tình trạng tiểu rất gấp (không thể nhịn được) mà không có hoặc rất ít dấu hiệu cảnh báo và có thể không thể nhịn tiểu cho đến khi đi được tới nhà vệ sinh. Sự tiểu không tự chủ có thể xảy ra hoặc nặng hơn khi thực hiện các động tác làm tăng áp lực trong ổ bụng. Sự rò rỉ sau khi đi tiểu rất phổ biến và có thể là một biến thể bình thường ở nam giới. Việc nhận định trên lâm sàng đôi khi hữu ích, nhưng nguyên nhân thường chồng chéo và điều trị là giống nhau.

Tiểu gấp không tự chủ là sự rò rỉ nước tiểu không kiểm soát được (thể tích nước tiểu từ trung bình đến nhiều) xảy ra ngay khi có nhu cầu đi tiểu khẩn cấp, không thể nhịn được. Tiểu đêm và tiểu dầm về đêm là phổ biến. Tiểu không kiểm soát là loại tiểu không kiểm soát phổ biến nhất ở người lớn tuổi nhưng có thể ảnh hưởng đến những người trẻ tuổi. Tình trạng thường nặng hơn do dùng lợi tiểu và bị trầm trọng hơn do không có khả năng nhanh chóng đi đến nhà vệ sinh. Ở phụ nữ, viêm teo âm đạo, thông thường do tuổi già, góp phần làm mỏng đi và kích thích niệu đạo và tiểu gấp.

Tiểu không tự chủ dưới áp lực là sự rò rỉ nước tiểu do áp lực trong ổ bụng tăng đột ngột (ví dụ, ho, hắt hơi, cười, uốn hoặc nâng). Thể tích rò rỉ thường từ thấp đến trung bình. Đây là loại phổ biến thứ hai của tiểu không tự chủ ở phụ nữ, chủ yếu là do các biến chứng của sinh đẻ và sự phát triển của viêm niệu đạo teo. Nam giới có thể gặp tiểu không tự chủ dưới áp lực sau khi làm các thủ thuật như cắt tiền liệt tuyến toàn bộ. Tiểu không tự chủ dưới áp lực thường nghiêm trọng hơn ở người béo phì vì áp lực từ các thành phần trong ổ bụng đè trên đầu bàng quang.

Tiểu không tự chủ do bàng quang đầy là tình trạng nước tiểu bị rỉ ra từ một bàng quang đầy quá mức. Thể tích nước tiểu rò rỉ thường nhỏ, nhưng rò rỉ có thể là liên tục, dẫn đến tổng lượng nước tiểu rỉ ra là lớn. Tiểu không tự chủ do bàng quang đầy là loại phổ biến thứ hai trong số các loại tiểu không tự chủ ở nam giới.

Tiểu không tự chủ thể phối hợp là bất kỳ sự kết hợp của các loại trên. Các kết hợp phổ biến nhất là tiểu gấp không tự chủ với tiểu không tự chủ dưới áp lực và tiểu gấp không tự chủ hoặc tiểu không tự chủ dưới áp lực với tiểu không tự chủ chức năng.

Rối loạn có xu hướng khác nhau giữa các nhóm tuổi. Với người già, dung tích bàng quang giảm, khả năng nhịn tiểu giảm, sự co thắt bàng quang không theo ý muốn (hoạt động quá mức cơ trơn bàng quang) xảy ra thường xuyên hơn, và co bóp bàng quang bị suy giảm. Do đó, việc trì hoãn đi tiểu trở nên khó khăn hơn và có xu hướng tiểu không hết. Thể tích nước tiểu tồn dư sau đi tiểu tăng, có thể là ≤ 100 mL (bình thường < 50 mL). Cân cơ đáy chậu trở lên yếu.

Ở phụ nữ sau mãn kinh, giảm nồng độ estrogen dẫn đến viêm teo niệu quản và viêm teo âm đạo và giảm khả năng đề kháng, giảm chiều dài và áp lực đóng tối đa của niệu đạo.

Ở nam giới, kích thước tuyến tiền liệt tăng, gây cản trở phần nào niệu đạo và dẫn đến việc tiểu không hết và làm căng cơ trơn bàng quang. Những thay đổi này xảy ra ở nhiều người bình thường, người già, và có thể tạo điều kiện cho tiểu không tự chủ nhưng không phải là nguyên nhân gây ra.

Ở bệnh nhân trẻ tuổi, tiểu không tự chủ thường bắt đầu đột ngột, có thể gây rò rỉ ít và thường giải quyết nhanh chóng với điều trị nhẹ nhàng hoặc không cần điều trị. Thông thường, sự tiểu thiếu kiềm chế có một nguyên nhân ở bệnh nhân trẻ tuổi nhưng có vô số nguyên nhân ở người cao tuổi.

Về mặt khái niệm, phân loại thành các nguyên nhân có thể đảo ngược (tạm thời) hoặc các nguyên nhân đã xác định có thể hữu ích. Tuy nhiên, nguyên nhân và cơ chế thường chồng lên nhau và xảy ra phối hợp.

Có một số nguyên nhân gây ra tiểu không tự chủ thoáng qua (xem bảng ). Một ghi nhớ hữu ích cho nhiều nguyên nhân tiểu không tự chủ thoáng qua là DIAPPERS (có thêm P): Mê sảng), Nhiễm khuẩn (thông thường, nhiễm khuẩn tiết niệu Tổng quan về nhiễm trùng đường tiết niệu Nhiễm trùng đường tiết niệu có thể được chia thành nhiễm trùng đường tiết niệu cao, bao gồm thận ( viêm thận bể thận), và nhiễm trùng đường tiết niệu thấp, có liên quan đến bàng quang ( viêm... đọc thêm có triệu chứng), Viêm teo niệu đạo và viêm teo âm đạo), Dược phẩm (ví dụ những thuốc chẹn alpha, cholinergic, hoặc kháng cholinergic, thuốc lợi tiểu, thuốc an thần), Rối loạn tâm thần (đặc biệt là trầm cảm), Quá nhiều nước tiểu (tiểu nhiều), Hạn chế vận động), và U phân.

Chổ đuờng tiểu có 1 nhỏ là gì

Nguyên nhân của tiểu không tự chủ thực sự là các tác động dai dẳng đến thần kinh hoặc cơ. Các cơ chế thường được sử dụng để mô tả những vấn đề này là đường ra bàng quang bị trục trặc hoặc tắc nghẽn, cơ trơn bàng quang hoạt động quá mức hoặc không hoạt động, rối loạn đồng vận bàng quang cơ thắt, hoặc kết hợp (xem bảng ). Tuy nhiên, những cơ chế này cũng tham gia vào một số nguyên nhân tạm thời.

Chổ đuờng tiểu có 1 nhỏ là gì

Đường ra nước tiểu yếu là một nguyên nhân phổ biến gây tiểu không tự chủ do stress. Ở phụ nữ, thường là do sự yếu của đáy chậu hoặc của mạc nội chậu. Sự yếu này thường xuất phát từ việc sinh nở nhiều qua đường âm đạo, phẫu thuật vùng chậu (bao gồm cắt tử cung), thay đổi liên quan đến tuổi tác (bao gồm viêm teo niệu đạo) hoặc kết hợp. Kết quả là, vùng nối giữa bàng quang niệu quản bị kéo tụt xuống, cổ bàng quang và niệu đạo trở nên tăng động, và áp lực trong niệu đạo giảm xuống dưới áp lực bàng quang. Ở nam giới, nguyên nhân thông thường là tổn thương cơ thắt hoặc tổn thương ở cổ bàng quang và niệu đạo sau khi cắt tuyến tiền liệt tận gốc.

Sự tắc nghẽn dẫn đến bàng quang giãn quá mức mạn tính, thường làm mất khả năng co bóp bàng quang; sau đó bàng quang không trống hoàn toàn, dẫn đến rỉ tràn ra ngoài. Sự tắc nghẽn cũng có thể dẫn đến sự hoạt động quá mức cơ trơn bàng quang và gây tiểu són gấp. Nếu cơ trơn bàng quang mất khả năng bị co thắt, có thể dẫn tới tiểu không tự chủ do bàng quang đầy. Một số nguyên nhân gây tắc nghẽn đường ra (ví dụ, túi thừa lớn bàng quang, sa bàng quang, viêm bàng quang, sỏi và khối u) có thể giải quyết được.

Cơ trơn bàng quang tăng hoạt là một nguyên nhân phổ biến gây ra tiểu gấp không tự chủ ở bệnh nhân lớn tuổi và bệnh nhân trẻ hơn. Cơ trơn bàng quang co thắt ngắt quãng mà không có lý do rõ ràng, thông thường khi bàng quang đầy một phần hoặc gần toàn bộ. Cơ trơn bàng quang hoạt động quá mức có thể vô căn hoặc có thể do rối loạn chức năng trung tâm ức chế tiểu tiện ở thuỳ trán (thường do thay đổi tuổi, chứng sa sút trí tuệ, hoặc đột quỵ) hoặc tắc nghẽn đường ra. Cơ trơn bàng quang hoạt động quá mức (tăng hoạt) và suy giảm khả năng co bóp là một biến thể của tiểu gấp không tự chủ đặc trưng bởi tiểu gấp, tiểu dắt Tiểu dắt Tiểu dắt là tình trạng người bệnh cần phải đi tiểu rất nhiều lần trong ngày, hoặc vào ban đêm (tiểu đêm), hoặc cả hai, nhưng lượng nước tiểu bình thường hoặc ít hơn bình thường. Thường đi kèm... đọc thêm , tốc độ dòng tiểu yếu, bí tiểu bí tiểu Bí tiểu là tình trạng bàng quang sót nước tiểu sau khi tiểu xong. Bí tiểu có thể là Cấp Mạn tính Nguyên nhân bao gồm giảm co bóp bàng quang, tắc nghẽn đường ra bàng quang, mất đồng vận bàng... đọc thêm , căng tức bàng quang và thể tích nước tiểu tồn dư sau khi đi tiểu \> 50 mL. Biến thể này có thể tương tự như bệnh tiền liệt tuyến ở nam giới hoặc tiểu không tự chủ dưới tác động của stress ở phụ nữ.

Cơ trơn bàng quang giảm hoạt gây bí tiểu và tiểu không tự chủ do bàng quang đầy ở khoảng 5% bệnh nhân tiểu không tự chủ. Nó có thể do tổn thương tủy sống Chấn thương cột sống Chấn thương cột sống có thể gây thương tích đến tủy sống, đốt sống, hoặc cả hai. Thỉnh thoảng, tổn thương dây thần kinh kèm theo. Giải phẫu các cột của cột sống được xem xét ở nơi khác. Tổn... đọc thêm

Chổ đuờng tiểu có 1 nhỏ là gì
hoặc rễ thần kinh chi phối bàng quang (ví dụ, chèn ép tuỷ, khối u, hoặc phẫu thuật), bởi các bệnh thần kinh ngoại biên hoặc thận kinh tự động, hoặc các rối loạn thần kinh khác.(xem bảng ). Thuốc kháng cholinergic và opioid làm giảm đáng kể sự co bóp của cơ trơn bàng quang; những loại thuốc này tạm thời là những nguyên nhân phổ biến Cơ trơn có thể trở nên không hoạt động ở những người nam giới bị tắc nghẽn đường ra mạn tính vì cơ trơn bàng quang bị thay thế bởi tổ chức xơ và mô liên kết, làm cho bàng quang không thể rỗng được ngay cả khi tắc nghẽn đã được giải quyết. Ở phụ nữ, sự giảm hoạt của cơ trơn bàng quang thường vô căn. Ít trường hợp cơ trơn bàng quang yếu trầm trọng phổ biến ở phụ nữ lớn tuổi. Sự yếu như vậy không gây tiểu không tự chủ nhưng có thể làm phức tạp điều trị nếu các nguyên nhân khác của tiểu không tự chủ cùng tồn tại.

Mất đồng vận cơ trơn bàng quang cơ thắt (mất sự phối hợp giữa co thắt bàng quang và giãn cơ thắt niệu đạo ngoài) có thể gây tắc nghẽn đường ra, hậu quả là nước tiểu trào ra không kiểm soát được. Chứng rối loạn đồng vận thường do tổn thương tủy sống làm gián đoạn đường đi tới trung tâm tiểu tiện ở cầu não, nơi điều hợp sự giãn cơ thắt và sự co bàng quang. Thay vì giãn khi bàng quang co lại, cơ vòng co lại, làm tắc nghẽn đường ra của bàng quang. Chứng rối loạn đồng vận gây ra các bè xơ bàng quang nặng, túi thừa, sự biến dạng hình "cây thông giáng sinh" của bàng quang, ứ nước thận, và suy thận.

Suy chức năng (ví dụ như suy giảm nhận thức, giảm khả năng vận động, giảm sự khéo tay, các rối loạn phối hợp, thiếu động lực), đặc biệt ở người cao tuổi, có thể góp phần dẫn đến tiểu không tự chủ thực sự nhưng hiếm khi là nguyên nhân gây ra nó.

Hầu hết bệnh nhân đều có sự xấu hổ khi đề cập đến tiểu không tự chủ, không tự nói ra thông tin đó, mặc dù họ có thể đề cập đến các triệu chứng liên quan (ví dụ: tiểu nhiều lần, tiểu đêm, tiểu ngập ngừng). Vì vậy tất cả người lớn nên được kiểm tra với một câu hỏi như "Bạn có bao giờ bị rò rỉ nước tiểu?".

Bệnh sử tập trung vào khoảng thời gian và hình thức đi tiểu, chức năng ruột, sử dụng thuốc, và tiền sử sản khoa và phẫu thuật vùng chậu. Một cuốn nhật ký đi tiểu có thể cung cấp các đầu mối để tìm các nguyên nhân. Từ 48 đến 72 giờ, bệnh nhân hoặc người chăm sóc ghi lại thể tích và thời gian của mỗi lần đi tiểu và mỗi khi tiểu không tự chủ liên quan đến các hoạt động kèm theo (đặc biệt là ăn uống, và sử dụng thuốc) và trong khi ngủ. Lượng nước tiểu rỉ ra có thể được ước tính theo giọt, mức ít, vừa hoặc nhiều; hoặc bằng test thử miếng dán (đo trọng lượng nước tiểu được hấp thụ bởi miếng dán hoặc miếng đệm cho trường hợp tiểu không tự chủ được đo trong khoảng thời gian 24 giờ).

Nếu thể tích của hầu hết các lần đi tiểu ban đêm nhỏ hơn nhiều so với sức chứa bàng quang chức năng (được định nghĩa như là thể tích lớn nhất được tiểu ghi trong nhật ký), nguyên nhân là một vấn đề liên quan đến giấc ngủ (bệnh nhân đi tiểu vì họ đang thức) hoặc bất thường ở bàng quang (bệnh nhân không bị rối loạn chức năng bàng quang hoặc vấn đề liên quan đến giấc ngủ thức dậy chỉ để đi tiểu khi bàng quang đầy).

Trong số nam giới có triệu chứng tắc nghẽn (tiểu ngập ngừng, dòng tiểu yếu, tiểu ngắt quãng, cảm giác tiểu không hết), khoảng 1/3 có bàng quang tăng hoạt mà không có sự tắc nghẽn.

Tiểu gấp hoặc són tiểu đột ngột mà không có dấu hiệu báo trước hoặc không do tăng áp lực trong ổ bụng (thường được gọi là tiểu không tự chủ phản xạ hoặc tiểu không tự chủ vô thức) đa số là để ám chỉ bàng quang tăng hoạt.

Trọng tâm là thăm khám thần kinh, vùng chậu, và thăm trực tràng.

Chi phối thần kinh cho cơ thắt niệu đạo ngoài, cơ này chia sẻ rễ thần kinh cùng với cơ thắt vòng hậu môn, có thể được kiểm tra bằng cách đánh giá:

  • Cảm giác đáy chậu
  • Sự co cơ vòng hậu môn (S2 đến S4)
  • Phản xạ hậu môn (S4 đến S5), đó là sự co lại của cơ vòng hậu môn được kích hoạt bằng cách kích thích nhẹ da quanh hậu môn
  • Phản xạ hành hang (S2 đến S4), đó là sự co lại của cơ vòng hậu môn gây ra bằng cách bóp mạnh quy đầu dương vật hoặc kích thích lực lên âm vật

Tuy nhiên, sự vắng mặt của những phản xạ này không nhất thiết là bệnh lý.

Khám vùng chậu ở nữ giới có thể xác định viêm teo âm đạo và , tăng động niệu đạo và yếu vùng đáy chậu có hoặc không có chứng sa cơ quan vùng chậu. Niêm mạc âm đạo mỏng, màu nhạt và mất nếp nhăn niêm mạc cho thấy viêm teo âm đạo. Tăng động niệu đạo có thể quan sát được trong khi bệnh nhân ho khi thành sau âm đạo được cố định bằng mỏ vịt. Sa bàng quang, sa ruột, trực tràng, hoặc tử cung gợi ý yếu vùng đáy chậu Tổng quan về sa cơ quan vùng chậu Sa cơ quan vùng chậu là kết quả từ tình trạng lỏng lẻo (tương tự như thoát vị) ở các dây chằng, cân và cơ nâng đỡ các tạng vùng chậu (sàn chậu) - xem hình Sa cơ quan vùng chậu). Sự phổ biến... đọc thêm

Chổ đuờng tiểu có 1 nhỏ là gì
. Khi thành đối diện được cố định bằng mỏ vịt, sự phồng lên của thành trước cho thấy sa bàng quang, và phình to của thành sau cho thấy sa trực tràng hoặc sa ruột. Sự suy yếu của đáy chậu không gợi ý nguyên nhân, trừ khi có sa bàng quang lớn.

Nghiệm pháp đi tiểu khi gắng sức có thể được thực hiện trên bàn kiểm tra nếu nghi ngờ tiểu không tự chủ khi gắng sức; phương pháp này có độ nhạy và độ đặc hiệu \> 90%. Bàng quang phải đầy; bệnh nhân ngồi thẳng lưng hoặc ngồi gần thẳng với chân dạng ra, thả lỏng vùng đáy chậu và ho mạnh một lần:

  • Sự rò rỉ nước tiểu xảy ra ngay lập tức và kết thúc đồng thời với ho khẳng định tiểu không tự chủ dưới áp lực.
  • Sự rò rỉ nước tiểu chậm chút hoặc rò rỉ liên tục gợi ý cơ bàng quang tăng hoạt được kích hoạt bởi ho.

Nếu ho kích hoạt tiểu không tự chủ, hoạt động ho có thể được lặp lại trong khi người khám đặt 1 hoặc 2 ngón tay vào trong âm đạo để nâng niệu đạo (Marshall-Bonney test); sự tiểu không tự chủ cải thiện bởi hành động này có thể đáp ứng với phẫu thuật.

  • Kết quả có thể là dương tính giả nếu bệnh nhân có sự thôi thúc đi tiểu gấp trong quá trình thử nghiệm.
  • Kết quả có thể là âm tính giả nếu bệnh nhân không thư giãn, bàng quang không đầy, ho không mạnh, hoặc có hiện tượng sa bàng quang lớn (ở phụ nữ). Ở phụ nữ có sa bàng quang lớn, test thử cần được lặp lại với bệnh nhân nằm ngửa và giảm hiện tượng sa bàng quang, nếu có thể
  • Xét nghiệm tổng phân tích nước tiểu, nuôi cấy nước tiểu
  • Urea (BUN), creatinin huyết thanh
  • Thể tích nước tiểu tồn dư
  • Đôi khi xét nghiệm đo niệu động học

Thể tích nước tiểu tồn dư sau khi đi tiểu cần được xác định bằng cách đặt ống thông tiểu hoặc siêu âm (ưu tiên). Thể tích nước tiểu tồn dư sau khi đi tiểu cộng thể tích nước tiểu đã đi ra ngoài ước lượng dung tích bàng quang và giúp đánh giá sự nhận cảm của bàng quang. Một thể tích < 50 mL là bình thường; < 100 mL thường được chấp nhận ở bệnh nhân \> 65 tuổi nhưng không bình thường ở bệnh nhân trẻ tuổi hơn; và \> 100 mL có thể gợi ý bàng quang giảm hoạt hoặc tắc nghẽn đường ra.

Đo niệu động học được chỉ định khi đánh giá lâm sàng kết hợp với các xét nghiệm thích hợp không cho chẩn đoán xác định hoặc khi sự bất thường phải được xác định chính xác trước khi phẫu thuật.

Đo áp lực bàng quang có thể giúp chẩn đoán tiểu gấp không tự chủ, nhưng độ nhạy và độ đặc hiệu không rõ. Nước vô trùng được đưa vào bàng quang mỗi 50 ml bằng cách sử dụng một xi lanh 50 ml và một ống thông cỡ từ 12 đến 14-F cho đến khi bệnh nhân cảm giác buồn đi tiểu gấp hoặc có những cơn co thắt bàng quang, phát hiện sự thay đổi lượng dịch trong xi lanh. Nếu < 300 mL gây ra tình trạng buồn tiểu khẩn cấp hoặc co thắt, có thể là chứng bàng quang tăng hoạt và chứng tiểu gấp không tự chủ.

Xét nghiệm đo lưu lượng đỉnh dòng nước tiểu với một đồng hồ đo lưu lượng dòng chảy được sử dụng để khẳng định hoặc loại trừ sự tắc nghẽn đường ra ở nam giới. Kết quả phụ thuộc vào thể tích bàng quang ban đầu, nhưng tốc độ dòng chảy tối đa < 12 mL/giây với lượng nước tiểu là ≥ 200 mL và quá trình đi tiểu kéo dài gợi ý tắc nghẽn đường ra hoặc cơ bàng quang giảm hoạt. Tốc độ ≥ 12 mL/giây loại trừ được tắc nghẽn và có thể gợi ý bàng quang tăng hoạt. Trong quá trình thử nghiệm, bệnh nhân được hướng dẫn đặt tay lên bụng để kiểm tra sự rặn tiểu, đặc biệt là nếu nghi ngờ tiểu không tự chủ dưới áp lực và phẫu thuật được dự tính. Sự rặn tiểu cho thấy cơ trơn bàng quang yếu có thể dự đoán tình trạng bí tiểu sau mổ ở bệnh nhân.

Trong đo lưu lượng bàng quang, các đường cong áp lực-thể tích và cảm giác bàng quang được ghi lại trong khi bàng quang được làm đầy bằng nước vô trùng; test kích thích (với bethanechol hoặc nước đá) được sử dụng để kích thích các cơn co bàng quang.

Điện cơ cơ đáy chậu được sử dụng để đánh giá sự kích thích và chức năng cơ vòng. Áp lực niệu đạo, ổ bụng, và trực tràng có thể được đo.

Phân tích video niệu động học, thường được thực hiện cùng với khi đi tiểu, xét nghiệm có thể đánh giá mối liên quan với sự co thắt của bàng quang, cổ bàng quang, và sự đồng vận cơ bàng quang-cơ thắt, nhưng thiết bị không được phổ biến rộng rãi.

  • Tập luyện bàng quang
  • Bài tập Kegel
  • Thuốc

Các nguyên nhân cụ thể được điều trị, và các thuốc có thể là nguyên nhân hoặc làm tình trạng tiểu không tự chủ xấu thêm phải được dừng lại hoặc thay đổi thời gian dùng thuốc (ví dụ thuốc lợi tiểu nếu dùng phải được tính thời gian để vấn đề đi vệ sinh thuận lợi nhất khi thuốc có hiệu lực). Việc điều trị khác tùy thuộc vào các thể của tiểu không tự chủ. Bất kể loại và nguyên nhân, một số biện pháp chung thường hữu ích.

Bệnh nhân được hướng dẫn để hạn chế tiêu thụ chất lỏng vào những thời điểm nhất định (ví dụ, trước khi đi ra ngoài, 3 đến 4 giờ trước khi đi ngủ), để tránh nước tiểu kích thích bàng quang (ví dụ như đồ uống chứa caffeine), và uống từ 48 đến 64 ounce (1500 đến 2000 mL) chất lỏng mỗi ngày (vì nước tiểu đậm đặc làm kích thích bàng quang).

Bệnh nhân có thể hưởng lợi từ việc tập luyện bàng quang (thay đổi thói quen đi tiểu) và thay đổi lượng chất lỏng tiêu thụ. Tập luyện bàng quang thường là tập khoảng cách giữa các lần đi tiểu (mỗi 2 đến 3 giờ) trong khi thức. Theo thời gian, khoảng cách thời gian này có thể tăng lên 3-4 giờ khi thức. Nhắc đi tiểu cho bệnh nhân suy giảm nhận thức; họ sẽ được nhắc mỗi 2 h đi tiểu một lần mặc dù họ cần phải đi tiểu hoặc kể cả họ đang tiểu ra quần hoặc không. Một cuốn nhật ký đi tiểu sẽ giúp xác định mức độ thường xuyên và khi nào cần đi tiểu và liệu bệnh nhân có thể cảm nhận được bàng quang đầy.

Các bài tập cơ vùng chậu (ví dụ, bài tập Kegel) thường có hiệu quả, đặc biệt dành cho tiểu không tự chủ dưới áp lực. Bệnh nhân phải co cơ chậu (cơ mu cụt và cơ cạnh âm đạo) thay vì cơ đùi, bụng, hoặc cơ mông. Các cơ được co trong 10 giây, sau đó thư giãn cho 10 giây, tập 10 đến 15 lần mỗi lần và ngày 3 lần. Cần phải có hướng dẫn lại, và phản hồi thường rất hữu ích. Ở phụ nữ < 75 tuổi, tỷ lệ chữa khỏi là 10 đến 25%, và cải thiện triệu chứng ở 40 đến 50%, đặc biệt nếu bệnh nhân có động lực và quyết tâm; tập bài tập theo hướng dẫn; và nhận được các hướng dẫn bằng văn bản, theo dõi và khuyến khích bệnh nhân hoặc cả hai. Cơ sàn chậu yếu hoặc rối loạn chức năng thường có thể được tăng cường thông qua các chương trình vật lý trị liệu chuyên biệt do những người có chuyên môn trong lĩnh vực này hướng dẫn.

Kích thích đáy chậu là một phiên bản tự động của bài tập Kegel; nó sử dụng dòng điện để ức chế bàng quang tăng hoạt và co các cơ chậu ở vùng chậu. Ưu điểm là cải thiện sự tuân thủ và sự co của cơ xương chậu đúng, nhưng những lợi ích của việc thay đổi hành vi đơn độc vẫn chưa rõ ràng.

Thuốc thường rất hữu ích (xem bảng ). Thuốc được sử dụng để điều trị sự tiểu không tự chủ Các loại thuốc này bao gồm thuốc kháng cholinergic và kháng muscarinic, giúp giãn cơ trơn bàng quang, và các chất chủ vận alpha, làm tăng trương lực cơ thắt. Thuốc có tác dụng kháng cholinergic mạnh nên được sử dụng một cách thận trọng ở người cao tuổi. Các chất đối kháng alpha và các chất ức chế 5-alpha-reductase có thể được sử dụng để điều trị tắc nghẽn đường ra ở nam giới với tiểu gấp hay tiểu không tự chủ. Một số loại thuốc này được sử dụng ngoài nhãn.

Chổ đuờng tiểu có 1 nhỏ là gì

Điều trị nhằm mục đích giảm bàng quang tăng hoạt; bắt đầu bằng tập luyện bàng quang, các bài tập Kegel, và kỹ thuật thư giãn ( ). Đáp ứng vô thức của cơ thể Phản hồi sinh học Đối với phản hồi sinh học, một loại y học tâm-thể, các thiết bị điện tử được sử dụng để cung cấp thông tin cho bệnh nhân về các chức năng sinh học (nhịp tim, huyết áp, hoạt động của cơ, nhiệt... đọc thêm có thể được sử dụng với các phương pháp điều trị này. Thuốc cũng có thể cần thiết, cũng như có thể tự đặt ống thông tiểu ngắt quãng (ví dụ, khi thể tích nước tiểu tồn dư sau khi đi tiểu lớn). Việc , trị liệu tại chỗ nội bàng quang và phẫu thuật được sử dụng không phổ biến.

Tập luyện bàng quang giúp bệnh nhân dung nạp và ức chế các cơn co thắt cơ trơn bàng quang. Các khoảng thời gian giữa các lần đi tiểu được kéo dài dần dần (ví dụ, 30 phút mỗi 3 ngày để duy trì sự kiểm soát nước tiểu) để cải thiện khả năng chịu đựng các cơn co thắt bàng quang. Kỹ thuật thư giãn có thể cải thiện đáp ứng về cảm xúc và sinh lý với tiểu gấp. Thư giãn, đứng nguyên ở vị trí hoặc ngồi xuống (thay vì việc vội vã đi vệ sinh), và siết chặt cơ đáy chậu có thể giúp bệnh nhân trấn áp sự thôi thúc đi tiểu.

Thuốc (xem bảng ) nên bổ sung, không thay thế, thay đổi hành vi. Loại thuốc được sử dụng phổ biến nhất là oxybutynin và tolterodine; cả hai đều có tính kháng cholinergic và kháng muscarinic và có sẵn trong các dạng phóng thích kéo dài có thể được uống một lần/ngày. Oxybutynin có sẵn dạng một miếng dán da, thay hai lần/tuần cũng như các gel bôi tại chỗ lên da có thể dùng hàng ngày.

Các thuốc mới có tính chất kháng cholinergic và kháng muscarinic bao gồm solifenacin và darifenacin, được dùng đường uống một lần mỗi ngày, và trospium được dùng một lần mỗi ngày hoặc 2 lần/ngày. Thuốc có thể được dùng để ngăn chặn các triệu chứng tiểu gấp do bàng quang tăng hoạt (hoạt động quá mức) với tình trạng co bóp bất thường. Vibegron là một thuốc chủ vận beta-3 adrenergic được sử dụng để điều trị bàng quang hoạt động quá mức với các triệu chứng tiểu không tự chủ, tiểu gấp và tiểu dắt ( ). Thuốc có thể khởi phát nhanh chóng (ví dụ oxybutynin dạng tác dụng ngay) có thể được sử dụng dự phòng nếu chứng tiểu không tự chủ được xảy ra vào những thời điểm có thể dự đoán được. Sự kết hợp thuốc có thể làm tăng cả hiệu quả và tác dụng phụ, nên hạn chế phối hợp thuốc ở người cao tuổi. OnabotulinumtoxinA được điều trị bằng tiêm qua nội soi bàng quang vào cơ trơn bàng quang và rất hiệu quả trong điều trị chứng tiểu không tự chủ mà ít đáp ứng với các liệu pháp điều trị khác ở bệnh nhân có các nguyên nhân thần kinh (ví dụ, đa xơ cứng Xơ cứng rải rác (MS) Xơ cứng rải rác (MS) được đặc trưng bởi mất các mảng myelin ở não và tủy sống. Các triệu chứng thường gặp gồm những bất thường về vận nhãn, dị cảm, yếu cơ, co cứng, rối loạn tiểu tiện và rối... đọc thêm

Chổ đuờng tiểu có 1 nhỏ là gì
, rối loạn chức năng tủy sống Chấn thương cột sống Chấn thương cột sống có thể gây thương tích đến tủy sống, đốt sống, hoặc cả hai. Thỉnh thoảng, tổn thương dây thần kinh kèm theo. Giải phẫu các cột của cột sống được xem xét ở nơi khác. Tổn... đọc thêm
Chổ đuờng tiểu có 1 nhỏ là gì
).

Kích thích thần kinh cùng được chỉ định cho những bệnh nhân bị tiểu gấp không tự chủ không đáp ứng với các phương pháp điều trị khác. Thần kinh cùng được cho là có tác dụng ức chế trung tâm cảm giác bàng quang. Thủ thuật bắt đầu bằng kích thích rễ thần kinh S3 qua da ít nhất 3 ngày; nếu bệnh nhân đáp ứng, máy kích thích thần kinh được cấy vĩnh viễn dưới da mông.

Kích thích thần kinh chày sau (PTNS) là một kỹ thuật tương tự điều chế điện thế thần kinh để điều trị rối loạn chức năng tiểu tiện, được phát triển như một phương pháp thay thế ít xâm lấn hơn phương pháp kích thích thần kinh cùng truyền thống. Một mũi kim được đưa vào phía trên mắt cá trong gần dây thần kinh chày sau, tiếp đó cung cấp kích thích điện thế thấp trong 30 phút hàng tuần trong khoảng 10 đến 12 tuần. Hiệu quả kéo dài của PTNS là không chắc chắn.

Phẫu thuật là phương thức cuối cùng, thường chỉ được sử dụng cho những bệnh nhân trẻ tuổi bị tiểu gấp không tự chủ rất nặng mà không đáp ứng với các phương pháp điều trị khác. Phẫu thuật tạo hình bàng quang, trong đó một phần của ruột được khâu vào bàng quang để tăng dung tích bàng quang, là phổ biến nhất. Tự đặt ống thông tiểu ngắt quãng có thể là bắt buộc nếu phẫu thuật tạo hình bàng quang làm yếu co thắt bàng quang hoặc phối hợp kém với áp lực ổ bụng (nghiệm pháp Valsalva) với sự giãn cơ thắt. Có thể làm thủ thuật cắt bỏ cơ trơn bàng quang để giảm các cơn co thắt không mong muốn. Cuối cùng, chuyển dòng nước tiểu có thể được tiến hành để điều trị cho bệnh nhân. Lựa chọn các phương pháp dựa trên sự hiện diện của các rối loạn khác, những hạn chế về thể chất, và sở thích của bệnh nhân.

Thuốc (xem bảng ) bao gồm pseudoephedrine, có thể hữu ích ở nữ giới yếu đường ra; imipramine, có thể được sử dụng cho stress hỗn hợp và tiểu gấp không tự chủ hoặc một trong hai tình trạng trên; tương tự với duloxetine. Nếu tiểu không tự chủ dưới áp lực do viêm teo niệu đạo, thuốc bôi estrogen (0,3 mg liên hợp hoặc 0,5 mg estradiol một lần/ngày trong 3 tuần, sau đó hai lần/tuần sau) thường hiệu quả.

Phương pháp tập luyện sử dụng nón âm đạo – hiện đang được nghiên cứu – các thiết bị hình nón có độ nặng tăng dần được đưa vào âm đạo và giữ lại trong 15 phút x 2 lần/ngày tạo co thắt cơ đáy chậu.

Việc điều trị phụ thuộc vào nguyên nhân gây ra tắc nghẽn đường ra, giảm hoạt của cơ trơn bàng quang, hoặc cả hai.

  • Đi tiểu hai lần (cố gắng làm rỗng bàng quang lần thứ hai trước khi rời khỏi phòng vệ sinh)
  • Nghiệm pháp Valsalva
  • Ép lên vùng trên xương mu [Phương pháp Credé] trong quá trình đi tiểu

Các phương pháp điều trị bổ sung có thể bao gồm: giảm co thắt bàng quang và thúc đẩy việc rỗng bàng quang gồm kích thích điện và bethanechol, chủ vận cholinergic. Tuy nhiên, bethanechol thường không hiệu quả và có tác dụng phụ (xem bảng ).

  • 1. Lightner DJ,Gomelsky A, Souter L, et al: Diagnosis and treatment of overactive bladder (non-neurogenic) in adults: AUA/SUFU Guideline Amendment 2019. J Urol 202(3):558-563, 2019. doi: 10.1097/JU.0000000000000309
  • 2. Staskin D, Frankel J, Varano S, et al: International phase III, randomized, double-blind, placebo and active controlled study to evaluate the safety and efficacy of vibegron in patients with symptoms of overactive bladder: EMPOWUR. J Urol 204(2):316-324, 2020. doi: 10.1097/JU.0000000000000807
  • 3. Kobashi KC, Albo ME, Dmochowski RR, et al: Surgical treatment of female stress urinary incontinence: AUA/SUFU guideline. J Urol 198(4):875-883, 2017. doi: 10.1016/j.juro.2017.06.061
  • Cần chủ động hỏi bệnh nhân về triệu chứng tiểu không tự chủ, bởi họ sẽ không tự trình bày về vấn đề này.
  • Tiểu không tự chủ không phải là hậu quả của lão hóa thông thường và cần được tiến hành khảo sát.
  • 4 loại tiểu không tự chủ là tiểu gấp không tự chủ, tiểu không tự chủ dưới áp lực, tiểu không tự chủ do bàng quang đầy, và tiểu không tự chủ do rối loạn chức năng.
  • Nhiều nguyên nhân gây tiểu không tự chủ kéo dài vẫn có thể đảo ngược được.

Ít nhất là xét nghiệm tổng phân tích nước tiểu, cấy nước tiểu, BUN và creatinine huyết thanh, và đo thể tích nước tiểu tồn dư sau khi đi tiểu trên tất cả các bệnh nhân tiểu không tự chủ.